Tải bản đầy đủ (.pdf) (164 trang)

Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở đắk lắk hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 164 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐẶNG NGUYÊN HÀ

NÂNG CAO NĂNG LỰC TƢ DUY LÝ LUẬN
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP TỈNH
Ở ĐẮK LẮK HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐẶNG NGUYÊN HÀ

NÂNG CAO NĂNG LỰC TƢ DUY LÝ LUẬN
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP TỈNH
Ở ĐẮK LẮK HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số: 62 22 03 02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Thúy Vân
XÁC NHẬN NCS ĐÃ CHỈNH SỬA THEO QUYẾT NGHỊ CỦA HỘI
ĐỒNG ĐÁNH GIÁ LUẬN ÁN TIẾN SĨ CẤP ĐHQG
Người hướng dẫn khoa học

Chủ tịch Hội đồng đánh giá


Luận án tiến sĩ

PGS.TS. Nguyễn Thị Thúy Vân

HÀ NỘI - 2019

PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Thị Thúy Vân. Các số liệu trong luận án là
trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố
trong bất cứ công trình nào khác.
Tác giả luận án

Đặng Nguyên Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 5
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án ............................................................... 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 8
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 8
5. Đóng góp mới của luận án ............................................................................ 9
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ....................................................... 9
7. Kết cấu của luận án ..................................................................................... 10
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI .................................................................................................. 11

1.1. Các công trình nghiên cứu trên phƣơng diện lý luận về tƣ duy lý
luận, năng lực tƣ duy lý luận và nâng cao năng lực tƣ duy lý luận ......... 11
1.2. Các công trình nghiên cứu về thực trạng, quan điểm và giải pháp
nâng cao năng lực tƣ duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp ............................................................................................................ 19
1.3. Khái quát các kết quả cơ bản và vấn đề đặt ra luận án tiếp tục
nghiên cứu ...................................................................................................... 27
Tiều kết chƣơng 1 .......................................................................................... 31
Chƣơng 2. NÂNG CAO NĂNG LỰC TƢ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP TỈNH – MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN ....................................................................................................... 32
2.1. Tƣ duy lý luận và năng lực tƣ duy lý luận ........................................... 32
2.1.1. Tư duy lý luận ........................................................................................ 32
2.1.2. Năng lực tư duy lý luận ......................................................................... 36
2.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc nâng cao năng lực tư duy lý luận .. 41
2.2. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh và năng lực tƣ duy lý luận
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ........................................... 47

1


2.2.1. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ........................................... 47
2.2.2. Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh53
2.2.3. Vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp tỉnh ............................................................................................... 56
2.3. Nâng cao năng lực tƣ duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp tỉnh ....................................................................................................... 61
2.3.1. Nội dung nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp tỉnh ....................................................................................... 62
2.3.2. Mục đích, chủ thể, phương thức và tiêu chí nâng cao năng lực tư duy lý

luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ....................................... 69
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 71
Chƣơng 3. NÂNG CAO NĂNG LỰC TƢ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP TỈNH Ở ĐẮK LẮK HIỆN
NAY- THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA............................ 73
3.1. Khái quát chung về tỉnh Đắk Lắk và đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk hiện nay .................................................................... 73
3.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Đắk Lắk ................................. 73
3.1.2. Tình hình đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk ......... 76
3.2. Nâng cao năng lực tƣ duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk hiện nay – thành tựu và nguyên nhân................... 80
3.2.1. Thành tựu nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk hiện nay ...................................................... 80
3.2.2. Nguyên nhân của những thành tựu trong nâng cao năng lực tư duy lý
luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk ..................... 97
3.3. Nâng cao năng lực tƣ duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk - hạn chế và nguyên nhân....................................... 99
3.3.1. Một số hạn chế trong nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk ........................................................ 99

2


3.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong nâng cao năng lực tư duy lý
luận của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk ................................ 108
3.4. Một số vấn đề đặt ra từ việc nâng cao năng lực tƣ duy lý luận của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk hiện nay ................... 112
3.4.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu phải tiếp tục nâng cao năng lực tư duy lý luận
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh trong tình hình mới với những
bất cập trong nội dung và các biện pháp để thực hiện nó. ........................... 112

3.4.2. Mâu thuẫn giữa tình hình chính trị phức tạp ở tỉnh Đắk Lắk với việc
nâng cao bản lĩnh chính trị của một số các bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở
Đắk Lắk ......................................................................................................... 116
Tiểu kết chương 3.......................................................................................... 119
Chƣơng 4. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM TIẾP
TỤC NÂNG CAO NĂNG LỰC TƢ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP TỈNH Ở ĐẮK LẮK HIỆN NAY ......... 121
4.1. Quan điểm cơ bản nhằm tiếp tục nâng cao năng lực tƣ duy lý luận
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk hiện nay ...... 121
4.1.1. Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk hiện nay phải được tiến hành thường xuyên, liên tục
thông qua đào tạo, bồi dưỡng và hoạt động thực tiễn .................................. 121
4.1.2. Tạo lập môi trường xã hội dân chủ, kích thích đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk tự giác nâng cao năng lực tư duy lý luận. 124
4.1.3. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội tạo bước chuyển biến tích
cực về đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ và nhân dân ........................ 125
4.2. Giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục nâng cao năng lực tƣ duy lý luận
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk hiện nay ...... 126
4.2.1. Tăng cường đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục lý luận chính trị
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk ........................... 126
4.2.2. Tăng cường rèn luyện cán bộ qua công tác tổng kết thực tiễn ........... 129

3


4.2.3. Mở rộng môi trường dân chủ, tập trung phát triển mạnh kinh tế- xã hội, đổi
mới công tác quy hoạch, bổ nhiệm và đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở
Đắk Lắk theo hướng chuyên nghiệp, chất lượng cao ......................................... 134
4.2.4. Tăng cường rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ............................................. 139

Tiểu kết chƣơng 4 ........................................................................................ 143
KẾT LUẬN .................................................................................................. 144
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN.................................................................... 146
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 147
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 160

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tư duy lý luận là sản phẩm riêng có của con người, được hoàn thiện và
phát triển trong hoạt động thực tiễn. Nó là quá trình tiếp cận, nắm bắt và tái
tạo hiện thực khách quan thông qua hệ thống các khái niệm, phạm trù lý luận
để phản ánh về hiện thực. Tư duy lý luận không chỉ tồn tại với tư cách là kết
quả của sự khái quát mặt bản chất, tính quy luật của hiện thực mà nó còn là
một quá trình, một phương thức để tiếp cận hiện thực trên con đường tìm
kiếm chân lý. Chính sự tái tạo lại hiện thực bằng con đường khái quát lý luận
đã làm cho đối tượng được nhận thức hiện ra trong tính chỉnh thể vẹn toàn
của nó, trong sự thống nhất nội tại của toàn bộ quá trình phát triển lịch sử dẫn
đến nó. Tư duy lý luận luôn gắn liền với thực tiễn. Tư duy lý luận thông qua
tri thức lý luận để cải tạo thực tiễn một cách khoa học và sáng tạo. Nền tảng
tư duy lý luận của mỗi quốc gia sẽ quy định nên những thành tựu khoa học và
sự phát triển toàn diện của các quốc gia đó. Chính vì vậy, Ph. Ănghen đã
khẳng định: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì
không thể không có tư duy lý luận”[64, tr. 489].
Với vai trò đặc biệt quan trọng như vậy nên việc bồi dưỡng, nâng cao
năng lực tư duy lý luận cho những chủ thể nhận thức và hoạt động thực tiễn là
rất cần thiết, nhất là đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Cán bộ lãnh

đạo, quản lý là những người đề ra chủ trương, đường lối, đồng thời cũng có
thể là người tổ chức, điều hành các hoạt động của tổ chức. Họ vừa là người
phải có năng lực bao quát các vấn đề chung lại vừa phải am hiểu thực tiễn để
có thể phát hiện các yêu cầu của thực tiễn cần giải quyết vào lý luận, tổng kết
thực tiễn, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn. Vì thế, bồi dưỡng và nâng
cao năng lực, trình độ tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
chính là cung cấp cho họ “chìa khóa” vạn năng để đảm đương chức trách,
nhiệm vụ của mình một cách tốt nhất.

5


Đắk Lắk là một tỉnh nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên, có vị trí chiến
lược quan trọng về chính trị và an ninh - quốc phòng không chỉ đối với Tây
Nguyên mà còn đối với cả nước. Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk
là những người trực tiếp gắn bó với địa phương; trưởng thành trong phong
trào quần chúng; tích luỹ được nhiều kinh nghiệm thực tiễn; hiểu rõ tâm tư
nguyện vọng, truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của các dân tộc trong
tỉnh; có khả năng phát hiện vấn đề và đưa ra các giải pháp để giải quyết
những vấn đề cụ thể, phong phú, phức tạp phù hợp với thực tiễn của địa
phương; phát huy được các điều kiện sẵn có ở địa phương. Từ những kinh
nghiệm phong phú và đa dạng có được trong quá trình hoạt động và chỉ đạo
thực tiễn, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk đã xử lý công
việc linh hoạt, sáng tạo, vừa giữ vững quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước vừa mềm dẻo trong việc giải quyết các vấn đề
của thực tiễn dựa trên điều kiện đặc thù của địa phương. Nhờ đó, Đắk Lắk,
tuy là Tỉnh có sự đa dạng về văn hóa, sắc tộc, tôn giáo, là địa phương mà các
thế lực thù địch có nhiều hoạt động chống phá, nhưng vẫn có được sự phát
triển về kinh tế - xã hội, giữ vững được an ninh chính trị và trật tự xã hội.
Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới là đưa tỉnh Đắk

Lắk trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của vùng Tây Nguyên, thì
năng lực tư duy lý luận của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở
Đắk Lắk còn có những hạn chế, bất cập, cần phải khắc phục. Quá trình sinh
sống và làm việc với điều kiện địa lý, tập tục, thói quen, điều kiện kinh tế - xã
hội đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển năng lực tư duy lý luận của cán
bộ nói chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh nói riêng ở Đắk Lắk. Hiện
nay, kinh tế của Đắk Lắk đã có bước chuyển dịch nhưng vẫn chưa tạo ra bước
phát triển mạnh mẽ do năng suất lao động chưa cao, sự phát triển đa dạng của
các thành phần kinh tế chưa được khai thác hết, hoạt động sản xuất, hoạt động
xã hội còn dựa nhiều vào tư duy kinh nghiệm. Đặc biệt địa bàn tỉnh Đắk Lắk

6


rộng, khí hậu khắc nghiệt, nhiều dân tộc cùng sinh sống, mật độ dân cư phân bố
không đồng đều, trình độ dân trí của phần đông các dân tộc thiểu số còn thấp...
Việc đề cao kinh nghiệm sống của cá nhân cộng với môi trường tự nhiên khắc
nghiệt, nhiều vấn đề chính trị- xã hội phức tạp cần sự quan tâm, chỉ đạo sát sao
của Trung ương đã hình thành nên tư duy an phận, bảo thủ, thiếu tính chủ động,
sáng tạo trong hoạt động thực tiễn của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
tỉnh, từ đó, nảy sinh tâm lý thụ động, lệ thuộc vào cấp trên, thiên về tuân thủ,
chấp hành chỉ thị của cấp trên một cách máy móc hơn là trăn trở suy nghĩ, sáng
tạo phát huy nội lực của mình trước những vấn đề do thực tiễn địa phương đặt
ra... Đây chính là những lực cản nặng nề trong quá trình bồi dưỡng và phát triển
năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk.
Ý thức được những hạn chế, yếu kém về năng lực tư duy lý luận của một
bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk nên trong thời gian qua,
Ban thường vụ tỉnh ủy Đắk Lắk và các ban ngành liên quan đã rất chú trọng
vào công tác trang bị tri thức lý luận, tổng kết thực tiễn, có nhiều biện pháp
kích thích sự sáng tạo của các chủ thể trong nhận thức và hành động... Nhiều

sáng kiến, giải pháp đã được triển khai và bước đầu mang lại kết quả khả
quan. Tuy nhiên, trước yêu cầu của tình hình mới rất cần có sự chỉ đạo kiên
quyết, năng động, sáng tạo để phát triển bứt phá đang đặt ra những yêu cầu
cao cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk.
Thực tế đó đặt ra yêu cầu của việc cần chú trọng nâng cao năng lực tư
duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk hiện nay
nhằm đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ mới. Vì lý do đó, tôi chọn đề tài: ―Nâng
cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở
Đắk Lắk hiện nay‖ làm công trình nghiên cứu của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích của luận án

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn năng lực tư duy lý luận và

7


nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
tỉnh ở Đắk Lắk, luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm
tiếp tục nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp tỉnh ở Đắk Lắk, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển của địa phương
trong giai đoạn mới.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
- Tổng quan tình hình nghiên cứu về tư duy lý luận, năng lực tư duy lý luận

và nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh.
- Nêu và phân tích một số nội dung lý luận chung về năng lực tư duy lý

luận và nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp tỉnh.

- Đánh giá thực trạng nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán

bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk hiện nay, chỉ rõ nguyên nhân và nêu
lên những vấn đề đặt ra từ thực trạng đó.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục nâng cao

năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở Đắk
Lắk hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh.
- Phạm vi: Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo

cấp tỉnh trong các tổ chức Đảng, chính quyền ở tỉnh Đắk Lắk. Số liệu khảo sát
được lấy qua các báo cáo đánh giá tổng kết của Đảng bộ, chính quyền tỉnh
Đắk Lắk từ năm 2011 trở lại đây.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cở sở lý luận của luận án
- Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ

Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam và đặc biệt là nội dung

8


của Lôgic học mác xít về tư duy, tư duy lý luận; về công tác xây dựng và phát
triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ đổi mới.
- Luận án khai thác kết quả nghiên cứu trong các công trình khoa học đã

công bố có nội dung liên quan đến luận án.

4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án

Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu của phép biện chứng duy
vật và các phương pháp nghiên cứu của các khoa học liên ngành như: Phương
pháp phân tích, tổng hợp; thống nhất lôgic - lịch sử; hệ thống - cấu trúc; khái
quát hóa, hệ thống hóa, thống kê, đối chiếu so sánh, phân tích số liệu... để
nghiên cứu.
5. Đóng góp mới của luận án
- Làm rõ một số nội dung lý luận về năng lực tư duy lý luận và nâng cao

năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung, cấp
tỉnh nói riêng.
- Luận án phân tích và luận giải ở khía cạnh Triết học nguyên nhân và

những vấn đề đặt ra từ thực trạng nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk, từ đó đề xuất một số quan
điểm và giải pháp có giá trị tư vấn cho các cấp chính quyền nhằm nâng cao
chất lượng và hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói
chung, cấp tỉnh ở Đắk Lắk nói riêng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần hoàn thiện thêm về mặt lý

luận những vấn đề liên quan đến năng lực tư duy, năng lực tư duy lý luận,
nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị tư vấn đối với các cấp Đảng,

chính quyền khi ban hành các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật
trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.


9


Luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy, nghiên
cứu những vấn đề có liên quan đến tư duy lý luận.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận án gồm 4 chương, 12 tiết.

10


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu trên phƣơng diện lý luận về tƣ duy lý luận,

năng lực tƣ duy lý luận và nâng cao năng lực tƣ duy lý luận
Nghiên cứu về vấn đề tư duy nói chung, tư duy lý luận, năng lực tư duy
lý luận và nâng cao năng lực tư duy lý luận được các nhà khoa học cả trong
nước và ngoài nước đặc biệt quan tâm với nhiều công trình có giá trị cả về lý
luận và thực tiễn.
Các học giả nước ngoài, khi nghiên cứu về tư duy chủ yếu đề cập tới
khái niệm tư duy khoa học, tư duy biện chứng, phương pháp tư duy hay tư
duy lôgic..., điều này được thể hiện qua hàng loạt các công trình của các nhà
Triết học Xô Viết nửa sau thế kỷ XX. Chẳng hạn như công trình: ―Nguyên lý
lôgic biện chứng‖[89] của M.M.Rôdentan. Đây là một trong những công trình
hệ thống hóa căn bản những nội dung của lôgic học biện chứng mác xít với tư
cách là khoa học về phương pháp tư duy khoa học. Với tư cách là đối tượng
nghiên cứu của lôgic học, tác giả khẳng định tư duy lôgic là công cụ quan
trọng giúp con người có thể nhận thức đúng và cải tạo thế giới có hiệu quả,

đồng thời tác giả cũng chỉ ra những quy luật vận động của tư duy trong mối
liên hệ không thể tách rời với hiện thực. E.V.ILencôv với công trình: ―Lôgic
học biện chứng‖ [47] đã dành 2 chương (2 bút ký): Bút ký 2: Tư duy như là
thuộc tính của thực thể; bút ký 8: Cách hiểu duy vật về tư duy..., để phân tích
cách hiểu duy vật về tư duy trên cơ sở phê phán những quan điểm sai lầm của
các nhà Triết học trước Mác, đặc biệt là Heghen trong quan niệm về tư duy.
Việc coi tư duy như là “cái tư tưởng” là quan niệm rất đặc sắc của E.V.
ILencôv khi ông cho rằng: ―Cái tư tưởng là hình thức chủ quan của hiện thực
khách quan, tức là sự phản ánh của thế giới bên ngoài vào các hình thức hoạt
động của con người, vào các hình thức ý thức và ý chí của anh ta‖ [47,

11


tr.335] từ đó khẳng định tính đúng đắn của lập trường duy vật khi coi tư duy
là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách đặc thù.
Ngoài ra, còn có các công trình như: ―Lôgic học‖ [34, tr.15] của
Đ.P.Goócki; ―Lôgic biện chứng‖ [146] của I.D.Anđrâyep; ―Phương pháp nhận
thức biện chứng‖ [91] của A.P.Septulin... Những công trình này, tùy ở góc độ
tiếp cận, đều có đề cập tới khái niệm tư duy và những đặc điểm cơ bản của tư
duy biện chứng.
Ở trong nước, nếu khái niệm tư duy là đối tượng nghiên cứu của nhiều
ngành khoa học như: Triết học, tâm lý học, sinh lý thần kinh cao cấp, ngôn
ngữ học... thì khái niệm tư duy lý luận, chủ yếu được nghiên cứu từ góc độ
Triết học, với tư cách là các trình độ khác nhau của tư duy: Tư duy kinh
nghiệm và tư duy lý luận. Một số công trình đã bước đầu chỉ ra bản chất của
tư duy lý luận, năng lực tư duy, năng lực tư duy lý luận, sự vận động của tư
duy lý luận và các yếu tố tác động tới năng lực tư duy lý luận.
Tác giả Trần Thành với công trình: ―Tư duy lý luận với hoạt động của
người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn‖ [101] cho rằng tư duy lý luận là

hình thức cao nhất của tư duy, đó là quá trình tiếp cận, nắm bắt, nhận thức và
tái tạo hiện thực khách quan bằng lý luận, bằng hệ thống khái niệm, phạm trù,
quy luật. Với tư cách là hình thức cao nhất của tư duy, tư duy lý luận nắm bắt,
tái tạo hiện thực khách quan không phải bằng những khái niệm thông thường
mà bằng những khái niệm lý luận. Theo tác giả: ―Những khái niệm này giúp
tư duy con người có thể đi sâu vào bản chất sự vật, tìm kiếm và vạch ra quy
luật của sự vật, hiện tượng. Do đó, quá trình này không phải là hành động
đơn giản, bất chợt, rời rạc mà là có quy trình, có hệ thống mang tính chỉnh
thể và tính nghệ thuật cao‖ [101, tr. 15-16]. Tác giả cho rằng, xét về nội
dung, cấu trúc tư duy lý luận có 3 nghĩa: Thứ nhất, tư duy lý luận với tư cách
là quá trình đang vận động để khám phá, nắm bắt, tái tạo hiện thực; thứ hai, tư
duy lý luận được hiểu và sử dụng như là phong cách, cách thức, phương thức

12


tư duy; thứ ba, tư duy lý luận với tư cách là một kết quả đã có, đã thành hình,
như là sản phẩm trí tuệ cao có được nhờ sự tích lũy tri thức trong hoạt động
hàng ngày của con người về hiện thực.
Trực tiếp bàn về bản chất của tư duy lý luận, tác giả Phạm Hồng Quý
trong bài: ―Tư duy lý luận và bản chất của nó‖ [88] cho rằng, tư duy lý luận
là sự khái quát hóa lý luận nên tiến gần hơn chân lý khách quan, thoát khỏi sự
lệ thuộc trực tiếp vào sự vật. Tư duy lý luận là sự phản ánh một cách sâu sắc
cái bản chất bên trong của sự vật. Xét về bản chất thì tư duy lý luận là quá
trình sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần, đi sâu vào nhận thức bản
chất, quy luật của sự vật, hiện tượng bằng cách hệ thống hóa những khái
niệm, phạm trù khoa học theo những quy luật lôgic chặt chẽ.
Tác giả Bùi Thanh Quất trong bài viết: ―Góp thêm một vài suy nghĩ về lý
luận nhận thức biện chứng duy vật‖ [82], không chỉ phân tích khái niệm tư
duy lý luận mà còn chỉ ra năm đặc điểm của tư duy lý luận. Tác giả định

nghĩa: ―Tư duy lý luận là hệ tri thức - hệ tri thức này gắn bó chặt chẽ với
nhau về mặt logic, tạo thành quan niệm hoàn chỉnh phản ảnh bản chất, các
quy luật hoạt động và phát triển của khách thể nghiên cứu đang hoạt động
sản sinh ra tri thức mới, có khả năng chỉ đạo hoạt động thực tiễn‖ [82, tr.47].
Tư duy lý luận có những đặc trưng cơ bản như: Tính khoa học; tính sáng tạo;
biết sử dụng tự giác bộ công cụ của lý tính là những khái niệm, phạm trù, phán
đoán, suy lý, các lý thuyết khoa học và vận hành dưới dạng các phương pháp,
biện pháp cụ thể dựa trên các căn cứ khoa học; gắn liền với thực tiễn, chỉ đạo
hoạt động thực tiễn.
Tác giả Trần Nhâm trong công trình: ―Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi
mới‖ [72] đã tổng kết, khái quát bối cảnh trên thế giới và ở Việt Nam trong thời
kỳ đầu của công cuộc đổi mới để nhấn mạnh, đổi mới tư duy chính là khởi đầu
của sự nghiệp đổi mới, trong đó đổi mới tư duy kinh tế là bước đột phá trong tư
duy lý luận của Đảng ta trong quá trình đổi mới. Sau khi làm rõ một số nội dung

13


của tư duy lý luận, tác giả luận bàn nhiều về vai trò của tư duy lý luận, khi cho
rằng: ―Mỗi bước phát triển của lý luận được đánh dấu bằng sự ra đời của
những luận điểm mới và được thực tiễn thẩm định. Do đó, nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn đều nhằm dự báo một cách khoa học các quá trình khách quan
đã, đang và sẽ vận động theo đúng xu thế phát triển của nó‖ [72, tr. 193].
Tác giả Nguyễn Thanh Tân trong cuốn sách: ―Lôgic vận động của khái
niệm trong tư duy lý luận‖ [96] trên cơ sở phân tích các khái niệm tư duy, tư
duy lý luận, tác giả chỉ ra các quy luật vận động cơ bản của khái niệm trong
tư duy lý luận, các chiều hướng cơ bản của sự vận động khái niệm trong tư
duy lý luận. Theo tác giả, tư duy lý luận là tư duy ở trình độ cao, là sự phản
ánh cái bản chất, tính quy luật của đối tượng trong quá trình phát triển. Tư
duy lý luận luôn vận động theo khách thể mà nó phản ánh, đồng thời cũng

vận động theo những quy luật của riêng nó, biểu hiện thông qua lôgic vận
động của các khái niệm theo xu hướng: Sự vận động của khái niệm theo nhiều
chiều hướng làm sâu sắc thêm nội hàm và mở rộng ngoại diên; trong tương
tác với nhau, các khái niệm vận động theo hướng sản sinh ra khái niệm mới;
sự vận động của khái niệm theo hướng bổ sung, đổi mới tri thức và hiện thực
hóa trong quan hệ với thực tiễn. Từ nội dung và ý nghĩa của vấn đề nghiên
cứu, tác giả rút ra kết luận: Các quy luật và chiều hướng có tính quy luật của
sự vận động khái niệm, cũng hợp thành lôgic đổi mới, phát triển tư duy lý
luận nói chung. Do vậy, việc nghiên cứu lôgic vận động của khái niệm là cơ
sở để xác định phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm đổi mới, phát
triển tư duy lý luận.
Khái niệm tư duy lý luận còn được tiếp cận ở góc độ tư duy biện chứng
như là hạt nhân cốt lõi của tư duy lý luận. Tác giả Nguyễn Bá Dương trong
bài: ―Về đặc trưng của tư duy biện chứng duy vật‖ [22] đã phân tích năm đặc
trưng cơ bản của tư duy biện chứng duy vật: “Tư duy biện chứng duy vật là
loại hình tư duy phát triển cao nhất so với các hình thức tư duy trong lịch sử;

14


phản ánh hiện thực đang vận động, biến đổi; phản ánh đúng sự vận động, phát
triển và những mâu thuẫn vốn có của thế giới khách quan; tư duy biện chứng
có tính khách quan; nó là tư duy khoa học, cách mạng, có tính phê phán và
chiến đấu cao” [22]. Tác giả cho rằng, tư duy biện chứng duy vật có vai trò
quan trọng trong nhận thức và cải tạo thế giới. Theo tác giả, tư duy biện
chứng duy vật là cơ sở, nền tảng để con người nhận thức và cải tạo thực tiễn;
tư duy biện chứng duy vật chính là la bàn định hướng giúp con người nhận
thức và hoạt động thực tiễn có hiệu quả.
Tác giả Trần Đình Thỏa trong bài: ―Một số vấn đề tư duy biện chứng
mácxít‖ [104] đã tiếp cận dưới góc độ lịch sử hình thành, phát triển của tư duy

biện chứng; so sánh với các hình thức tư duy khác (như tư duy biện chứng cổ
đại tự phát, tư duy siêu hình, tư duy biện chứng duy tâm); chỉ ra sự khác biệt
của tư duy biện chứng duy vật với các hình thức tư duy khác ở các đặc trưng cơ
bản như tính khách quan; tính toàn diện; tính lịch sử; sự thống nhất giữa lịch sử
và lôgic; quá trình đi từ trừu tượng đến cụ thể. Tác giả khẳng định, để tiến hành
đổi mới tư duy hiệu quả, chúng ta phải loại bỏ tư duy kinh nghiệm, siêu hình,
duy tâm, xây dựng tư duy lý luận khoa học - tư duy biện chứng mác xít. Bởi vì,
tư duy biện chứng mác xít trang bị cho chủ thể nhận thức phương pháp tư duy
khoa học trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, góp phần tích cực vào việc
giải quyết những nhiệm vụ đổi mới mà đất nước đang đặt ra hiện nay.
Tác giả Nguyễn Thúy Vân trong bài: ―Góp thêm cách hiểu về tư duy‖
[139], trên cơ sở phân tích các đặc trưng của tư duy từ cách tiếp cận duy vật
biện chứng đã nhấn mạnh: Một trong những nét đặc trưng nhất của tư duy thể
hiện ở chỗ tư duy không chỉ là sự phản ánh, mà còn là một quá trình, một hoạt
động. Nó không chỉ nhận thức bản thân hiện thực tự nó, mà còn là quá trình
tiến tới cái mới (cái được tạo ra từ quá trình nhận thức, có một phần nguyên
mẫu từ hiện thực, nhưng đã được cải biến, sáng tạo), đó chính là một trong
những phẩm chất của tư duy ở trình độ cao, tư duy lý luận.

15


Từ khi đất nước ta bước vào quá trình đổi mới, khái niệm tư duy lý luận
lại được nhấn mạnh ở khía cạnh đổi mới tư duy cho theo kịp với sự phát triển
của hiện thực với các công trình tiêu biểu như: Tác giả Hoàng Tùng với bài
viết: ―Đổi mới tư duy lý luận và công tác xây dựng Đảng‖ [128] cho rằng đổi
mới tư duy lý luận là tiền đề quan trọng nhằm khắc phục sự chậm trễ về lý
luận. Trên cơ sở phân tích về tính cấp thiết phải đổi mới tư duy lý luận tác giả
đi đến nhận định: ―Đảng ta đã đúng đắn khi tiến hành công cuộc đổi mới
toàn diện và triệt để nền kinh tế - xã hội của đất nước. Để thực hiện thành

công nhiệm vụ cốt lõi đó, trước hết chúng ta cần phải đổi mới tư duy lý luận
và đổi mới công tác xây dựng Đảng‖ [128, tr.45]. Tác giả khẳng định vai trò
quan trọng của tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và
trong công tác xây dựng Đảng nói riêng, làm cho Đảng ta thực sự trong sạch
vững mạnh, trở thành một Đảng trí tuệ, có đủ trình độ và năng lực lãnh đạo
thành công công cuộc đổi mới đất nước.
Tập thể tác giả Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh với cuốn sách:
―Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay” [45] đã
phân tích tác động của tình hình thế giới và trong nước tới công cuộc đổi mới,
làm rõ thời cơ, thách thức và những đặc điểm chủ yếu của công cuộc đổi mới
ở Việt Nam, luận chứng đổi mới để phát triển là một quyết sách chiến lược
của Đảng. Các tác giả đề cập một cách hệ thống về vai trò của lý luận và tư
duy lý luận đối với công cuộc đổi mới; phân tích quá trình đổi mới tư duy lý
luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
thời kỳ trước đổi mới và trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986 tới nay. Công
trình làm rõ quan điểm đổi mới tư duy lý luận của Đảng trên các lĩnh vục, từ
mô hình kinh tế, cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế đến các lĩnh vực
chính trị, văn hóa, xã hội, xây dựng con người, quốc phòng, an ninh và đối
ngoại. Đánh giá tổng quát ưu điểm, hạn chế và kinh nghiệm của quá trình đổi
mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 tới nay, nêu lên phương hướng và những

16


giải pháp chủ yếu nhằm phát triển và hoàn thiện lý luận trong giai đoạn hiện
nay. Công trình khẳng định vai trò to lớn của tư duy lý luận đối với sự lãnh
đạo của Đảng trong quá trình đổi mới đất nước. Nó sẽ được Đảng, Nhà nước,
các cấp, các ngành, các lực lượng phát huy hơn nữa và đem lại nhiều thành
quả trong giai đoạn đổi mới hiện nay.
Tác giả Trần Hữu Tiến trong công trình: ―Mấy vấn đề cấp bách đổi mới

tư duv lý luận‖ [106] đã phân tích nguyên nhân, biện pháp, phương hướng
khắc phục những căn bệnh trong tư duy lý luận của chúng ta. Tác giả phân
tích các nguyên nhân khách quan và chủ quan của các căn bệnh trên. Nguyên
nhân chủ quan là ở chỗ, chúng ta chưa phát huy tốt vai trò tư duy lý luận, mất
cảnh giác, bảo thủ, lạc hậu; hoạt động lý luận không dân chủ do cơ chế bao
cấp, công tác đào tạo cán bộ còn lạc hậu. Nguyên nhân khách quan là do tính
mới mẻ của sự nghiệp xây dựng CNXH; do nền kinh tế vốn đã lạc hậu lại bị
chiến tranh tàn phá nặng nề, do trình độ văn hóa của người Việt Nam còn
thấp; do sự lạc hậu về công tác tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận xây dựng
CNXH. Tác giả cho rằng, biện pháp khắc phục các căn bệnh trên là cần phải
quán triệt tinh thần khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin; phân
tích thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước; kết hợp đổi mới tư duy kinh tế
và tư duy chính trị; đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận,
dân chủ hóa trong khoa học và đời sống.
Bàn về khái niệm năng lực tư duy, năng lực tư duy lý luận và nâng cao
năng lực tư duy lý luận. Tác giả Nguyễn Ngọc Long trong công trình:
―Chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, khắc phục bệnh kinh nghiệm và giáo
điều trong quá trình đổi mới tư duy lý luận'' [56] đã cho rằng năng lực tư duy
là tổng hợp những phẩm chất trí tuệ đáp ứng yêu cầu nhận thức thế giới và
bản thân con người, bảo đảm cho hành động sáng tạo của mình. Tác giả
khẳng định năng lực tư duy là những phẩm chất trí tuệ chứ không bao hàm tất
cả phẩm chất nói chung. Do đó, chủ thể nhận thức sẽ có điều kiện thuận lợi

17


hơn khi đi sâu nghiên cứu về bản chất của tư duy; đồng thời cũng chỉ rõ năng
lực tư duy không chỉ giúp chủ thể khám phá thế giới và nhận thức về bản thân
mình mà còn giúp họ đạt hiệu quả cao trong hoạt động sáng tạo, giải quyết
được những vấn đề thực tiễn đặt ra đem lại kết quả cao trong công việc, đạt

tới trình độ đó, tư duy đã ở trình độ của tư duy lý luận.
Tác giả Nguyễn Đình Trãi trong luận án: "Nâng cao năng lực tư duy lý
luận cho cán bộ giảng dạy lý luận Mác — Lênin ở các trường Chính trị tỉnh"
[125] sau khi phân tích những dấu hiệu đặc trưng cơ bản của năng lực tư duy
lý luận đã cho rằng: "Năng lực tư duy lý luận là tổng họp các phẩm chất trí
tuệ của chủ thể có thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức nhanh, nhạy,
đúng đắn và sáng tạo đối với hiện thực, nhờ vậy, có những đề xuất sắc bén,
góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn của con người" [125, tr.28]
Công trình: "Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp xã hiện nay" [98] của tác giả Hồ Bá Thâm là một trong những công
trình đã phân tích một cách có hệ thống những yêu cầu của việc phải nâng cao
năng lực tư duy. Tác giả cho rằng, ngoài yêu cầu thực tiễn như là nhân tố
khách quan thì những yêu cầu cho chủ thể tư duy cũng rất quan trọng, giúp
chủ thể có thể tích cực, chủ động trong việc nâng cao năng lực tư duy của
chính mình.
Tác giả Vũ Văn Viên trong bài báo: ―Nâng cao năng lực tư duy khoa
học cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo - một yếu tố quan trọng để nâng cao năng
lực lãnh đạo của Đảng" [142] khi phân tích những đặc điểm của tư duy khoa
học cho thấy những điểm tương đồng trong các dấu hiệu bản chất của nó với
tư duy lý luận. Tác giả cho rằng: ―Năng lực tư duy khoa học là tổng hợp các
phẩm chất tâm, sinh lý trí tuệ, kỹ năng tư duy lôgic của chủ thể nhằm đáp ứng
các yêu cầu phát hiện và giải quyết một vấn đề nào đó do khoa học và thực
tiễn đặt ra phù hợp với các quy luật vận động khách quan đạt hiệu quả cao
nhất‖ [142]. Trên cơ sở đó, tác giả phân tích, chỉ rõ các yếu tố hợp thành

18


năng lực tư duy khoa học (như năng lực phương pháp luận chung; năng lực tư
duy lôgic; năng lực vận dụng, tổng kết thực tiễn; năng lực tri thức). Tác giả

khẳng định, nâng cao năng lực tư duy khoa học cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo
là yếu tố quan trọng để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng ta hiện nay. Tác
giả cũng chỉ ra cho thấy có năng lực tư duy khoa học thì đội ngũ cán bộ lãnh
đạo mới có thể xây dựng đường lối, chủ trương, kế hoạch chiến lược thuộc
phạm vi họ quản lý; nâng cao năng lực tổ chức và tổng kết thực tiễn.v.v..
Ngoài ra, liên quan đến mảng nghiên cứu này còn có một số bài tạp chí
tiêu biểu như: ―Đổi mới tư duy lý luận - động lực tinh thần của sự nghiệp đổi
mới‖ [54] của tác giả Trương Giang Long; ―Tư duy lý luận của Đảng về phát
triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong tiến trình đổi mới‖ [79] của tác
giả Nguyễn Trọng Phúc... Các bài viết trên đã luận giải làm rõ yêu cầu cấp
thiết phải đổi mới tư duy lý luận và phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm
nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay; trình bày một
cách hệ thống, làm nổi bật bản chất của tư duy lý luận; tính tất yếu khách
quan phải đổi mới, phát triển, hoàn thiện tư duy lý luận trong thời kỳ đổi mới.
Các tác giả khẳng định, đổi mới, phát triển tư duy lý luận là mệnh lệnh của
cuộc sống, thực tiễn cách mạng Việt Nam đang đặt ra yêu cầu cấp thiết nhằm
đưa công cuộc đổi mới của đất nước thành công.
1.2. Các công trình nghiên cứu về thực trạng, quan điểm và giải pháp
nâng cao năng lực tƣ duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp
Tác giả Ngô Đình Xây với bài viết: "Vài nét về thực trạng tư duy lý luận
ở nước ta‖ [144] đã tập trung phân tích thực trạng còn nhiều yếu kém, những
lỗ hổng trong trình độ tư duy lý luận ở nước ta trong những năm đầu đổi mới.
Tác giả đã khái quát một số nét đặc trưng trong thực trạng tư duy lý luận ở
nước ta như sau: “Sự chủ đạo của tư duy định tính tiền định lượng là nét đặc
trưng đầu tiên của thực trạng tư duy lý luận hiện nay ở nước ta... Đặc trưng

19



thứ hai của thực trạng tư duy lý luận hiện nay ở nước ta là thiên về “lập” yếu
về “luận”... Kiểu tư duy lý luận với một cực là tình trạng sách vở - giáo điều
và cực kia là thực tiễn vụn vặt là nét nổi bật thứ ba trong thực trạng lý luận
(và cũng là của tư duy lý luận) ở nước ta hiện nay [144, tr. 32 -34].
Tác giả Trần Thành với cụm công trình: "Tư duy lý luận với hoạt động
của người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn‖ [101] và "Tư duy lý luận của
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh hiện nay - thực trạng và giải pháp‖ [103]
đã nhấn mạnh mối quan hệ không thể tách rời giữa người cán bộ lãnh đạo
thực tiễn với trình độ, năng lực tư duy lý luận của họ. Theo tác giả, một trong
những phẩm chất nổi trội của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh đó là
khả năng nắm bắt thực tiễn, tổng kết thực tiễn, khái quát nó thành những vấn
đề lý luận. Khái quát về vai trò của tư duy lý luận đối với đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp tỉnh, tác giả khẳng định: Tư duy lý luận đối với đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh, như là chìa khóa mở ra hoạt động nhận thức và
thực tiễn một cách hiệu quả; nhận thức đúng đắn đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có khả năng phân tích, luận giải
để nắm được bản chất của đường lối, chính sách đó; có đủ năng lực phân tích
sự phong phú, đa dạng và phức tạp của thực tiễn cuộc sống nhằm vận dụng
sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
vào địa bàn mình phụ trách. Tác giả cho rằng tư duy biện chứng duy vật là hạt
nhân cốt lõi của tư duy lý luận. Vì vậy, nâng cao năng lực tư duy biện chứng
duy vật cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở nuớc ta hiện nay là
nhiệm vụ cấp bách góp phần đưa công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc thành
công. Tác giả cho rằng những nhân tố ảnh hưởng đến tư duy lý luận của
người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta là tư duy truyền thống [103, tr.66].
Phân tích về những yếu tố ảnh hưởng tới tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp tỉnh ở nước ta, tác giả cho rằng năng lực tư duy lý luận của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh chịu ảnh hưởng của các yếu tố như:

20



Nền sản xuất nhỏ, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và những hạn chế của
công tác giáo dục lý luận chính trị...Từ những tác động ảnh hưởng này, theo
tác giả một trong những nhiệm vụ đặt lên hàng đầu của sự nghiệp đổi mới ở
nước ta là phải đổi mới để nâng cao năng lực tư duy lý luận. Ở một khía cạnh
khác, yếu tố bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cũng
được đề cập tới như một năng lực của người lãnh đạo, quản lý mà để có được
bản lĩnh chính trị thì phải trải qua thực tiễn quản lý, quá trình học tập, tu
dưỡng và chịu sự tác động của những điều kiện kinh tế - xã hội. Khi phân tích
về thực trạng tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn tác
giả cho rằng: Tình trạng chưa “ngang tầm”, “bất cập” về trình độ, năng lực tư
duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý biểu hiện trên nhiều mặt: “Một là
mức độ nắm bắt và chuyển hóa kiến thức lý luận thành tư duy, suy nghĩ còn
hạn chế...Hai là việc nhận thức và vận dụng đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước vào việc xây dựng các chủ trương, chính sách phát triển kinh tếxã hội cụ thể trong thực tiễn cuộc sống còn có những biểu hiện giáo điều,
kinh nghiệm chủ nghĩa...Ba là năng lực tổ chức thực tiễn, tổng kết thực tiễn
còn nhiều bất cập”[101, tr. 105 - 110].
Tác giả Nguyễn Tĩnh Gia trong bài viết: ―Bồi dưỡng nâng cao năng lực
tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh‖ [33] cho rằng
tư duy lý luận đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh là điều kiện
quan trọng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của họ. Theo tác
giả để nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp tỉnh cần thực hiện các giải pháp: ―Một là, cải cách một cách cơ bản
chương trình, giáo trình, giáo khoa về lý luận chính trị và công tác giáo dục
lý luận chính trị hiện nay; hai là, đầu tư thỏa đáng cho việc cải cách các
chương trình, giáo trình, giáo khoa theo hướng rèn luyện và nâng cao trình
độ tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo, quản lý; ba là, chương trình lý luận
chính trị dùng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý phải xuất phát từ nhu cầu của cơ


21


sở và đối tượng đào tạo để cấu trúc; bốn là, phải đưa cán bộ đi thực tế để
tham gia vào các hoạt động thực tiễn ở tầm khác nhau; năm là, việc nâng cao
năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý không chỉ đúng
mà còn phải trúng‖ [33].
Tác giả Vũ Văn Viên, qua công trình: ―Nâng cao năng lực tư duy khoa
học cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo - một yếu tố quan trọng để nâng cao năng
lực lãnh đạo của Đảng‖ [142] đã đề xuất để nâng cao năng lực tư duy khoa
học cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cần thực hiện đồng bộ một số biện pháp cơ
bản sau: ―Thứ nhất, tăng cường trang bị hệ thống tri thức thế giới quan,
phương pháp luận chung nhất của Triết học Mác - Lênin, tri thức về lịch sử
Triết học; thứ hai, nâng cao năng lực tư duy lôgic thông qua việc học tập
lôgic hình thức; thứ ba, nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn qua việc giải
quyết các vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra; thứ tư, tạo dựng môi trường
xã hội thuận lợi để thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội, nâng cao chất
lượng tuyển dụng và sử dụng, bố trí cán bộ; thứ năm, nâng cao hiểu biết về
khoa học và công nghệ hiện đại cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo bằng cách đào
tạo, đào tạo lại và tự đào tạo ở mỗi cán bộ‖ [142].
Trong công trình “Tổng kết thực hiện nghị quyết 01-NQ/TW của Bộ
chính trị về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay‖[31], ngoài phần trình
bày những vấn đề chung về công tác lý luận các tác giả đã dành phần lớn nội
dung trình bày thực trạng và giải pháp đào tạo lý luận chính trị ở nước ta
trong thời gian qua. Các tác giả đề xuất nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo lý luận chính trị như: “Tăng cường đổi mới nội dung, chương
trình, phương pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các môn lý luận
chính trị” [31].
Nghiên cứu về đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp cũng như thực
trạng năng lực tư duy lý luận và nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ

cán bộ này còn được triển khai nghiên cứu ở các địa phương trong cả nước.

22


×