Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

Đánh giá của du khách về phát triển bền vững du lịch lễ hội hoa tại bà nà hill đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.27 KB, 75 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của quý thầy cô Khoa Du Lịch-Đại Học sau 4 tháng
thực tập em đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp “Đánh giá của du khách về
phát triển bền vững du lịch lễ hội Hoa tại Bà Nà hill-Đà Nẵng”
Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, ngoài sự nỗ lực học hỏi của bản thân
còn có sự hướng dẫn tận tình của thầy cô.
Em chân thành cảm ơn Cô giáo – TS. Lê Thị Kim Liên, người đã hướng
dẫn cho em trong suốt thời gian thực tập. Mặc dù Cô bận dạy trên giảng đường
và đi công tác nhưng không ngần ngại chỉ dẫn em, định hướng đi cho em, để em
hoàn thành tốt nhiệm vụ. Một lần nữa em chân thành cảm ơn Cô và chúc Cô dồi
dào sức khoẻ.
Xin cảm ơn tất cả các bạn bè, thư viện, công ty đã giúp đỡ, dìu dắt em trong
suốt thời gian qua. Tất cả các mọi người đều nhiệt tình giúp đỡ, đặc biệt ở Công
ty dịch vụ cáp treo Bà Nà mặc dù số lượng công việc của công ty ngày một tăng
lên nhưng công ty vẫn dành thời gian để hướng dẫn rất nhiệt tình.
Tuy nhiên vì kiến thức chuyên môn còn hạn chế và bản thân còn thiếu
nhiều kinh nghiệm thực tiễn nên nội dung của báo cáo không tránh khỏi những
thiếu xót, em rất mong nhận sự góp ý, chỉ bảo thêm của quý thầy cô.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 4 năm 2019
Sinh viên thực hiện
Lê Thị Hương

1
SVTT: Lê Thị Hương

1



Lớp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố
theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong chuyên đề do tôi tự tìm hiểu,
phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt
Nam. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Sinh viên thực hiện

Lê Thị Hương

2
SVTT: Lê Thị Hương

2

Lớp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên


MỤC LỤC

3
SVTT: Lê Thị Hương

3

Lớp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

DANH MỤC BẢNG

4
SVTT: Lê Thị Hương

4

Lớp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

DANH MỤC BIỂU ĐỒ


5
SVTT: Lê Thị Hương

5

Lớp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

DANH MỤC HÌNH VẼ

6
SVTT: Lê Thị Hương

6

Lớp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

PHẦN MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Nghị quyết hội nghị lần thứ V ban chấp hành trung ương khóa VIII đề ra
mục tiêu xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân

tộc. Trong đó nghị quyết cũng khẳng định rõ vai trò của văn hóa “Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội”. Là một trong những thành tố quan trọng của văn hóa, lễ hội
không chỉ đáp ứng đời sống tinh thần của con người mà nó mang giúp cho kinh
tế-xã hội không ngừng phát triển.
Theo thống kê 2009, hiện cả nước Việt Nam có 7.966 lễ hội; trong đó có
7.039 lễ hội dân gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ
hội tôn giáo (chiếm 6,28%), 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn
lại là lễ hội khác (chiếm 0,5%). Theo thống kê này mỗi ngày nước ta có đến hơn
20 lễ hội chưa kể tới những lễ hội tổ chức một, hai ngày trong năm có những lễ
hội kéo dài cả tuần, cả tháng thu hút đông đảo người dân cũng như du khách
trong và ngoài nước tham gia. Trong giai đoạn hiện nay bên cạnh việc duy trì và
phát triển các lễ hội truyền thống thì phát triển các lễ hội hiện đại là một việc
không thể thiếu đối với một nước đang phát triển như ở Việt Nam.
Trong vòng 10 - 15 năm trở lại đây, lễ hội đương đại hay còn được gọi với
rất nhiều tên khác: lễ hội hiện đại, lễ hội mới, lễ hội đại chúng, liên hoan,
festival... xuất hiện ngày càng nhiều ở Việt Nam. Theo thống kê của Bộ VH-TT
và DL, hiện cả nước có khoảng 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài, chiếm 0,13%
trong tổng số các loại lễ hội. Nhìn chung, các lễ hội du nhập thể hiện sự hội nhập
mang tính tự nhiên và thú vị. Khi thế giới không có bức tường ngăn cách thì sự
giao lưu, hòa nhập sẽ tạo nên sự phong phú cho đời sống văn hóa người Việt. Các
lễ hội được nhiều người biết đến như: Festival Huế, Festival Pháo hoa quốc tế Đà
Nẵng, Valentine (Lễ tình nhân), Noel (Lễ giáng sinh), Halloween (Lễ hội hóa
trang), Lễ hội Thời trang và Công nghệ, Lễ hội Ánh sáng và các cuộc liên hoan
7
SVTT: Lê Thị Hương

7

Lớp: K49-KTDL



Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

văn hoá các dân tộc toàn quốc hoặc khu vực, do Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch
phối hợp với các địa phương tổ chức. Một số lễ hội có mời cả đại diện một số
nước tham gia. Một số lễ hội hiện đại được du nhập từ phương Tây như là Lễ hội
Thời trang và Công nghệ, Lễ hội Ánh sáng, được "khai sinh" năm 2017. Theo đại
diện Sở Du lịch TP Hồ Chí Minh (đơn vị tổ chức) đây là 2 lễ hội hiện đại du
nhập từ phương Tây, được Việt hóa để phù hợp với điều kiện Việt Nam. Lễ hội
Thời trang và Công nghệ được tổ chức lần đầu từ ngày 20 đến 22-10-2017. Còn
Lễ hội Ánh sáng diễn ra vào đêm cuối cùng của năm, ngày 31-12-2017. Đêm đó,
có tới 50.000 người đổ ra đường tham dự, trầm trồ trước sự ảo diệu của ánh sáng
và những màn biểu diễn nghệ thuật.
Tần suất của loại hình lễ hội này diễn ra quanh năm, ở khắp các vùng miền
của Tổ quốc; phong phú, đa dạng cả về tên gọi, số lượng, quy mô, tầm vóc, phạm
vi, nội dung và hình thức thể hiện, ngay một lúc khó có thể thống kê đầy đủ và
đánh giá một cách thực sự toàn diện, chính xác tác động và hiệu quả kinh tế - xã
hội của lễ hội đương đại nói chung và của từng lễ hội cụ thể nói riêng. Sự ra đời
của lễ hội đương đại là nhu cầu tất yếu khách quan, là sự cần thiết của một đất
nước đang chuyển mình mạnh mẽ trong thời kỳ hội nhập và phát triển, là sự sáng
tạo nhằm đáp ứng các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, là cơ hội để quảng bá
hình ảnh đất nước, con người, tiềm năng, thế mạnh của địa phương và đất nước
với bạn bè quốc tế. Lễ hội đương đại cũng góp phần làm giàu thêm kho tàng đồ
sộ hơn 8.000 lễ hội các loại hàng năm của cả nước.
Bà Nà là một vùng núi cao thuộc về dãy núi Trường Sơn của thành phố Đà
Nẵng. Theo số liệu từ công ty, trung bình mỗi ngày có 5.000 lượt khách đến Bà
Nà Hills. Vào mùa cao điểm và lễ đón từ 18.000 – 20.000 lượt khách. Khách du

lịch đến với Bà nà hills chủ yếu là khách Hàn Quốc, Trung Quốc và khách nội
địa, gần đây có rất nhiều du khách phương Tây và khách Thái Lan đến đây vì sự
nổi tiếng của cây cầu Vàng. Du khách đến đây không chỉ để được trải nghiệm
tuyến cáp treo dài gần 6000m, chiêm ngưỡng cây Cầu Vàng được nhiều tờ báo
nổi tiếng trên thế giới nói đến mà một đặc điểm nổi bật nữa của Bà Nà hills thu
8
SVTT: Lê Thị Hương

8

Lớp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

hút nhiều khách du lịch đó là không khí lễ hội. Bà Nà thay đổi từng ngày như
mùa lễ hội của nó, lễ hội thay đổi theo từng mùa trong năm như lễ hội Hoa được
tổ chức khoảng từ tháng 02 đến tháng 03 hàng năm, lễ hội bia B’estival thời gian
tổ chức là vào tháng 05 đến tháng 09 hàng năm, lễ hội Halloween thời gian tổ
chức là khoảng từ tháng 9 đến tháng 10 hàng năm, lễ hội Mùa Đông, thời gian tổ
chức từ tháng 11 đến tháng 12 hàng năm.
Được xem như là “xứ sở ngàn hoa” hành trình quy hoạch cảnh quan từ năm
2012 với việc nhập mới các giống hoa từng được người Pháp trồng ở Đà Lạt như
păng- xê, viola, forget me not, tường vi, phong lữ... nhưng phải đến 2015, công
cuộc “khoác áo mới” cho Bà Nà Hills mới thực sự được làm ráo riết. Từ chỗ có
vỏn vẹn gần 10 giống hoa bản địa, đến nay, Bà Nà đã có hàng trăm loài khác
nhau đua nở trên đỉnh cao gần 1.500 m. Hệ thống vườn ươm rộng cả hecta được
bố trí làm nơi thử nghiệm các giống mới. Với lợi thế về khí hậu những loài hoa ở

đây phát triển rất tốt, không chỉ đơn thuần là trồng hoa ở khu du lịch mà Bà Nà
hills còn tổ chức các mùa Lễ Hội Hoa hằng năm trong khoảng từ tháng 2 đến
tháng 3. Lễ hội Hoa thường được tổ chức ở đầu năm nên rất thu hút khách du lịch
đến đây tham quan và mang lại những phản hồi tích cực về lễ hội khi kết thúc
chuyến du lịch của mình.
Ngày 15/5/2014, tại Khu du lịch Bà Nà Hills vừa chính thức khai mạc Lễ
hội hoa lần thứ nhất với quy mô lớn tại vườn hoa Le Jardin D’Amour. Lễ hội kéo
dài trong ba tháng (từ 15/5 – 15/8/2014). Vườn hoa Le Jardin D’Amour (Vườn
hoa Tình yêu) được thiết kế như một thung lũng hoa đa dạng, phân chia thành
các khu: vườn Bí ẩn, vườn Uyên Ương, vườn Suy Tưởng, vườn Thần Thoại, vườn
Thiêng, vườn Địa Đàng, nhà Thư Giãn, nhà Tĩnh Tâm, vườn Nho, vườn Ký Ức,
quảng trường Ước hẹn… Mỗi khu vườn đều mang một sắc thái, cách trình bày
chủ đề khác nhau.
Lợi thế về thời tiết thuận tiện một ngày bốn mùa, khí hậu mát mẻ được
xem như “Đà Lạt giữa thành phố Đà Nẵng”. Nên việc phát triển du lịch lễ hội ở
đây là rất cần thiết và việc đánh giá của du khách về phát triển bền vững du lịch
9
9
SVTT: Lê Thị Hương

Lớp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

lễ hội Hoa là một việc làm quan trọng để duy trì và phát triển vẻ đẹp sẵn có của
những loài hoa ở Bà Nà và giới thiệu nó đến bạn bè quốc tế.
Bên cạnh các vấn đề trên, công tác đánh giá và nhìn nhận các vấn đề thiếu

bền vững trong các mô hình du lịch tại Việt Nam vẫn còn hạn chế, phương pháp
đánh giá chưa có cơ sở chặt chẽ, và hiển nhiên các giải pháp được đề xuất để
nâng cao tính bền vững cho các điểm du lịch vẫn chưa cụ thể. Chính vì các lý do
trên, tác giả đã lựa chọn thực hiện đề tài “Đánh giá của du khách về phát triển
bền vững du lịch lễ hội Hoa tại Bà Nà hills-Đà Nẵng” nhằm tìm kiếm và áp dụng
một phương pháp đánh giá bài bản dựa trên cơ sở định lượng để phát hiện các
khía cạnh thiếu bền vững, qua đó đề xuất các biện pháp cải thiện cần thiết. Đồng
thời, đây cũng là căn cứ để rút ra bài học cho các mô hình phát triển bền vững du
lịch lễ hội khác đối với mục tiêu phát triển một cách an toàn và ổn định trong
tương lai.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mục tiêu chung
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đánh giá của du khách về phát triển bền
vững du lịch lễ hội Hoa tại Bà Nà hills. Từ đó đề xuất một số phương án để phát
triển bền vững du lịch lễ hội này tại khu du lịch cáp treo Bà Nà.
2. Mục tiêu cụ thể


Hệ thống hóa cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về phát triển du lịch bền vững lễ

hội Hoa Bà Nà hills.
• Đánh giá mức độ tác động của các nhân tố đến sự đánh giá của du khách về phát
triển du lịch bền vững lễ hội Hoa tại Bà Nà hills.
• Đề xuất một số phương án nhằm phát triển bền vững du lịch lễ hội Hoa tại Bà Nà
hills.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng


Đối tượng nghiên cứu là sự đánh giá của du khách về phát triển du lịch bền vững

lễ hội Hoa-Bà Nà.
10
SVTT: Lê Thị Hương

10

Lớp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp


GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

Đối tượng điều tra là khách du lịch tại khu du lịch cáp treo Bà Nà.

b. Phạm vi nghiên cứu


Không gian: Tại khu du lịch cáp treo Bà Nà hills.



Thời gian: Đề tài thu thập số liệu sơ cấp từ giữa tháng 2-2019 đến tháng 3 năm
2019. Những số liệu thứ cấp được thu thập từ 2016-2018.
4. Phương pháp nghiên cứu

a. Phương pháp thu thập số liệu
• Số liệu thứ cấp


- Các số liệu về khách du lịch của công ty dịch vụ cáp treo Bà Nà và tình
hình hoạt động du lịch tại công ty.
- Các tài liệu liên quan từ Sở du lịch, Ngành du lịch ...và các tài liệu thống
kê từ internet, sách báo, tạp chí du lịch.


Số liệu sơ cấp
- Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu ngẫu nhiên thông qua việc phát bảng
hỏi ngẫu nhiên cho các khách du lịch.
- Quy mô mẫu: Nhóm điều tra mẫu.
b. Phương pháp phân tích và xử lý sô liệu
Đề tài sử dụng phương pháp phân tích thống kê bằng phần mềm SPSS để
phân tích và xử lý số liệu bao gồm:
- Sử dụng thang đo likert (1-5)
- Thống kê mô tả:
Tần suất (Frequencies)
Phần trăm (Percent)
Giá trị trung bình (Mean)
- Kiểm định độ tin cậy thang đo bằng hệ thống Crobach Alpha
Ý nghĩa của từng giá trị trung bình đối với thang đo khoảng (Interval Scale)
Giá trị
1.00-1.80: Hoàn toàn không đồng ý
11
SVTT: Lê Thị Hương

11

Lớp: K49-KTDL



Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

1.81-2.60: Không đồng ý
2.61-3.40: Bình thường
2.41-4.20: Đồng ý
4.21-5.00: Hoàn toàn đồng ý
- Phân tích nhân tố khám phá EFA
Hệ số tải nhân tố (Factor loading ) > 0.5, 0.5 ≤ KMO ≤ 1: Hệ số KMO
(Kaiser-Meyer-Olkin) là chỉ số được dùng để xem xét sự thích hợp của phân tích
nhân tố. Trị số KMO lớn có ý nghĩa phân tích nhân tố là thích hợp. Kiểm định
Bartlett có ý nghĩa thống kê (Sig. < 0.05): Đây là một đại lượng thống kê dùng để
xem xét giả thuyết các biến không có tương quan trong tổng thể. Nếu kiểm định
này có ý nghĩa thống kê (Sig. < 0.05) thì các biến quan sát có mối tương quan với
nhau trong tổng thể.
Phần trăm phương sai toàn bộ (Percentage of variance) > 50%: Thể hiện
phần trăm biến thiên của các biến quan sát. Nghĩa là xem biến thiên là 100% thì
giá trị này cho biết phân tích nhân tố giải thích được bao nhiêu %.
5. Kết cấu của đề tài
Nội dung đề tài nghiên cứu được trình bày theo kết cấu gồm 3 chương,
ngoài mục lục, lời cảm ơn, lời cam đoan, danh mục hình vẽ, danh mục bảng,
danh mục biểu đồ, chương mở đầu, tài liệu tham khảo và phụ lục:
Chương 1: Tổng quan lý luận về phát triển bền vững du lịch lễ hội
Chương 2: Đánh giá của du khách về lễ hội Hoa tại Bà Nà hills
Chương 3: Kết luận, hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu trong
tương lai.

12
SVTT: Lê Thị Hương


12

Lớp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
DU LỊCH LỄ HỘI
1.1. Lễ hội
1.1.1. Khái niệm
Lễ hội là một sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng. "Lễ" là
hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người
với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống
mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. "Hội" là sinh hoạt văn hóa, tôn
giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống.
1.1.2. Đặc điểm của lễ hội
+ Tính Thiêng: Muốn hình thành một lễ hội bao giờ cũng phải tìm ra một
tính “thiêng” nào đó. Đó là người anh hùng đánh giặc bị thương, ngã xuống
mảnh đất ấy, lập tức được mối đùn lên thành mộ. Đó là nơi một người anh hùng
bỗng dưng hiển thánh, bay về trời. Cũng có khi đó chỉ là một bờ sông, nơi có
một xác người chết đuối, đang trôi bỗng nhiên dừng lại, không trôi nữa; dân vớt
lên, chôn cất, thờ phụng... Cũng có khi lễ hội chỉ hình thành để tưởng nhớ đến
ngày sinh, ngày mất của một người có công với làng nước ở lĩnh vực này hay
lĩnh vực khác (có người chữa bệnh, có người dạy nghề, có người đào mương, có
người trị thủy, có người đánh giặc...) Song, những người đó bao giờ cũng được

"thiêng hóa" và đã trở thành "Thần thánh" trong tâm trí của người dân.
Nhân dân tin tưởng những người đó đã trở thành thần thánh không chỉ có
thể phụ hộ cho họ trong những mặt mà sinh thời người đó đã làm như: chữa
bệnh, làm nghề, đánh giặc…mà còn làm cho họ vượt qua những khó khăn trong
cuộc sống.
Chính tiếng “Thiêng” đã là chỗ dựa tinh thần cho người dân những lúc khó
khăn và thêm hy vọng vào cuộc sống và tương lai.
+ Tính Cộng Đồng: lễ hội chỉ được sinh ra hình thành và phát triển khi nó
trở thành nhu cầu tự nguyện của một cộng đồng. Cộng đồng lớn thì phạm vi của
13
SVTT: Lê Thị Hương

13

Lớp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

lễ hội cũng lớn. Bởi thế mới có lễ hội của một họ, một làng, một huyện, một
vùng hoặc cả nước.
+ Tính Địa Phương: lễ hội được sinh ra và tồn tại đều gắn với một vùng đất
nhất định. Bởi thế lễ hội ở vùng nào mang sắc thái lễ hội của vùng đó.Tính đại
phương của lễ hội chính là điều chứng tỏ lễ hội gắn bó rất chặt chẽ với đời sống
của nhân dân, nó đáp ứng những nhu cầu tinh thần và văn hóa cảu nhân dân,
không chỉ ở nội dung lễ hội mà còn ở phong cách của lễ hội nữa. Phong cách đó
thể hiện ở lời văn tế, ở trang phục, kiểu lọng, ở lễ vật dâng cúng…
+Tính Cung Đình: Đa phần các nhân vật được suy tôn thành Thần linh

trong các lễ hội của người Việt, là người đã giữ các chức vị trong triều đình ngày
xưa. Bởi thế những nghi lễ diễn ra trong lễ hội từ tế lễ, dâng hương đến rước
kiệu… đều mô phỏng sinh hoạt cug đình. Sự mô phỏng đó thể hiện ở cách bày
trí, trang phục, động tác đi lại... điều này làm cho lễ hội trở nên trang trọng và
lộng lẫy hơn. Mặt khác lễ nghi cung đình cũng làm cho người tham gia cảm tháy
được nâng lên một vị thế khác với thường ngày, đáp ứng tâm lý, những khát khao
nguyện vọng của người dân.
+ Tính Đương Đại: Tuy mang nặng sắc thái cổ truyền, lễ hội, trong quá
trình vận động của lịch sử, cũng dần tiếp thu những yếu tố đương đại. Những trò
chơi mới những cách bày trí mới, những phương tiện kỹ thuật mới như radio,
video, tăng âm… đã tham gai vào lễ hội giúp cho việc tổ chức lễ hội diễn ra dễ
dàng hơn, đáp ứng nhu cầu mới.
Tuy vậy nhưng sự tiếp thu này đều phải dần dần qua sự sàng lọc tự nguyện của
nhân dân, được cộng đồng chấp nhận, không thể là một sự lắp ghép tùy tiện, vô lý…
1.1.3. Phân loại lễ hội:


Căn cứ vào thời gian hình thành và phát triển của lễ hội.
+ Lễ hội truyền thống:
Lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần của
người dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Những lễ hội ra
đời trước năm 1945 thường được coi là lễ hội truyền thống. Những lễ hội này
diễn ra chủ yếu dân cư ở các địa phương khác nhau. Loại lễ hội này thường được
14
14
SVTT: Lê Thị Hương

Lớp: K49-KTDL



Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

tổ chức theo định kì, lặp đi lặp lại theo thời gian âm lịch với các sinh hoạt văn
hóa tương đối ổn định.
Ví dụ như hội đền Hùng (Phú Thọ), hội chùa Hương (Hà Nội), hội Bà Chúa
Xứ (An Giang)… Với số lượng đồ sộ và nội dung phong phú, lễ hội truyền thống
bao gồm:
Lễ hội dân gian: Đó là kho tàng di sản văn hóa của người Việt Nam, mang
dấu ấn các giai đoạn phát triển của địa phương và dân tộc trong suốt tiến trình
lịch sử. Nó bao gồm các “lễ hội làng”, gắn với lao động sản xuất của tầng lớp cư
dân địa phương khác nhau tạo nên những giá trị lớn lao trong kho tàng văn hóa
quý báu của dân tộc ta
Lễ hội cung đình: Gắn liền với văn hóa cung đình của các triều đại phong
kiến mà đỉnh cao là sự các lễ hội cung đình triều Nguyễn như lễ tế Nam Giao, tế
Xã tắc, lễ Truyền lô.
+ Lễ hội hiện đại:
Là loại lễ hội mang tính thương mại cao, mang tính chính trị, hơi thở của
thời đại và sử dụng thành tựu khoa học kĩ thuật. Lễ hội hiện đại ra đời từ sau
cách mạng tháng Tám 1945, lấy thời gian tổ chức theo dương lịch, lễ hội hiện đại
chủ yếu gắn với: Các nhân vật và sự kiện lịch sử liên quan đến cách mạng và các
hoạt động văn hóa thể thao – du lịch. Các sự kiện lịch sử cách mạng, nhân vật
lịch sử đã trở thành tâm điểm, cảm hứng sáng tạo lễ hội của nhân dân, ví dụ như:
Lễ hội kỉ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, ngày Quốc khánh (2/9), ngày
giải phóng miền Nam (30/4)…Rất nhiều lễ hội được hình thành, thu hút sự tham
gia đông đảo của quần chúng nhân dân dưới nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa,
văn nghệ. Bên cạnh đó, các hoạt động văn hóa thể thao – du lịch như các lễ hội
du lịch, festival, hội chợ cũng là những hình thức chính của lễ hội hiện đại. Đây
là những hoạt động mang nặng yếu tố kinh tế, phản ánh nhu cầu và xu thế phát

triển của thời đại mới, thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ví dụ
như: Lễ hội Hoa phượng đỏ Hải Phòng lần thứ 1- 2012, lần thứ 2 -2013, lễ hội
hoa Đà Lạt, Carnaval Hạ Long…
- Căn cứ vào không gian tổ chức
15
SVTT: Lê Thị Hương

15

Lớp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

Theo tác giả Dương Văn Sáu, căn cứ vào không gian, có thể chia lễ hội theo
các hình thức sau đây:
+ Lễ hội mang tính quốc tế:
Là những lễ hội được du nhập từ bên ngoài vào trong đời sống chính trị,
văn hóa, xã hội của người Việt Nam, được cả người Việt Nam và thể giới tổ chức
như ngày Quốc tế lao động 1/5, ngày Quốc tế phụ nữ 8/3…Lễ hội mang tính
quốc tế thường được tổ chức vào các dịp kỉ niệm về các nhân vật, sự kiện lịch sử,
có liên quan...
+ Lễ hội mang tính Quốc gia:
Là những lễ hội mà nhân vật, hoặc sự kiện được thờ cúng có liên quan ảnh
hưởng sâu sắc, rộng lớn tới cả dân tộc và đất nước. Những lễ hội đó thường được
gọi là “quốc hội”, “quốc lễ”, “ quốc tự” như lễ hội đền Hùng (10/3 âm lịch), lễ
hội chùa Hương…Hoặc các lễ hội hiện đại, phản ánh các sự kiện lịch sử, có vai
trò to lớn, tác động và ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của lịch sử dân tộc

như các lễ hội chào mừng Quốc khánh mồng 2/9, lễ hội mừng ngày sinh nhật chủ
tịch Hồ Chí Minh 19/5…
+ Lễ hội mang tính vùng miền: là những ngày lễ hội mà nhân vật hoặc sự
kiện được thờ khá nổi tiếng. Khi tổ chức lễ hội được sự tham gia, có mặt của
đông đảo nhân dân trong vùng ví dụ như: lễ hội Phủ Giầy 3/3, lễ hội đền Kiếp
Bạc 20/8 âm lịch…
+ Lễ hội làng: là hình thức phổ biến rộng rãi, với số lượng nhiều, có nội
dung phong phú, đa dạng và sinh động nhất. Đây là lễ hội chủ đạo trong đời sống
văn hóa của các tầng lớp dân cư, trở thành hạt nhân, nền tảng cho kho tàng lễ hội
của dân tộc tồn tại, phát sinh, phát triển trong suốt tiến trình lịch sử.


Căn cứ vào mục đích thờ cúng
+ Lễ hội gắn liền với hoạt động sản xuất: Viêt Nam là một nước nông
nghiệp, nên những lễ hội gắn liền với hoạt động sản xuất nông nghiệp chiếm số
lượng lớn. Văn hóa lúa nước có nhịp điệu mùa, tương ứng với công việc làm ăn
là những ngày xuống đồng khẩn trương, những ngày mùa rộn rã hay các tháng
“nông nhàn” rỗi việc, khá thảnh thơi. Bên cạnh đó là các lễ thức thờ cúng hồn
16
SVTT: Lê Thị Hương

16

Lớp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên


lúa, cầu nước, tạ ơn chứa đựng những yếu tố về đời sống của cư dân nông nghiệp
mong sao mùa màng bội thu, người an vật thịnh...
+ Lễ hội tôn vinh các danh nhân văn hóa, anh hùng dân tộc, các vị thành
hoàng và các chư vị thánh phật, các vị thiên thần và nhân thần đã có công
khai minh, khai mang đến chùa giúp dân diệt ác, trừ tà, bảo vệ cái thiện
Có thể thấy, nhiều trong các lễ hội tôn vinh các anh hùng dân tộc này còn đồng
nhất với hệ thống lễ hội có liên quan tới tín ngưỡng thờ thành hoàng làng.
+ Lễ hội liên quan tới tín ngưỡng, tôn giáo:
Lễ hội tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên (thờ tổ nghề, tổ nước), ở phương diện
quốc gia, lễ hội đền Hùng được coi như lễ hội liên quan đến tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên lớn nhất của người Việt, tổ chức vào mồng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm,
tín ngưỡng thờ thành hoàng làng, tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ các thần tự
nhiên như Sơn thần, Thổ thần, Thủy thần, mộc Thần…, tín ngưỡng phồn thực.
Lễ hội của tín ngưỡng phồn thực: là tín ngưỡng tôn thờ những hiện vật mang biểu
tượng về sinh thực khí âm dương và những nghi lễ biểu đạt hành động tính giao để
cầu mong sự sinh sôi nảy nở, no đủ và phát triển. Đây là một lễ hội đặc sắc, thu hút
sự quan tâm chú ý của đông đảo tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Lễ hội Kitô giáo: thường là những hình thức nghi lễ tôn giáo mang tính toàn
cầu và được thực hiện nghiêm túc, thống nhất…Những nghi lễ tôn giáo đố thường
chỉ là một trong những biểu hiện của sinh hoạt tôn giáo ở bất kì một giáo xứ nào, ví
dụ như lễ phục sinh, lễ chúa nhật, lễ chúa hiển linh… Lễ hội Phật giáo: Phật giáo là
tôn giáo du nhập sớm nhất vào Việt Nam ta và có ảnh hưởng sâu sắc nhất. Trong
năm có khá nhiều lễ hội liên quan đến những mốc thời gian gắn với Đức Giáo chủ
Thích Ca Mâu Ni như lễ Đản Sinh (15/4 âm lịch), lễ Vu Lan (15/7 âm lịch)…
1.1.4 Đặc trưng của lễ hội
Lễ hội ở nước ta thường được tổ chức vào mùa xuân, khi đất trời giao hòa,
thiên nhiên tươi tốt, lòng người hân hoan. Lễ hội là chứng tỏ tính cố kết của cộng
đồng, là minh chứng cho nét đẹp văn hoá ngàn đời của ông cha ta. Theo thống kê
của Bộ VH, TT&DL thì nước ta hiện có hơn 8.000 lễ hội trong năm. Mỗi lễ hội
mang một nét tiêu biểu và giá trị riêng, nhưng bao giờ cũng hướng tới một một

đối tượng linh thiêng cần được suy tôn như những vị anh hùng chống ngoại xâm,
17
17
SVTT: Lê Thị Hương

Lớp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

những người có công dạy dỗ truyền nghề, chống thiên tai, diệt trừ ác thú, giàu
lòng cứu nhân độ thế... Với tư tưởng uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người
trồng cây, ngày hội diễn ra sôi động bằng những sự tích, công trạng, là cầu nối
giữa quá khứ với hiện tại, làm cho thế hệ trẻ hôm nay hiểu được công lao tổ tiên,
thêm tự hào về truyền thống quê hương, đất nước của mình. Đặc biệt, lễ hội ở
nước ta gắn bó với làng xã, địa danh, vùng đất như một thành tố không thể thiếu
vắng trong đời sống cộng đồng nhân dân.
Phần lớn các lễ hội ở Việt Nam thường gắn với sự kiện lịch sử, tưởng nhớ
người có công với nước trong chiến tranh chống giặc ngoại xâm nên các trò vui
chơi ở lễ hội thường mang nhiều tính mạnh mẽ của tinh thần thượng võ như: thi
bắn nỏ, đấu vật (hội Cổ Loa) đấu vật, đấu võ, chạy thi (hội hoa Vị Khê, Nam
Định), thi bắn nỏ, ném còn (ở vùng đồng bào dân tộc phía Bắc) v.v... Có lễ hội lại
gọi theo những trò chơi dân gian như hội rước voi, rước chúa gái, hội đánh phết,
ném còn, hội chọi gà, chọi trâu, hội đâm đuống... Sự phong phú của lễ hội ở Việt
Nam vừa là nét đẹp văn hóa dân tộc nhưng cũng vừa là một trong những sản
phẩm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
Quy trình của lễ hội
Thông thường địa phương nào mở hội cũng đều tiến hành theo ba bước sau:

Chuẩn bị: Chuẩn bị lễ hội được chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn chuẩn
bị cho mùa lễ hội sau và khi ngày hội đã đến gần. Chuẩn bị cho mùa lễ hội sau
được tiến hành ngay sau khi mùa hội trước kết thúc, mọi khâu chuẩn bị đã có sự
phân công, cắt cử mọi việc để đón mùa lễ hội năm sau. Khi ngày hội sắp diễn ra,
công việc kiểm tra lại đồ tế lễ, trang phục, quét dọn, mở cửa di tích, rước nước
làm lễ tắm tượng (mộc dục) cùng các đồ tế tự, thay trang phục mũ cho thần...
Vào hội: nhiều hoạt động diễn ra trong các ngày lễ hội, đó là các nghi thức
tế lễ, lễ rước, dâng hương, tổ chức các trò vui. Đây là toàn bộ những hoạt động
chính có ý nghĩa nhất của một lễ hội. Lễ hội thu hút nhiều đối tượng hay ít khách
đến với lễ hội, diễn ra trong nhiều ngày hay một ngày hoàn toàn chi phối bởi các
hoạt động trong những ngày này.
18
SVTT: Lê Thị Hương

18

Lớp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

Kết thúc hội (xuất tịch, giã đám, giã hội): Ban tổ chức làm lễ tạ, đóng cửa
di tích.
Thời gian mở hội
Lễ hội ở Việt Nam được tổ chức nhiều nhất vào ba tháng mùa xuân và mùa
thu. Hai khoảng thời gian trên là lúc người dân nhàn rỗi. Mùa xuân tiết trời ấm
áp, mùa thu tiết trời mát mẻ, đều thuận lợi cho việc tổ chức lễ hội. Hai yếu tố cơ
bản tạo nên sự thoải mái, vui vẻ cho người đi dự hội.

1.2. Du lịch lễ hội
1.2.1. Khái niệm
Du lịch lễ hội thuộc loại hình du lịch du lịch văn hoá. Du lịch lễ hội có thể
hiểu là hoạt động mà mọi người muốn thõa mãn nhu cầu tìm hiểu truyền thống
văn hóa, phong tục tập quán, lịch sử, tín ngưỡng dân gian…Thông qua việc tham
dự, chứng kiến kiến các hoạt động của lễ hội.
- Sở dĩ chúng ta đặt ra vấn đề này là do mối quan hệ có tính tất yếu khách
quan của lễ hội và du lịch. Lễ hội là một hoạt động văn hoá có tính tất yếu và
thiết yếu trong đời sống văn hoá xã hội của mỗi một quốc gia, dân tộc. Đây là
một sản phẩm của lịch sử, nó tồn tại và vận hành cùng lịch sử. Trong khi đó du
lịch ra đời muộn hơn nhưng lại phát triển với tốc độ nhanh chóng và là một nhu
cầu không thể thiếu của con người trong xã hội hiện đại. Tự thân hai hoạt động
này tạo ra nhau và tìm đến nhau như là những thành tố của một xã hội phát triển,
là một xu hướng tất yếu khách quan của xã hội loài người trong không gian, môi
trường, điều kiện và hoàn cảnh mới
1.2.2. Đặc điểm của du lịch lễ hội
Khác với loại hình du lịch thiên nhiên, du lịch thể thao, du lịch giải trí…du
lịch lễ hội có các đặc điểm sau:


Du lịch lễ hội thường gắn với không gian, thời gian và địa điểm nhất định
Chẳng hạn lễ hội Đên Hùng chỉ diễn ra 1 lần vào dịp 10/3 âm lịch hàng năm
lại tỉnh Phú Thọ, lễ hội Quan Thế Âm chỉ diễn ra một lần vào 2 ngày 18 và 19
tháng 6 âm lịch hàng năm trên núi Tứ Tượng trong khuôn viên Trung tâm du lịch
19
SVTT: Lê Thị Hương

19

Lớp: K49-KTDL



Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

tâm linh Phật giáo Quan Thế Âm tại xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy, Thừa
Thiên Huế…Do vậy, việc tổ chức các hoạt động lễ hội phải nắm chắc thời gian,
địa điểm và các hoạt động văn hóa đặc trưng, các nội dung chính của lễ hội để
khai thác đúng hướng và hiệu quả. Thời gian, không gian thiêng và tính chất
thiêng của lễ hội sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu hút khách du lịch. Bởi vì
nếu các yếu tố này được “thiêng hóa” khách du lịch sẽ tri giác được cái “linh
thiêng” của lễ hội, nó có sức mạnh tinh thần to lớn, là niềm tin thiêng liêng để lôi
cuốn con người trở về với quê hương cội nguồn. Đây chính là một đặc điểm
riêng biệt của du lịch lễ hội, mà không loại hình du lịch nào có được.
- Du lịch lễ hội mang tính mùa vụ.
Do du lịch lễ hội luôn gắn với thời gian mở hội nên thường diễn ra theo mùa
vụ. Các lễ hội ở Việt Nam được tổ chức chủ yếu vào mùa xuân, một số ít lễ hội tổ
chức vào mùa thu. Do vậy, yếu tố mùa vụ của lễ hội sẽ chi phối lớn đến các thiết
chế phục vụ hoạt động du lịch lễ hội như hệ thống tài nguyên du lịch, quy hoạch
tuyến du lịch, điểm du lịch, các hoạt động dịch vụ, các cơ sở lưu trú, các chương
trình du lịch … cũng phải tuân theo các yếu tố mùa vụ. Do vậy, việc chuẩn bị các
yếu tố phục vụ các hoạt động du lịch lễ hội phải có sự sắp xếp khá chu đáo và khoa
học. Nếu không có sự chuẩn bị trước (từ cơ sở vật chất, các dịch vụ, công tác tổ
chức lễ hội…) sẽ dẫn đến không đáp ứng nhu cầu du khách hoặc xảy ra tình trạng
quá tải do lượng du khách tăng đột biến so với những ngày thường.
- Du lịch lễ hội là một hoạt động văn hóa sâu sắc vừa mang ý nghĩa lịch sử
vừa có giá trị nghệ thuật độc đáo.
Bản sắc của du lịch là văn hóa do vậy bản sắc văn hóa của từng vùng, từng
địa phương, tộc người là một khía cạnh cần được khai thác, nghiên cứu trong

phát triển du lịch. Sự phong phú và sâu sắc về văn hóa của hoạt động du lịch lễ
hội thể hiện ngay trong nội dung, hình thức và cách tổ chức của lễ hội. Bên cạnh
đó, lễ hội còn là sản phẩm của lịch sử, do đó nó phản ánh lịch sử bằng hình ảnh,
sự kiện mang tính nghệ thuật hóa, biểu tượng hóa. Điểm đến du lịch với những lễ
hội càng đặc trưng bao nhiêu, càng khác lạ bao nhiêu về phong tục tập quán, lịch
20
SVTT: Lê Thị Hương

20

Lớp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

sử, ngôn ngữ, tín ngưỡng và các giá trị cuộc sống… thì càng hấp dẫn du khách
bấy nhiêu.
- Du lịch lễ hội có quan hệ chặt chẽ với hệ thống các di tích và các công
trình kiến trúc nghệ thuật.
Di tích và lễ hội chính là nguyên liệu gốc sản sinh ra các điểm đến du lịch
trong đó lễ hội và hệ thống di tích thường gắn kết chặt chẽ với nhau. Các hệ
thống kiến trúc của Đình, Đền, Chùa, các di tích lịch sử gắn với các sự kiện, các
nhân vật thờ tự là phần vật thể. Còn lễ hội tại các di tích ấy mới là phần hồn,
phần phi vật thể chứa đựng giá trị văn hóa lịch sử. Chẳng hạn lễ hội Đền Hùng và
hệ thống di tích lịch sử tại đền Hùng, lễ hội Đền Trần và các di tích Đền Trần…
đang là điểm hấp dẫn thu hút đông đảo du khách hàng năm. Do vậy để phát triển
tốt du lịch lễ hội thì bên cạnh việc bảo tồn các giá trị văn hóa lễ hội truyền thống
cũng cần bảo tồn các di tích đảm bảo tính nguyên bản của nó.

1.2.3. Phân loại
Lễ hội gồm 2 phần: phần nghi lễ và phần hội
Phần nghi lễ: Các lễ hội dù lớn hay nhỏ đều có phần nghi lễ với những nghi
thức nghiêm túc, trọng thể mở đầu ngày hội theo không gian và thời gian. Phần
nghi lễ mở đầu ngày hội bao giờ cũng mang tính tưởng niệm lịch sử, hướng về
một sự kiện lịch sử trọng đại, một vị anh hùng dân tộc lỗi lạc có ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển xã hội.
Nghi thức lễ tế nhằm bày tỏ lòng tôn kính với các bậc thánh hiền và thần
linh, cầu mong được thiên thời, địa lợi nhân hòa và sự phồn vinh hạnh phúc.
Nghi lễ tạo thành nền móng vững chắc, tạo một yếu tố văn hóa thiêng liêng, một
giá trị thẩm mỹ đối với toàn thể cộng đồng người đi hội trước khi chuyển sang
phần xem hội.
Phần hội:

21
SVTT: Lê Thị Hương

21

Lớp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

Phần hội diễn ra những hoạt động biểu tượng điển hình của tâm lý cộng
đồng, văn hóa dân tộc, chứa đựng những quan niệm của dân tộc đó với thực tế
lịch sử, xã hội và thiên nhiên. Trong hội thường có những trò vui, những đêm thi
nghề, thi hát, tượng trưng cho sự nhớ ơn và ghi công của người xưa.

Tất cả những gì tiêu biểu cho một vùng đất, một làng xã được mang ra phô
diễn, mang lại niềm vui cho mọi người. Các chàng trai, cô gái đi hội là cái cớ để
được gặp nhau, tìm nhau. Phần hội thường gắn liền với tình yêu, giao duyên nam
nữ nên có phong vị tình.
Hội làng người Việt ở đồng bằng sông Hồng là loại lễ hội truyền thống rất
tiêu biểu cho làng xã nông thôn Việt Nam và truyền thống của người Việt Nam.
Tại lễ hội này, người ta thường diễn những sinh hoạt thường niên do nhu cầu tồn
tại và phát triển cộng đồng, mặt khác cũng là để cân bằng sinh thái và tâm lý của
người lao động nông nghiệp.
Lễ hội cũng có rất nhiều quy mô khác nhau, có hội làng, hội vùng và hội cả
nước, nhưng đều phải có một làng làm gốc, là nơi tổ chức. Bởi làng là tổ chức
thuần Việt và là cơ cấu gốc của xã hội cổ truyền. Bản sắc dân tộc ở từng làng quy
tụ thành bản sắc dân tộc chung của Việt Nam.
1.3. Phát triển bền vững du lịch lễ hội
Đầu 1980, xuất hiện thuật ngữ “các loại hình du lịch thay thế” (alternative
tourism) (alternative tourism), để chỉ các loại hình du lịch có quan tâm đến môi
trường bao gồm “du lịch xanh”, “du lịch mềm”, “du lịch có trách nhiệm”. Từ
năm 1975 đến năm 1980, Krippendorf và Jungk là những nhà khoa học đầu tiên
cảnh báo về những suy thoái sinh thái do hoạt động du lịch gây ra. Họ đã đưa ra
khái niệm “du lịch rắn” (hard tourism) để chỉ loại hình du lịch ồ ạt và “du lịch
mềm” (soft tourism) để chỉ một chiến lược mới tôn trọng môi trường.
Năm 1996, xuất hiện một khái niệm mới là “du lịch bền vững” (sustainable
tourism), ủng hộ và chủ trương phát triển du lịch mà ít ảnh hưởng xấu tới môi
22
SVTT: Lê Thị Hương

22

Lớp: K49-KTDL



Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

trường trên cơ sở cải tiến và nâng cấp từ khái niệm “du lịch mềm” của
Krippedorf và Jungk.
Theo “Luật Du lịch Việt Nam (2006): “Du lịch bền vững là sự phát triển du
lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp
ứng nhu cầu về du lịch của tương lai”.
Từ những năm 1990, các nhà khoa học trên thế giới đã đề cập nhiều đến
việc phát triển du lịch với mục đích đơn thuần về kinh tế đang đe dọa hủy hoại
môi trường sinh thái, đến nền văn hóa bản địa. Hậu quả của các tác động ấy sẽ
lại ảnh hưởng đến bản thân sự phát triển lâu dài của ngành du lịch. Nhưng
định nghĩa phát triển du lịch bền vững không chỉ tập trung vào việc bảo vệ
môi trường mà còn tập trung vào việc duy trì những văn hóa của địa phương
và đảm bảo việc phát triển kinh tế, mang lại lợi ích công bằng cho các nhóm
đối tượng tham gia. Phát triển du lịch bền vững được coi là một nhánh của
Phát triển bền vững, có nhiều định nghĩa đã được đưa ra và nhóm nghiên cứu
đưa ra một số khái niệm đã đưa ra:
Theo Hội nghị ủy ban Thế giới về Phát triển và Môi trường (hay Ủy ban
Brundtland) xác định năm 1987: “Hoạt động phát triển du lịch bền vững là hoạt
động phát triển ở một khu vực cụ thể sao cho nội dung, hình thức và quy mô là
thích hợp và bền vững theo thời gian, không làm suy thoái môi trường, làm ảnh
hưởng đến khả năng hỗ trợ.”
Phát triển du lịch bền vững (Sustainable Tourism) được Tổ chức Du lịch thế
giới (United National World Tourist Organization, viết tắt là UNWTO) định
nghĩa như sau: “Sự phát triển bền vững của ngành du lịch đáp ứng nhu cầu hiện
tại của du khách và của địa phương du lịch, đồng thời bảo vệ và thúc đẩy cơ hội
phát triển cho tương lai. Sự quản lý của ngành phải cân bằng và đáp ứng được

nhu cầu về kinh tế, xã hội, thẩm mỹ mà vẫn duy trì được các giá trị của sinh thái,
văn hóa và môi sinh”. Hoặc: “Du lịch bền vững là các hình thức du lịch đáp ứng
nhu cầu hiện tại của khách du lịch, ngành du lịch và cộng đồng địa phương
nhưng không ảnh hưởng tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau.
Du lịch khả thi về kinh tế nhưng không phá hủy tài nguyên mà tương lai của du
23
23
SVTT: Lê Thị Hương

Lớp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

lịch phụ thuộc vào đó, đặc biệt là môi trường tự nhiên và kết cấu xã hội của cộng
đồng địa phương”
Tổ chức du lịch thế giới (WTO, 2002) định nghĩa “phát triển bền vững
trong du lịch là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà
không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ
tương lai. Sự phát triển này quan tâm đến lợi ích kinh tế, xã hội mang tính lâu dài
trong khi vẫn đảm bảo sự đóng góp cho bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên,
duy trì được sự toàn vẹn về văn hóa để phát triển hoạt động du lịch trong tương
lai; cho công tác bảo vệ môi trường và góp phần nâng cao mức sống của cộng
đồng địa phương.
Cho đến nay đa số ý kiến các chuyên gia trong lĩnh vực du lịch và các lĩnh
vực liên quan khác ở Việt Nam đều cho rằng: “Phát triển du lịch bền vững là
hoạt động khai thác có quản lý các giá trị tự nhiên và nhân văn nhằm thỏa mãn
các nhu cầu đa dạng của khách du lịch, có quan tâm đến các lợi ích kinh tế dài

hạn trong khi vẫn đảm bảo sự đóng góp cho bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài
nguyên, duy trì được sự toàn vẹn về văn hóa để phát triển hoạt động du lịch
trong tương lai; cho công tác bảo vệ môi trường và góp phần nâng cao mức sống
của cộng đồng địa phương”. Đây cũng là khái niệm mà nhóm tác giả sử dụng để
làm căn cứ thực hiện nghiên cứu.
1.4. Vai trò và ý nghĩa của phát triển du lịch bền vững
Du lịch là một trong những công nghệ tạo nhiều lợi tức nhất cho đất nước.
Du lich có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp chúng ta đạt các Mục
Tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (Millennium Development Goals) mà Liên Hợp
Quốc đã đề ra từ năm 2000, đặc biệt là các mục tiêu xóa đói giảm nghèo, bình
đẳng giới tính, bền vững môi trường và liên doanh quốc tế để phát triển.
Chính vì vậy mà du lịch bền vững (sustainable tourism) là một phần quan
trọng của phát triển bền vững (sustainable development) của Liên Hợp Quốc và

24
SVTT: Lê Thị Hương

24

Lớp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

của Định hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình Nghị
sự 21 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
Phát triển du lịch bền vững là một chủ đề được thảo luận rất nhiều ở các hội
nghị và diễn đàn lớn nhỏ trên toàn thế giới. Mục đích chính của phát triển bền

vững là để 3 trụ cột của du lịch bền vững - Môi trường, Văn hóa xã hội và Kinh
tế - được phát triển một cách đồng đều và hài hòa.
Những lí do đi sâu vào chi tiết để giải thích tại sao lại cần phát triển du lịch
bền vững thì có nhiều, nhưng có thể thấy rất rõ ở 3 yếu tố từ định nghĩa trên:
Thứ nhất: Phát triển du lịch bền vững giúp bảo vệ môi trường sống. Vì bảo
vệ môi trường sống không chỉ đơn giản là bảo vệ các loài động thực vật quý
hiếm sống trong môi trường đó, mà nhờ có việc bảo vệ môi trường sống mà con
người được hưởng lợi từ đó: Không bị nhiễm độc nguồn nước, không khí và đất.
Đảm bảo sự hài hòa về môi trường sinh sống cho các loài động thực vật trong
vùng cũng là giúp cho môi trường sống của con người được đảm bảo.
Thứ hai: Phát triển du lịch bền vững còn giúp phát triển kinh tế, ví dụ, từ
việc khai thác các đặc sản văn hóa của vùng, người dân trong vùng có thể nâng
cao đời sống nhờ khách du lịch đến thăm quan, sử dụng những dịch vụ du lịch
và sản phẩm đặc trưng của vùng miền, của vùng. Phát triển du lịch bền vững
cũng giúp người làm du lịch, cơ quan địa phương, chính quyền và người tổ chức
du lịch được hưởng lợi, và người dân địa phương có công ăn việc làm.
Thứ ba: Phát triển du lịch bền vững còn đảm bảo các vấn đề về xã hội, như
việc giảm bớt các tệ nạn xã hội bằng việc cung cấp công ăn việc làm cho người
dân trong vùng. Ở một cái nhìn sâu và xa hơn, du lịch bền vững giúp khai thác
nguồn tài nguyên một cách có ý thức và khoa học, đảm bào cho các nguồn tài
nguyên này sinh sôi và phát triển để thế hệ sau, thế hệ tương lai có thể được tiếp
nối và tận dụng.
25
SVTT: Lê Thị Hương

25

Lớp: K49-KTDL



×