Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Đời sống dân gian trong hoạt động bảo tàng hiện nay (nghiên cứu trường hợp bảo tàng thành phố hồ chí minh) (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.65 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
*****

PHẠM LAN HƢƠNG

ĐỜI SỐNG DÂN GIAN
TRONG HOẠT ĐỘNG BẢO TÀNG HIỆN NAY
(NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP
BẢO TÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH)

Ngành: Văn hóa dân gian
Mã số: 9229040

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Hà Nội - 2020


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS.TS. LÊ HỒNG LÝ
2. PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƢƠNG CHÂM

Phản biện 1: PGS.TS. Bùi Hoài Sơn
Phản biện 2: PGS.TS. Võ Quang Trọng
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện


họp tại Học viện Khoa học xã hội
Vào hồi

giờ

phút, ngày

tháng

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
Thư viện Quốc gia Việt Nam
Thư viện Học viện Khoa học Xã hội,

năm


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo tàng ngày nay không những là nơi lưu giữ, truyền bá các giá trị văn hóa,
lịch sử; quan trọng hơn, bảo tàng là cầu nối công chúng với quá khứ và tương lai, là
cầu nối giá trị lịch sử - văn hóa - khoa học giữa dân tộc này với dân tộc khác, cộng
đồng này với cộng đồng khác. Thực tế đã chứng minh, khách tham quan – công
chúng đến với bảo tàng ngày càng mở rộng.
Mốc đánh dấu sự chuyển biến của Bảo tàng ở Việt Nam t sau thời

đ i

mới 1986 đã có nhiều biến đ i. Nhiều ngôi nhà bảo tàng được xây dựng mới, một
số bảo tàng chuẩn bị ra đời. Các bảo tàng đang hoạt động được tăng cường đầu tư;
đ i mới trưng bày và các hoạt động nghiệp vụ với mong muốn đáp ứng nhu cầu của

khách tham quan, gắn bảo tàng với cộng đồng. Theo tác giả Đặng Văn Bài, “các
bảo tàng để dành cho con người và do đó, tương lai của bảo tàng phụ thuộc vào
việc tự nâng cấp, tự phát triển để đáp ứng nhu cầu đã được thị trường chỉ rõ”1.
Nhiều bảo tàng tự thân vận động, đ i mới nội dung và hình thức hoạt động của
mình. Nói cách khác, bảo tàng là đối tượng của sự thay đ i xã hội mang tính tích
cực. Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh là một minh chứng cho sự đ i mới này.
Ý tưởng và đề án nâng cấp Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh
thành Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh có t những năm đầu thập niên 90 của thế
kỷ XX. Quá trình chuyển đ i này hông hoàn toàn được sự đồng thuận của các bên
liên quan mà trải qua quá trình tranh luận, mâu thuẫn, thương thảo và thỏa hiệp. Có
thể nói, mỗi bước thăng trầm của Bảo tàng đều gắn liền với bối cảnh xã hội. Bảo
tàng không chỉ đơn thuần là một thiết chế văn hoá mà còn là hông gian truyền tải
các vấn đề xã hội, là một bức tranh mô phỏng tính chính trị của văn hoá. Trong bối
cảnh đa dạng, phức tạp đó, bản sắc văn hoá thông qua lĩnh vực đời sống dân gian
đã đóng một vai trò không nhỏ.
Đời sống dân gian là một thuật ngữ nói về “toàn thể cách sống của cộng
đồng”, với mục đích tiếp cận xa hơn văn hóa dân gian để tìm hiểu tất cả các hía
cạnh của cuộc sống hàng ngày. Trong 30 năm trở lại đây, đời sống dân gian là đề
1

Đặng Văn Bài, Bảo tàng Nhân học trong hệ thống bảo tàng Việt Nam, Tạp chí Di sản Văn
hoá số 1(14) – 2006, tr.18

1


tài được nhiều bảo tàng ở Việt Nam chú trọng: Những biểu hiện văn hóa sống động
mà người dân đang thực hành trong đời sống, chủ thể văn hóa tự nói lên tiếng nói
của chính mình, những giá trị văn hóa, những ỹ năng, tri thức, các quan điểm
thẩm mỹ, sự sáng tạo... được trưng bày, giới thiệu tại bảo tàng. Xu thế hoạt động

của bảo tàng ở Việt Nam có những thay đ i nhất định, theo hướng ết hợp giữa
những hoạt động bảo tàng với những hoạt động văn hóa liên quan, thông qua trình
diễn, giao lưu với chủ thể văn hóa. Bảo tàng hông chỉ là nơi trưng bày những hiện
vật, bộ sưu tập tĩnh mà bảo tàng còn là nơi t chức các chương trình sống động, hấp
dẫn, đa dạng. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam, Bảo
tàng Bắc Giang, Bảo tàng Đắ Lắ , Bảo tàng Cần Thơ... là những bảo tàng há
thành công trong các hoạt động này.
Ở một phương diện hác, đời sống dân gian còn là “công cụ” để bảo tàng thể hiện
bản sắc văn hóa, bản sắc dân tộc; là sự dung hòa nhiều góc độ tiếp cận của bảo tàng.
Đời sống dân gian là một trong những nội dung chuyển đ i t Bảo tàng Cách
mạng Thành phố Hồ Chí Minh thành Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh, xuất phát t
đòi hỏi của thực tiễn. Tuy nhiên, sự thay đ i này hông diễn ra “đột ngột” mà trải qua
những giai đoạn quá độ, với sự “lựa chọn duy lý” là nghề thủ công truyền thống.
Đề án nâng cấp Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh thành Bảo tàng
Thành phố Hồ Chí Minh được đề xuất trong bối cảnh Thành phố Hồ Chí Minh
chưa có bảo tàng hảo cứu địa phương như các tỉnh thành hác trên toàn quốc. Là
một thành phố lớn, năng động, phát triển, hội nhập, Thành phố Hồ Chí Minh cần có
hông gian giới thiệu toàn cảnh quá trình hình thành và phát triển của thành phố,
với nhiều cung bậc cảm xúc, đa sắc màu, ở các góc cạnh hậu chiến, hoà bình và
giàu nhân sinh. Việc nâng cấp Bảo tàng Cách mạng trở thành hông gian văn hoá
mới này của thành phố là ý tưởng đề xuất hợp lý, thiết thực.
Tuy nhiên, khá nhiều ý kiến hông đồng thuận cho sự chuyển đ i, yêu cầu
giữ nguyên tên gọi và nội dung của Bảo tàng, với lý do muốn lưu giữ những truyền
thống và thành quả cách mạng của Thành phố Hồ Chí Minh qua 2 cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc nhằm mục đích giáo dục tinh thần yêu nước, trân trọng công
ơn của những người chiến sĩ cách mạng. Trong bối cảnh nhiều ý kiến trái chiều,
bên cạnh những nội dung về Cuộc kháng chiến chống Thực Dân Pháp, Cuộc kháng
2



chiến chống Mỹ cứu nước và Thiên nhiên Thành phố Hồ Chí Minh, nghề thủ công
truyền thống ở Thành phố Hồ Chí Minh là nội dung về đời sống dân gian đầu tiên
được lựa chọn trưng bày.
Là một giảng viên giảng dạy về di sản văn hoá và cũng t ng là cán bộ bảo
tàng, tôi lựa chọn đề tài “Đời sống dân gian trong hoạt động bảo tàng hiện nay –
Nghiên cứu trường hợp Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh”, với mục đích tiếp cận
bảo tàng dưới góc độ nghiên cứu văn hoá, ý nghĩa của các hoạt động và nội dung
trưng bày trong bảo tàng; t những câu chuyện về trưng bày nghề thủ công truyền
thống ở Bảo tàng - phác thảo bức tranh xã hội chuyển đ i. Nói cách hác, đề tài
mong muốn cung cấp thêm một nghiên cứu trường hợp về tính chính trị trong văn
hoá, cụ thể là tính chính trị của bảo tàng, dựa trên những khía cạnh văn hoá thông
qua trưng bày đời sống dân gian.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Luận án nghiên cứu về đời sống dân gian qua trưng bày ở bảo tàng, cụ thể là
nghề thủ công truyền thống để nhận diện các ý nghĩa văn hoá, bối cảnh chính trị, xã
hội. Trên cơ sở đó làm rõ sự vận hành của Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh gắn
với bối cảnh xã hội cụ thể để nhìn nhận về tính chính trị của những thực hành văn
hoá ở đây. Luận án cũng tập trung vào những mối quan tâm, những chiều trải
nghiệm, các tương tác văn hoá giữa Bảo tàng và các cộng đồng thông qua đời sống
dân gian mà cụ thể là nghề thủ công truyền thống nhằm nhìn nhận và bàn luận về
việc hai thác đời sống dân gian trong hoạt động của Bảo tàng Thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng và và các bảo tàng Việt Nam hiện nay nói chung.
Nhiệm vụ
- Nhận diện lịch sử chuyển đ i t Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí
Minh sang Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh để thấy rõ những bước thăng trầm
của Bảo tàng đều gắn với những bối cảnh xã hội cụ thể.
- Phân tích mối quan hệ giữa Bảo tàng và đời sống dân gian thông qua việc
trưng bày nghề thủ công truyền thống; Phân tích các chiều tương tác trong việc thể
hiện đời sống dân gian ở Bảo tàng.


3


- Đánh giá về việc trưng bày và các hoạt động của Bảo tàng Thành phố Hồ
Chí Minh về nghề thủ công truyền thống để nhìn nhận vấn đề bảo tồn và phát huy
bản sắc văn hóa.
- Luận bàn những vấn đề lý luận và nhận thức về hai thác đời sống dân gian
trong hoạt động của Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh. T đó, đặt ra những vấn đề
chung cho phát triển các bảo tàng trong bối cảnh giao lưu và hội nhập quốc tế hiện nay.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu của luận án: Thực hiện đề tài này, Luận án giới hạn
đối tượng nghiên cứu là các nghề thủ công truyền thống trong trưng bày và các hoạt
động của Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi về thời gian: luận án sẽ nghiên cứu Bảo tàng Thành phố Hồ Chí
Minh trong quá trình chuyển đ i t Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh
(t những năm 1990) đến nay.
- Phạm vi về không gian: luận án nghiên cứu trường hợp tại Bảo tàng Thành
phố Hồ Chí Minh: Phòng trưng bày “Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp” với nội
dung về các Nghề thủ công truyền thống. Đây là hông gian trưng bày có vị trí
trung tâm của Bảo tàng.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Để thu thập, xử lý tư liệu và giải quyết những vấn đề nghiên cứu, luận án sử
dụng các phương pháp nghiên cứu định tính (quan sát tham dự, phỏng vấn chuyên gia,
phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung ), phương pháp nghiên cứu định lượng (điều
tra bảng hỏi các đối tượng là khách tham quan và nhân viên của bảo tàng), phương pháp
so sánh, thống ê, phân tích, đánh giá, t ng hợp và các phương pháp tiếp cận nghiên cứu
liên ngành: Dân tộc học, nhân học, xã hội học, văn hóa học,…
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, luận án đưa ra một số câu hỏi nghiên cứu như sau:

- Quá trình đưa đời sống dân gian (lĩnh vực nghề thủ công truyền thống) vào
trong hoạt động của Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra như thế nào?
- Quá trình tương tác văn hóa giữa bảo tàng và cộng đồng thông qua trưng
bày nghề thủ công truyền thống ở Bảo tàng diễn ra như thế nào?
4


- Những vấn đề gì đặt ra trong quá trình đưa đời sống dân gian vào trong hoạt động
của Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và các bảo tàng cùng loại nói chung?
5.2. Giả thuyết nghiên cứu: Tương ứng với 3 câu hỏi nghiên cứu như trên,
luận án đưa ra 3 giả thuyết như sau:
- Quá trình chuyển đ i tên t Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh
và chuyển đ i phạm vi hoạt động, phương hướng phát triển của Bảo tàng là một
quá trình thương thảo giữa sự đồng thuận của lãnh đạo, giới chuyên môn, xu hướng
phát triển với sự phản đối của các bậc lão thành cách mạng, không muốn mất tên
Bảo tàng t bu i đầu thành lập. Việc lựa chọn nghề thủ công truyền thống, một lĩnh
vực của đời sống dân gian đưa vào trong hoạt động của Bảo tàng là sự lựa chọn
hợp lý: thuận tiện cho việc sưu tầm của Bảo tàng trong giai đoạn mới, đồng thời
cũng là giải pháp dung hoà của sự thay đ i tên gọi và nội dung hoạt động bảo tàng
đối với các bậc tiền bối. bên cạnh đó, đây là một quá trình chuyển đ i không chỉ về
hình thức, nội dung trưng bày của Bảo tàng, mà còn là quá trình chuyển đ i nhận
thức, thay đ i góc nhìn t lịch sử kháng chiến sang lịch sử văn hóa của vùng đất
mới Sài Gòn – Gia Định 300 năm thành lập.
- Quá trình đưa đời sống dân gian vào trong hoạt động của bảo tàng là một
quá trình trải nghiệm với nhiều chiều tương tác: tương tác giữa truyền thống đã
định hình và thực hành ở thời điểm hiện tại; tương tác giữa chủ thể văn hóa và Bảo
tàng và tương tác giữa cán bộ bảo tàng với khách tham quan và các chủ thể văn
hóa. Sự thay đ i nội dung hoạt động dẫn đến sự thay đ i các chiều tương tác và
chính những chiều tương tác này đã chuyển tải được nhiều thông điệp của Bảo tàng
về việc thể hiện các đặc trưng về nhóm người, cộng đồng sáng tạo, hình thức lưu

truyền, các giá trị t các hiện vật về nghề thủ công truyền thống,...
- Ngày nay, trong xu thế phát triển và hội nhập quốc tế, Bảo tàng Thành phố
Hồ Chí minh nói riêng và các Bảo tàng nói chung hiện đang đ i mới và cập nhật
lĩnh vực chuyên môn với thế giới. Các bảo tàng ngày nay đang nghiêng theo xu
hướng “bảo tàng hông chỉ là nơi lưu giữ quá hứ mà còn là nơi phản ánh hiện
thực cuộc sống”. Đời sống dân gian là một lĩnh vực rộng, việc hai thác đời sống
dân gian ở trong hoạt động bảo tàng đó là một quá trình nhận thức v a trong nghiên

5


cứu cũng như trong thực hành bảo tàng. Đây là một quá trình vận động và biến đ i
tất yếu của các bảo tàng trong bối cảnh hiện tại và tương lai.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Tập hợp và hệ thống hoá tư liệu tương đối cụ thể, đầy đủ về đời sống dân
gian trong hoạt động của Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh.
- T việc nghiên cứu trường hợp Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh, luận án
giúp người đọc nhìn nhận về chức năng của bảo tàng đối với xã hội. Bảo tàng
không chỉ đơn thuần là một thiết chế văn hóa mà còn là

hông gian thể hiện quyền

lực chính trị, là bức tranh mô phỏng các bối cảnh xã hội cụ thể.
- T kết quả nghiên cứu, luận án đặt ra những vấn đề t thực tiễn trong việc
hai thác đời sống dân gian trong hoạt động của Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong đó, lấy trường hợp nghề thủ công truyền thống là đối tượng nghiên cứu.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về mặt lý luận: Luận án cung cấp thêm một hiểu biết chuyên ngành về tính
chính trị của văn hóa, cụ thể là tính chính trị của bảo tàng trong các bối cảnh xã hội
cụ thể; t ng quan những vấn đề lý luận về đời sống dân gian và mối quan hệ giữa

đời sống dân gian và bảo tàng.
- Về mặt thực tiễn: Luận án góp phần hoàn thiện tư liệu về lịch sử chuyển đ i
t Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh thành Bảo tàng Thành phố Hồ
Chí Minh; cung cấp cho độc giả một cái nhìn toàn cảnh về trưng bày nghề thủ công
truyền thống ở Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh. Tư liệu cũng giúp cho các bảo
tàng khảo cứu địa phương và các bảo tàng lịch xã hội tham khảo khi thực hiện các
trưng bày về nghề thủ công nói riêng, đời sống dân gian nói chung.
8. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, hình ảnh, luận án gồm 3 chương:
Chương 1: T ng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận; Chương 2: Bảo tàng
Thành phố Hồ Chí Minh: Quá trình chuyển đ i đưa đời sống dân gian vào bảo tàng
(qua trưng bày về nghề thủ công truyền thống); Chương 3: Các chiều tương tác
trong việc thể hiện đời sống dân gian ở Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh qua
trưng bày nghề thủ công truyền thống; Chương 4: Những vấn đề đặt ra t thực tế
việc thể hiện đời sống dân gian ở Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh.
6


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
- Các nghiên cứu về văn hóa dân gian và đời sống dân gian
Nghiên cứu đời sống dân gian góp phần tìm hiểu, lưu giữ, bảo tồn và khai
thác các giá trị văn hóa của nhân loại, trong đó, quan trọng nhất là để duy trì bản
sắc văn hóa độc đáo của mỗi cộng đồng, mỗi nhóm người. Những tư liệu minh
chứng cho nghiên cứu này được thể hiện qua “Truyện kể về người Đan Mạch” (thế
kỷ XIII), “Lịch sử các dân tộc phương Bắc” (Thụy Điển, thế kỷ XVI)… Những tư
liệu này là hình thức đánh dấu việc ghi chép “văn hóa hu vực trong lịch sử và
đương đại, với ý tưởng rằng phong tục đặc biệt có ý nghĩa với môi trường và đời
sống vật chất”

Nghiên cứu đời sống dân gian ở châu Âu đầu thế kỷ XX chịu ảnh hưởng của
ngành dân tộc học. Đại diện cho quan điểm này là nhà nghiên cứu đời sống dân
gian ở Thụy Điển – Sigurd Erixon (1888 – 1968). Các nhà nghiên cứu Anh – Mỹ
khởi đầu nghiên cứu đời sống dân gian ở Hoa K là Don Yoder (1921 -) và Alfred
L. Shoemaker (1913 -). Các học giả với cách tiếp cận mang tính chất dân tộc học
lịch sử và đương đại Mỹ. Tác giả Mary Hufford với tác phẩm Folklore and Folklife
(tạm dịch “Văn hóa dân gian và đời sống dân gian”) xuất bản năm 2000. Công
trình này đưa ra các quan điểm/tranh luận về lịch sử và những dấu ấn xã hội qua
nghiên cứu ở Appalachian (Mỹ). Qua t ng quan những công trình nghiên cứu của
các học giả nước ngoài về đời sống dân gian, luận án sử dụng những lý thuyết,
quan điểm, lập luận của các tác giả: Don Yoder (1921 -) và Alfred L. Shoemaker
Mary Hufford trong nghiên cứu đời sống dân gian và thực hành văn hóa gắn với
cộng đồng và sự phát triển. Luận án sẽ vận dụng quan điểm xu hướng kết hợp các
mối quan tâm về thẩm mỹ, truyền thống, chính trị và sinh thái của các tác phẩm này
trong nghiên cứu, đánh giá, phân tích.
Ở Việt Nam tiêu biểu có các tác giả như: Mai Viên Đoàn Triển (1854 – 1919)
với 2 công trình viết bằng chữ Hán và chữ Nôm “An Nam phong tục sách” và “Tiểu
học bản quốc phong tục sách” ghi lại những phong tục tập quán của người dân Việt
Nam; Tác giả Phan Kế Bính (1875 – 1921) tác phẩm "Việt Nam phong tục" (1915),
7


công trình nghiên cứu nghiêm túc, có tính phản biện về thuần phong mỹ tục của
Việt Nam; Tác giả Toan Ánh (1916 – 2009) là một tác giả với nhiều công trình gắn
với đề tài văn hóa truyền thống của Việt Nam, như: Phong tục Việt Nam (biên
khảo), Tín ngưỡng Việt Nam (biên khảo), Hội hè đình đám (biên khảo),
Một dấu mốc trong việc nghiên cứu các khía cạnh đời sống dân gian ở Việt
Nam phải kể đến 2 học giả Đào Duy Anh (1904 – 1988) và Nguyễn Văn Huyên
(1905 - 1975). Hai học giả này được các nhà chuyên môn đánh giá là những người
đặt nền móng cho nghiên cứu văn hóa, văn minh ở Việt Nam với các tác phẩm như:

“Việt Nam văn hóa sử cương” của Đào Duy Anh và Công trình “Góp phần nghiên
cứu văn hóa Việt Nam” của Nguyễn Văn Huyên. T những năm cuối thế kỷ XX
đến nay, ở nước ta có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đời sống dân gian
các dân tộc Việt Nam của các viện nghiên cứu, hiệp hội, trường học… liên quan
đến nghiên cứu văn hóa được thành lập như Viện Nghiên cứu Văn hóa, Viện Văn
hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam, Viện Dân tộc học; Hội Văn nghệ dân gian, Hội
Di sản văn hóa, Hội Dân tộc học và Nhân học… Rõ ràng, các đối tượng nghiên
cứu, nội dung nghiên cứu về các khía cạnh của đời sống dân gian không xa lạ với
các học giả Việt Nam, tuy nhiên thuật ngữ này hông được sử dụng ph biến.
- Các nghiên cứu về đời sống dân gian – bảo tàng và cộng đồng
Tiêu biểu có các tác phẩm: tác giả Patricia Hall và Charlie Seemann, với công
trình Folklife and Museums, Selected Readings (tạm dịch “Đời sống dân gian và
các bảo tàng, các tác phẩm chọn lọc”), 1987; Tác giả Kathryn E. Wilson với bài
viết Museum Experiences and community – process, method and expression (tạm
dịch “Khắc họa những kinh nghiệm bảo tàng t cộng đồng: Quá trình, phương pháp
và cách thể hiện”), xuất bản trên tạp chí Giáo dục bảo tàng (Mỹ), số 3 năm 1999;
Tạp chí của Trung tâm hỗ trợ văn hóa dân gian quốc gia (Mỹ) - Indian Folklife
(2001), với tiêu đề Museum, Folklife and Visual Culture (tạm dịch “Bảo tàng, Đời
sống dân gian và Văn hóa hình ảnh”); Tác giả Adam G. D. với tác phẩm Museum
and Community (tạm dịch “Bảo tàng và cộng đồng”), xuất bản năm 1993 [Error!
Reference source not found.]. Luận án áp dụng một số quan điểm của các học giả
trên, như: bảo tàng được coi như những nguồn tài nguyên của cộng đồng; là nơi
gặp gỡ của cộng đồng; sưu tầm hiện vật nhằm tạo điều kiện để các cộng đồng tìm
8


hiểu về chính bản thân họ; bảo tàng được xây dựng dựa trên những ký ức chọn lọc
của cộng đồng, và mở rộng đến các lĩnh vực tự nhiên và quan hệ xã hội.
Ở Việt Nam, có thể nói việc tiếp cận đời sống dân gian trong hoạt động của
bảo tàng được Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam tiếp cận sớm. Tác phẩm Các công

trình nghiên cứu của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam tập 1 – 5 [4], [5], [6], [7], [8].
Các công trình này đưa ra quan điểm “bảo tàng không chỉ phản ánh quá khứ mà
bảo tàng phản ánh hiện thực cuộc sống”. Đây là quan điểm mới về hình thức hoạt
động của bảo tàng ở Việt Nam; Tác giả Phạm Mai Hùng với bài viết Vai trò của
các bảo tàng Việt Nam trong việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc; Tác giả Nguyễn
Văn Huy và bài viết Làm thế nào để các di sản văn hóa vẫn sống trong nhân dân;
Có thể nói rằng, mặc dù các tác phẩm trong nước hông đề cập trực tiếp đến
thuật ngữ “đời sống dân gian”, nhưng một số nhà nghiên cứu, nhà bảo tàng học
Việt Nam đã giới thiệu mối tương quan giữa bảo tàng và việc bảo tồn văn hóa dân
tộc, di sản văn hóa dân tộc. Trong quá trình t ng quan điểm luận các công trình
nghiên cứu về đời sống dân gian và bảo tàng, tác giả luận án chưa tìm thấy có công
trình nghiên cứu chuyên biệt nào về lĩnh vực hai thác đời sống dân gian trong hoạt
động bảo tàng. Thực hiện luận án này, tác giả kế th a, vận dụng các kết quả nghiên
cứu đi trước nhằm tìm ra một hướng đi tuy hông phải là mới nhưng ít được các
bảo tàng ở Việt Nam hiện nay quan tâm.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Tính chính trị của bảo tàng
Thực hiện đề tài này, luận án sử dụng quan điểm tính chính trị của bảo tàng.
Khái niệm chính trị (politics) ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm: Chính
sách, giá trị chiến thuật trong việc quản lý, xử lý các vấn đề, các xung đột, mâu
thuẫn, sự thỏa hiệp và đồng thuận giữa các bên, quyền lực và cách phân phối tài
nguyên hay lợi ích
1.2.2. Cách tiếp cận và các quan điểm lý thuyết
- Tiếp cận nghiên cứu đời sống dân gian (thể loại nghề thủ công truyền thống)
trong bảo tàng t góc độ giá trị văn hóa. Nghiên cứu, khai thác các nghề thủ công
truyền thống t khía cạnh di sản văn hóa phi vật thể và thể loại đời sống dân gian là
hướng bảo tồn, phát huy giá trị hiệu quả, thiết thực; Tiếp cận nghiên cứu nghề thủ
9



công truyền thống trong Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh theo hướng tiếp cận liên
ngành giữa văn hóa học, bảo tàng học, nhân học, xã hội học, sử học, văn hóa dân
gian… để tìm ra những mối liên hệ tương tác giữa nghề thủ công truyền thống với
hoạt động của Bảo tàng; Tiếp cận lý thuyết về diễn giải, tính hiện thực và bảo tàng
học mới. Trong đó, luận án sẽ xem xét nghề thủ công truyền thống trong môi
trường xã hội được khai thác, bảo tồn và diễn giải như thế nào ở Bảo tàng.
- Luận án sử dụng các quan điểm lý thuyết về đời sống dân gian trong đó,
luận án xem xét đời sống dân gian là cuộc sống và các giá trị văn hóa của cộng
đồng, được thể hiện qua nhiều mối quan hệ tương tác. Với các đặc trưng của mình,
đời sống dân gian là phổ quát, đa dạng và bền vững. Đời sống dân gian làm phong
phú thêm di sản các quốc gia, và tạo sự thịnh vượng chung của các nền văn hóa.
- Bảo tàng và đời sống dân gian: Luận án quan niệm mối quan hệ giữa bảo
tàng và đời sống dân gian là lợi ích cộng đồng trên nhiều khía cạnh: bảo tồn di sản
cho cộng đồng; xây dựng các hoạt động giáo dục, vui chơi, thưởng thức văn hóa
cho cộng đồng; tạo nguồn kinh phí cho cộng đồng dựa trên chính các tri thức của
họ. Nói hác đi, việc kết hợp đời sống dân gian và các hoạt động bảo tàng thực sự
cần thiết và hữu ích đối với sự phát triển văn hóa, xã hội. Hiện nay, trên thế giới,
mục tiêu bao trùm của các trưng bày bảo tàng là liên tục cải thiện các phương pháp
diễn giải nhằm nâng cao giá trị của bảo tàng và sự hài lòng của công chúng khi
tham quan bảo tàng.

10


CHƢƠNG 2
BẢO TÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH: QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI
ĐƢA ĐỜI SỐNG DÂN GIAN VÀO BẢO TÀNG
(QUA TRƢNG BÀY VỀ NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG)
2.1. Khái quát về lịch sử Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh
Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay tọa lạc số 65 Lý Tự Trọng Quận

1, giới hạn bởi bốn con đường Lý Tự Trọng, Pasteur, Lê Thánh Tôn và Nam K
Khởi Nghĩa, trực thuộc sự quản lý của Sở Văn hóa – Thể thao Thành phố Hồ Chí
Minh. Bảo tàng được hình thành năm 1978. Trong quá trình lịch sử, tòa nhà đã
nhiều lần thay đ i chủ nhân và chức năng: tư dinh Thống đốc Nam k Henri Eloi
Danel, tư dinh Thống đốc Yoshio Minoda, dinh chính phủ Bảo Đại – Trần Trọng
Kim, trụ sở Ủy ban Hành chánh Lâm thời Nam bộ, trụ sở Ủy ban nhân dân Nam
bộ, trụ sở chính phủ Nam k tự trị, dinh T ng trấn (sau đ i thành Thủ hiến) Nam
phần, dinh Quốc khách, phủ t ng thống Ngô Đình Diệm, trụ sở của Tối cao Pháp
viện. Sau ngày thống nhất đất nước, Ủy ban nhân dân Thành phố quyết định sử
dụng tòa nhà này làm Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh (12/8/1978).
Bảo tàng chính thức mang tên Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh theo quyết định
số 7606/QĐ-UB-VX ngày 13/12/1999 [Error! Reference source not found.].
2.2. Quá trình chuyển đổi từ Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí
Minh đến Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh
2.2.1. Bảo tàng - sự chuyển đổi từ góc nhìn lịch sử cách mạng sang góc nhìn
lịch sử văn hóa
Những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, các Bảo tàng có những bước
chuyển biến, đ i mới về nội dung và đa dạng loại hình. Là một thành phố lớn, một
trung tâm văn hoá, inh tế, nhưng Thành phố Hồ Chí Minh chưa có bảo tàng khảo
cứu địa phương. Lãnh đạo Sở Văn hoá Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh đã đặt
vấn đề về việc chuyển đ i Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh thành Bảo
tàng Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là sự lựa chọn phù hợp nhất trong số các bảo
tàng tại thành phố thời điểm này. Với mục tiêu nhiệm vụ của Thành phố giao về
sưu tầm, trưng bày ỷ niệm 300 năm Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh, phạm vi
hoạt động và phương hướng phát triển của Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí
11


Minh được mở rộng hơn, Bảo tàng không chỉ tập trung sưu tầm các hiện vật về
kháng chiến mà còn chú trọng sưu tầm các hiện vật về văn hóa thể hiện đời sống

của nhân dân Sài Gòn t

hi hình thành đến nay. Bên cạnh những trăn trở, những

hó hăn trong việc thay đ i tên gọi và mở rộng nội dung hoạt động, Bảo tàng
Thành phố bắt đầu một quá trình học hỏi, mở rộng quan hệ và thay đ i góc nhìn –
T phạm vi hoạt động và hướng phát triển về lịch sử cách mạng sang phạm vi hoạt
động rộng hơn, đó là góc nhìn về lịch sử và văn hóa của vùng đất mới gần 300 năm
tu i.
2.2.2. Sự chuyển đổi về chức năng, nhiệm vụ của bảo tàng
Theo quyết định số 7606/QĐ-UB-VX của UBND Thành phố Hồ Chí Minh
vào ngày 13-12-1999 thì việc nâng cấp Bảo tàng Cách Mạng Thành phố Hồ Chí
Minh thành Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh không chỉ thay đ i tên gọi thông
thường mà còn phải thay chức năng nhiệm vụ bên trong. Trong đó, Bảo tàng Thành
phố Hồ Chí Minh có nhiệm vụ nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản và t chức trưng bày
những hiện vật, tư liệu, hình ảnh về lịch sử tự nhiên – xã hội của Thành phố gần
300 năm tu i.
2.2.3. Sự chuyển đổi trong trưng bày của Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh
Năm 1998, tòa nhà được chọn làm một trong những công trình trùng tu kỷ
niệm 300 năm Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh. Trong thời gian này, Bảo tàng
chuẩn bị đề cương trưng bày mới tạo tiền đề tiến tới hình thành bảo tàng t ng hợp
khảo cứu địa phương. Trong đó, có các phần trưng bày về Thiên nhiên – Khảo c ;
Địa lý – Hành chính Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh; Thương cảng, Thương
mại - Dịch vụ; Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp; Đấu tranh cách mạng giai
đoạn 1930-1954; Đấu tranh cách mạng giai đoạn 1954- 1975 và phòng trưng bày
Văn hóa dân gian Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, Bảo tàng còn thực
hiện nhiều cuộc triển lãm, trưng bày lưu động ở các trường học, vùng sâu vùng xa
nơi mà những người dân hó có điều kiện đến với bảo tàng.
2.3. Nghề thủ công truyền thống – Sự đổi mới trong trƣng bày của Bảo
tàng Thành phố Hồ Chí Minh

Có thể nói, ở góc độ khách quan, nghề thủ công truyền thống mang tính chất
“dung hòa” cho những quan điểm bất đồng trong việc thay đ i tên gọi của Bảo
12


tàng. Chủ đề nghề thủ công truyền thống là “sự lựa chọn an toàn” cho việc đ i mới,
b sung trưng bày. Đối với chặng đường phát triển của Bảo tàng, nghề thủ công
truyền thống, trước hết, mang một vai trò “chính trị”. Nghề thủ công truyền thống
luôn hiện diện trong các mặt hoạt động của Bảo tàng, t nghiên cứu, sưu tầm, tư
liệu hoá hiện vật, trưng bày, trình diễn… Như vậy, xuất phát điểm của việc khai
thác nghề thủ công truyền thống gắn liền với các chính sách phát triển Bảo tàng,
cũng như dung hòa các ý iến hông đồng thuận cho việc chuyển đ i tên gọi t
Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh thành Bảo tàng Thành phố Hồ Chí
Minh.
Một số nghề thủ công và làng nghề truyền thống của Sài Gòn – Thành phố Hồ
Chí Minh được giới thiệu trong phòng trưng bày số 4 “Công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp” của Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh. Nghề thủ công được diễn giải
trong trưng bày của Bảo tàng bằng các hình thức: hiện vật, bài viết, hình ảnh,
thuyết minh của cán bộ bảo tàng. Với gần 300 hiện vật, hình ảnh trưng bày, hách
tham quan có thể tìm hiểu về nghề gốm, nghề đúc đồng, nghề kim hoàn, nghề chạm
khắc gỗ của người dân trên địa bàn thành phố.
Tóm lại, dù chỉ là nội dung nhỏ của một bảo tàng t ng hợp, nhưng đời sống
dân gian là “một phần cuộc sống” của tất cả những người dân Thành phố Hồ Chí
Minh, là “cách sống” của cộng đồng cư dân nơi đây, là bản sắc phân biệt Thành
phố Hồ Chí Minh với các địa phương hác,… Chính vì vậy, việc chú trọng nghiên
cứu, sưu tầm, trưng bày cũng như các hoạt động dành cho công chúng, khách tham
quan của Bảo tàng liên quan đến đời sống dân gian là cần thiết.

13



CHƢƠNG 3
CÁC CHIỀU TƢƠNG TÁC TRONG VIỆC THỂ HIỆN ĐỜI SỐNG DÂN
GIAN Ở BẢO TÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH QUA TRƢNG BÀY
NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG

3.1. Tƣơng tác giữa truyền thống đã định hình và thực hành ở thời điểm
hiện tại
Sự tương tác giữa các truyền thống đã định hình và thực hành ở thời điểm hiện tại
của nghề thủ công truyền thống được nhìn nhận trên quan điểm về tính lịch sử, tính hiện
thực với các nguyên tắc tái hiện đời sống và giá trị tri thức của hiện vật.
3.2. Tƣơng tác giữa chủ thể văn hóa và Bảo tàng
Tương tác giữa chủ thể văn hoá và bảo tàng giữ vai trò nhất định trong việc
bảo tàng phát huy giá trị các sưu tập hiện vật. Dựa vào chủ thể văn hoá, bảo tàng
thu nhận hiện vật và các thông tin, xây dựng các chương trình trình diễn giao lưu.
Ngược lại, bảo tàng góp phần gìn giữ và giới thiệu các di sản cũng như ết nối các
chủ thể văn hoá. Bên cạnh đó, sự tham gia của chủ thể văn hoá sẽ hỗ trợ bảo tàng
các góc nhìn đa chiều trong quá trình hoạt động của bảo tàng.
Qua góc nhìn của những nghệ nhân, luận án cho rằng mối quan hệ của Bảo
tàng với chủ thể văn hoá còn bất cập và hạn chế. Trong vòng tròn mà Bảo tàng cần

14


đạt được đối với các chủ thể văn hoá là: thiết lập quan hệ và kết nối lâu bền; ngay
t bước đầu tiên, Bảo tàng chưa đạt được hiệu quả cao.
3.3. Tƣơng tác giữa cán bộ bảo tàng và chủ thể văn hóa
Qua kết quả khảo sát định lượng, Luận án có thể khái quát về đối tượng khách
tham quan đến Bảo tàng đa phần là các bạn trẻ ở độ tu i dưới 16 (học sinh), các
bạn sinh viên, viên chức nhà nước và người làm buôn bán, dịch vụ ở độ tu i t 16

đến 30 tu i. Họ đến Bảo tàng thông qua sự giới thiệu của người thân và bạn bè, và
đi cùng với họ cũng thường là bạn bè, gia đình và người thân. Một vấn đề mà Luận
án nhận thấy, ở độ tu i càng lớn thì nhu cầu tham quan Bảo tàng lại càng giảm.
Trong hi đó, chúng ta đều biết rằng đây là nhóm đối tượng mà ý thức gìn giữ các
giá trị văn hóa tinh thần cao hơn các nhóm đối tượng còn lại nên việc mong muốn
tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử, văn hóa và các loại hình truyền thông là điều quan
tâm của họ. Do đó, phải chăng các trưng bày và các chương trình dành cho công
chúng của Bảo tàng không phù hợp hoặc chưa hướng tới nhóm đối tượng này.
Thông qua việc khảo sát khách tham quan ở nhiều độ tu i, giới tính và trình độ
khác nhau Luận án cho rằng Bảo tàng cần cải thiện trong trưng bày thường xuyên về các
nghề thủ công truyền thống ở Phòng trưng bày Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp của
bảo tàng cũng như sự cần thiết phải có không gian trải nghiệm cho các nghề thủ công
truyền thống và các chương trình biểu diễn, giao lưu về các ngành nghề này trong Bảo
tàng. Có như vậy chúng ta mới tạo được sự hứng thú và quan tâm của khách tham quan
đến các nghề thủ công truyền thống ở Thành phố Hồ Chí Minh.

15


CHƢƠNG 4
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
TỪ THỰC TẾ VIỆC THỂ HIỆN ĐỜI SỐNG DÂN GIAN
Ở BẢO TÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
4.1. Nhận thức và thực hành về bảo tàng trong bối cảnh phát triển xã hội
ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay – sự chuyển động của bảo tàng
4.1.1. Quan điểm nhận thức về đổi mới bảo tàng trong bối cảnh hội nhập
quốc tế và hoạt động du lịch gắn với di sản
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, Bảo tàng phải chuyển mình để phù
hợp với tình hình thực tiễn. Bảo tàng hông chỉ là nơi lưu giữ quá hứ, chiến tranh.
Nhu cầu hách tham quan cần được hiểu sâu hơn, đang dạng hơn về đời sống xã

hội của cư dân Thành phố - Lĩnh vực đời sống dân gian mà bảo tàng hai thác cần
có sự lựa chọn, Luận án cho rằng nghề thủ công truyền thống là sự lựa chọn hợp lý
trong bối cảnh này.
Qua thực tế các hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, trưng bày và các hoạt động
công chúng liên quan đến nghề thủ công ở Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh, luận
án nhận thấy rằng Bảo tàng mới bắt đầu tiếp cận nghề thủ công truyền thống dưới
góc độ là một di sản văn hoá phi vật thể, góc độ đời sống dân gian chưa được bảo
tàng nhìn nhận đầy đủ và thấu đáo. Có lẽ đây chính là mấu chốt dẫn đến những
nhận thức và định hướng hoạt động của Bảo tàng trong trưng bày đời sống dân gian
– đặc biệt là nghề thủ công còn nhiều vấn đề cần phải đ i mới cho phù hợp. Để thu
hút được khách tham quan, thiết nghĩ, Bảo tàng nên kết hợp tiếp cận nghề thủ công
truyền thống và các làng nghề ở Thành phố Hồ Chí Minh ở 2 góc độ: di sản văn
hoá phi vật thể và đời sống dân gian để có những kết quả đa chiều, mang lại nhiều
phương thức hiệu quả trong khai thác và bảo tồn các di sản.
4.1.2. Vai trò của các bên liên quan: Bảo tàng – cộng đồng và chủ thể văn hóa
Bảo tàng mang lại cho những ký ức về đời sống dân gian một nơi ẩn náu hữu
hình mới, là bộ nhớ cho các ký ức, đây chính là thế mạnh của Bảo tàng. Các sưu
tập nghề thủ công truyền thống ở bảo tàng, có thể liệt kê những thế mạnh về đời số
dân gian trong bảo tàng như: là một khuôn mẫu quá khứ để khách tham quan nhận
diện những ý nghĩa, giá trị văn hoá, xã hội; là nguồn dữ liệu để xác định lại giá trị
16


và bản sắc của một số nhóm; là một địa điểm lưu giữ minh chứng về bản quyền văn
hoá: tài sản văn hoá và chủ thể văn hoá.
Thể hiện nghề thủ công truyền thống dưới góc độ là một thể loại đời sống dân
gian, bảo tàng sẽ có vai trò và phạm vi hoạt động rộng hơn, chứ không chỉ đơn
thuần là việc giới thiệu, bảo tồn di sản này. Đời sống dân gian là một quá trình văn
hoá, xã hội, có mối liên hệ t quá khứ đến hiện tại; là tài nguyên để thách thức và
xác định lại các giá trị đã nhận và bản sắc của nhóm. Đời sống dân gian thông qua

bảo tàng như một sự tái hiện nhu cầu văn hoá, các vấn đề xã hội của quá khứ và sự
thay đ i hiện nay. Như thế, với nghề thủ công truyền thống, tiếp cận ở góc độ đời
sống dân gian, không chỉ là kỹ năng, tri thức nghề, truyền nghề… mà còn là các
nhu cầu xã hội, đời sống sinh hoạt, sự sáng tạo… thông qua các sản phẩm thủ công.
Để nhận diện rõ cơ hội cho bảo tàng trong bối cảnh hiện đây, Luận án nhìn
nhận việc hai thác đời sống dân gian ở Bảo tàng theo quy trình dưới đây, chúng ta
có thể phân tích và đưa ra những mô hình và xu hướng hoạt động cho các bảo tàng
nói chung và Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng:

Quy trình khai
thác đời sống dân
gian ở bảo tàng

TƯ LIỆU HÓA

DIỄN GIẢI

BẢO VỆ VÀ
PHÁT HUY
GIÁ TRỊ

Nghiên cứu
Sưu tầm
Kiểm kê

Trưng bày
Trình diễn
Xuất bản ấn phẩm

Công tác giáo dục

Các chương trình
dành cho công
chúng

17


Mô hình này như một hình thức thể hiện giao diện hợp lý và hiệu suất giữa
bảo tàng và đời sống dân gian. Tương ứng với mỗi hoạt động trong quy trình bảo
tồn và phát huy giá trị của đời sống dân gian là các khâu nghiệp vụ bảo tàng. Mức
độ thành công của việc bảo tồn và phát huy đời sống dân gian phụ thuộc vào kết
quả hoạt động bảo tàng. Ngược lại, việc thể hiện đời sống dân gian thông qua lăng
kính bảo tàng phản ánh sự thay đ i về quan điểm, năng lực nghiên cứu, thậm chí là
chính trị của bảo tàng.
Để có thể tái tạo lại đời sống dân gian, các bảo tàng thực hiện bài bản, chuyên
nghiệp và đầy đủ các khâu hoạt động như mô hình tác giả đề cập ở trên, cụ thể là
việc tư liệu hoá, diễn giải và bảo tồn, phát huy giá trị đời sống dân gian. Có như
vậy, bảo tàng mới phát huy được vai trò của mình trong việc phục vụ cộng đồng và
đáp ứng nhu cầu của các bên liên quan.
4.2. Những vấn đề đƣơng đại trong hoạt động bảo tàng ở Việt Nam hiện
nay
4.2.1. Khai thác giá trị văn hóa dân gian trong bảo tàng gắn với bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa
Điều kiện tiên quyết đảm bảo sự tồn tại lâu dài và chuyển giao đời sống dân
gian t thế hệ này sang thế hệ khác là bản thân đời sống dân gian phải được gắn với
đời sống đương đại sinh động của một cộng đồng cư dân nhất định chứ không phải
hoá thạch trong kho bảo tàng. Đời sống dân gian được bảo tàng khai thác và sử
dụng cho trưng bày, trình diễn hấp dẫn bao nhiêu, phụ thuộc rất nhiều vào đời sống
dân gian trong bối cảnh đương đại. Bảo tồn và phát huy giá trị các thể loại đời sống
dân gian phải được gắn với cộng đồng, chủ thể của nó; được tái tạo, sáng tạo và

truyền t thế hệ này sang thế hệ khác.
4.2.2. Vấn đề nhận thức về chiến lược phát triển - bảo tàng không chỉ lưu giữ
quá khứ mà còn phản ánh hiện thực cuộc sống
Bảo tàng là hông gian trưng bày, gặp gỡ và giao lưu của nhiều bộ phận,
nhiều nhóm văn hóa hác nhau thông qua tiêu điểm các hiện vật và bộ sưu tập. Đây
chính là một trong những đặc tính và giá trị được quan tâm hàng đầu đối với bất k
bảo tàng nào. Đặc biệt, với đối tượng là đời sống dân gian thì điều này lại càng trở
nên quan trọng và có ý nghĩa, là đại diện, là tiếng nói mang tính tiêu biểu về lịch
18


sử, văn hóa của cộng đồng. Chúng được xác định là tiền đề, là thành tố trung tâm
của mối quan hệ bảo tàng giữa các bên: Cộng đồng – Người làm bảo tàng – Công
chúng, xã hội. Khai thác đời sống dân gian trong bảo tàng tạo nên sự đa chiều,
phong phú, sinh động hơn trong diễn giải cũng như nhận thức văn hóa. Luận án cho
rằng, đây là xu hướng vận động của tất cả các bảo tàng mà trong phạm vi hoạt động
và phương hướng phát triển có lĩnh vực đời sống dân gian. Trong đó, các hoạt động
trưng bày ngoài trời, trình diễn, giao lưu,… tại bảo tàng nhằm giới thiệu với công
chúng những giá trị văn hóa hiện đang sống ở trong cộng đồng ngày càng được bảo
tàng chú trọng.
4.2.3. Vấn đề gắn kết bảo tàng với cộng đồng
Ngày nay, để hoạt động bảo tồn và phát huy di sản được ngày càng tốt hơn,
bảo tàng cần gắn kết chặt chẽ với cộng đồng, ngay cả trong hông gian trưng bày
của bảo tàng cần có hông gian văn hóa cho cộng đồng mà bảo tàng phản ánh. Mối
quan hệ giữa Bảo tàng với cộng đồng và chủ thể văn hoá ngày có xu hướng gắn kết
để thực hiện tốt mục tiêu của mình.
4.2.4. Xu hướng bảo tàng thông minh và vấn đề cạnh tranh giữa các bảo tàng
trong bối cảnh hiện nay
- Hiện nay, khái niệm bảo tàng thông minh không còn xa lạ, khi được áp dụng
rộng rãi: bảo tàng trực tuyến (online museum), bảo tàng mạng (web museum), bảo

tàng kỹ thuật số (digital museum), hoặc bảo tàng truyền thống có ứng dụng công
nghệ như công nghệ thực tế ảo, thuyết minh tự động... được xem là bảo tàng thông
minh. Luận án cho rằng, bảo tàng thông minh sẽ là xu hướng vận động chung trong
đ i mới hoạt động của bảo tàng hiện nay. Các bảo tàng muốn thu hút công chúng,
cần phải đ i mới nội dung hoạt động và ứng dụng hoa học, ỹ thuật công nghệ
vào hoạt động của bảo tàng.
- Trước thực trạng phát triển inh tế và hội nhập quốc tế đã đặt ra cho bảo tàng
những thách thức hông nhỏ. Bảo tàng muốn tồn tại, buộc phải cạnh tranh với nhau.
Đồng thời, bảo tàng cũng phải cạnh tranh với các thiết chế văn hoá hác các loại hình
nghệ thuật giải trí ngày càng đ i mới, với sự phong phú, đa dạng như hiện nay. Các bảo
tàng cần phải đ i mới về chất lượng và sự đa dạng sản phẩm mà mình cung cấp cho xã

19


hội để quảng bá và lôi éo công chúng đến với bảo tàng. Mỗi bảo tàng cần phải có
nhiều hình thức nhằm tuyên truyền, quảng bá về các hoạt động của mình.
4.2.5. Vấn đề nhận thức trong nghiên cứu và thực hành bảo tàng
Gần như một định kiến, hi nói đến bảo tàng, mọi người thường nghĩ đến đó
là nơi trưng bày các hiện vật, hình ảnh bằng những cách thức truyền thống: treo,
dán, đặt, để,… nhằm mục đích chuyển tải, giáo dục nội dung, ý nghĩa lịch sử, văn
hóa đến với khách tham quan và công chúng.
Với việc tiếp cận lĩnh vực đời sống dân gian, bảo tàng đã có một nguồn chất
liệu hác trước. Nó cũng có hiện vật, nhưng bên cạnh đó còn là cả một đời sống,
những con người, những câu chuyện và mối quan hệ. Đôi hi, hiện vật và những
thứ hiện hữu không còn là trung tâm chính của việc trưng bày, mà chúng đóng vai
trò điểm nhấn để mở ra những khung cảnh rộng lớn hơn, dẫn dắt đến những truyền
thống lịch sử, văn hóa của cộng đồng. Thậm chí, có thể gọi đời sống dân gian là
một t ng thể được hợp thành t rất nhiều thứ đơn giản, bình thường, nhưng giá trị
nó mang lại thì không thiếu sự đặc biệt và thú vị.

Quay trở lại với Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh, bối cảnh của đời sống dân
gian cũng như sự hiện diện của chủ thể văn hoá đóng vai trò quan trọng trong việc
tác động đến cộng đồng để bảo tồn, phát huy giá trị đời sống dân gian. Đây cũng
chính là thách thức cho các hoạt động và chương trình giáo dục của Bảo tàng: thiết
thực, đa dạng, sâu sắc và mang lại trải nghiệm cho công chúng. Đồng thời, đây
cũng là xu hướng mà các Bảo tàng tồn tại và phát triển trong bối cảnh hiện nay

20


KẾT LUẬN
Đời sống dân gian luôn gắn bó mật thiết với con người, với cuộc sống thăng
trầm của nhân loại. Luận án đã áp dụng cơ sở lý luận về đời sống dân gian trong
nghiên cứu trường hợp bảo tàng cụ thể, t đó làm cơ sở cho việc tiếp cận đời sống
dân gian trong hoạt động của bảo tàng ở Việt Nam hiện nay. Luận án nhìn nhận và
tiếp cận đời sống dân gian như một tài liệu về xã hội, là ích thước của văn hoá vật
chất, là hiện thân của tính thẩm mỹ, giá trị của nền văn hoá. Và những gam màu đa
dạng của đời sống dân gian chính là các câu chuyện hấp dẫn mà bảo tàng địa
phương có thể ứng dụng. Khai thác đời sống dân gian ở các bảo tàng là vấn đề diễn
giải, tính hiện thực, bảo tàng hóa và bảo tàng học mới. Trong đó, quá trình diễn
giải, phương thức diễn giải để truyền đạt thông điệp, ý nghĩa của các yếu tố văn
hóa, dấu ấn lịch sử xã hội là một trong những nội dung các bảo tàng nên tiếp cận.
Bên cạnh đó, việc chuyển hóa những di sản đời sống dân gian t thực tế cuộc sống
vào bảo tàng cũng là nền tảng lý thuyết các bảo tàng tham khảo. Ngoài ra, bảo tàng
học mới với việc nhấn mạnh đến trọng tâm của bảo tàng là con người, cộng đồng
làm tăng thêm hiệu quả hoạt động của bảo tàng khi nhìn nhận về đời sống dân gian.
Thực hiện luận án này, NCS đúc ết một số điểm về đời sống dân gian trong hoạt
động bảo tàng – Nghiên cứu trường hợp Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh như
sau:
1. Đời sống dân gian cũng là một tài nguyên với những tinh hoa v a mang

tính truyền thống v a mang tính đương đại; v a là minh chứng của quá khứ v a là
dấu ấn của sự thay đ i hiện tại; v a là bản sắc cộng đồng v a là sự sáng tạo cá thể.
Nghề thủ công truyền thống là một trong những thể loại đời sống dân gian được
nghiên cứu, sưu tầm và giới thiệu ở Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh. Cách thức
tiếp cận các nghề thủ công truyền thống, việc hợp tác với cộng đồng, diễn giải
những giá trị của nghề, minh hoạ cho sự tồn tại và phát triển các nghề thủ công
truyền thống của Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh. T nghiên cứu trường hợp của
đời sống dân gian ở Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án mở rộng vấn đề
của đời sống dân gian ở các bảo tàng của cả nước nói chung.
2. Trong bối cảnh xã hội phát triển, đẩy mạnh giao lưu và hội nhập quốc tế
hiện nay, bảo tàng không những là nơi lưu giữ, truyền bá các giá trị văn hóa, lịch
21


sử; quan trọng hơn, bảo tàng là cầu nối công chúng với quá khứ và tương lai, là cầu
nối giá trị lịch sử - văn hóa - khoa học giữa dân tộc này với dân tộc khác, cộng
đồng này với cộng đồng khác. Các bảo tàng tỉnh, thành phố ngày càng góp phần lộ
diện những khía cạnh hữu hình cũng như vô hình t các hiện vật của đời sống dân
gian. Giao diện giữa Bảo tàng và đời sống dân gian há hăng hít và chặt chẽ,
nâng cao hiệu quả trong việc khám phá sự phức tạp của đời sống dân gian cũng như
diễn giải chúng để hấp dẫn khách tham quan. Thực tế đã chứng minh, khách tham
quan – công chúng đến với bảo tàng càng ngày càng mở rộng. Đời sống vật chất
của người dân ngày càng được nâng cao, nhu cầu thưởng thức văn hóa, giải trí, thư
giãn của họ ngày một nhiều. Công chúng muốn tìm kiếm những sản phẩm hàng hóa
tinh thần thỏa mãn tính tò mò, khả năng hiểu biết… của họ. Bảo tàng đã và đang
theo xu hướng tất yếu này: Bảo tàng là nguồn tài nguyên của cộng đồng; công
chúng không chỉ là khách tham quan mà còn là những người tham gia bình đẳng
trong sự phát triển và hoạt động của bảo tàng. Nói cách khác, bảo tàng là đối tượng
của sự thay đ i xã hội mang tính tích cực.
3. Ý nghĩa và thời điểm thực sự của đời sống dân gian là khi những cảm xúc

và cảm giác được tham gia của khách tham quan thông qua hành động truyền và
nhận những kỷ niệm, những kiến thức. Trong mối quan hệ giữa bảo tàng và đời
sống dân gian, bảo tàng giúp khách tham quan tham gia kết nối và tương tác với
các niềm tin hay ẩn ý mà đời sống dân gian mang lại. Bảo tàng tạo lại kỷ niệm và
kiến thức liên quan đến đời sống dân gian để giúp khách tham quan hiểu và nhận
thức được vấn đề. Đời sống dân gian ở bảo tàng như một khuôn mẫu quá khứ để
khách tham quan xem và nhận ra những gì là ý nghĩa với họ. Bên cạnh đó, hi
trưng bày về đời sống dân gian, Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh tạo nên sự đa
dạng trong nghiên cứu và thực hành. Các phòng trưng bày sẽ nhẹ nhàng hơn, giúp
khách tham quan nhìn nhận đa chiều, bớt đi góc nhìn nặng nề, khắc nghiệt về chiến
tranh. T đó có thể tương tác với các hoạt động của bảo tàng về cuộc sống đời
thường thông qua các trưng bày, trình diễn về đời sống dân gian.
4. Đời sống dân gian – cụ thể trong luận án này là các nghề thủ công truyền
thống và Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh – nên được nhìn nhận t các góc độ:
nguyên tắc, bản sắc, hiệu quả và các vấn đề.
22


Về nguyên tắc, Bảo tàng là nơi phản ánh mối quan tâm cơ bản về tính hữu
dụng và sự thích hợp xã hội của các nghề thủ công tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Về bản sắc, thông qua bảo tàng, bản sắc dân tộc, bản sắc nghề nghiệp, bản sắc
khu vực định hình nghề thủ công được thể hiện, minh hoạ.
Về hiệu quả, bảo tàng là môi trường đặc biệt giúp hồi sinh các nghề thủ công
truyền thống; là địa điểm khám phá các khía cạnh bí truyền – công truyền của nghề
thủ công; là cơ sở cho các dự án nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các nghề thủ công
truyền thống; là nền tảng cho sự phát triển, mở rộng các hoạt động của bảo tàng; là
không gian của mối quan hệ bảo tàng và cuộc sống hiện thực của con người.
Bảo tàng phản ánh sự đa dạng các kinh nghiệm văn hoá: việc học và truyền
bá nghề, vật liệu và quy trình tạo ra sản phẩm, chức năng của nghề thủ công, ý
nghĩa thẩm mỹ; biểu hiện những ý tưởng và giá trị của các hông gian văn hoá tạo

ra nghề thủ công; bằng chứng về sự liên tục và những biến đ i của nghề thủ công
theo thời gian và ý nghĩa đối với các nghệ nhân dân gian…
5. Trong những năm gần đây, các bảo tàng ở Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến
hành nhiều hoạt động phục vụ cộng đồng và thu hút cộng đồng cùng tham gia phát
triển bảo tàng với những hình thức, dạng thức khác nhau. Những hoạt động đó
không những làm cho bảo tàng hoàn thiện và phát triển mà còn giúp cho mối liên
hệ giữa cộng đồng và bảo tàng ngày càng chặt chẽ. Bảo tàng trở nên dễ tiếp cận và
gần gũi hơn với nhu cầu của công chúng, của cộng đồng.
Các bảo tàng ý thức được vai trò và nhiệm vụ của mình với xã hội. Bảo tàng
luôn làm mới mình nhằm thu hút đông đảo công chúng, không chỉ là điểm đến hấp
dẫn với công chúng mà còn xây dựng các hoạt động để cộng đồng cùng tham gia
vào sự nghiệp bảo tồn, phát triển văn hóa. Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã có
những cơ chế, những điều chỉnh hợp lý nhằm phát triển hệ thống bảo tàng trên địa
bàn thành phố, thu hút nguồn nhân lực bảo tàng, mở rộng các hoạt động dịch vụ
(cửa hàng lưu niệm, ăn uống, giải khát, t chức sự kiện, họp mặt truyền thống…)
phù hợp với hông gian và đặc trưng của t ng bảo tàng.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm mạnh, mối quan hệ giữa các bảo tàng trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và cộng đồng còn một số hạn chế. Các cuộc trưng
bày là điểm nhấn quan trọng của bảo tàng, cũng giống như “những vở kịch là trái
23


×