Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Xây dựng và hoàn thiện mô hình pháp lý công ty mẹ công ty con ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.9 MB, 101 trang )


VIỆN NGHIÊN CỨU NHÀ NƯỚ C

TRƯÒNG ĐẠI H Ọ C

V À PHÁP LUẬT

LUẬT
■ HÀ NỘI


ĐẶNG THU THỦY

X Â Y DỰNG
V À HOÀN THIỆN

■ MÔ HÌNH
PHÁP LÝ 'X Ồ N G TY MẸ - CÔNG TY CON"


ỏ VIỆT NAM


Chuyên ngành: Luật Kinh tê
Mã sô : 50515
___
i m

LUẬN
YẢN THẠC
s ĩ LUẬT


HỌC




Người hướng dẫn: TS. Trần Ngọc Dũng

HANOI - 2003


MINH MỤC CÁC CHỮ VI€T TRT

SỐ TT

Ký hiệu

Nội dung

1.

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

2

UBND

Uỷ ban nhân dân


3.

HĐQT

Hội đồng quản trị

4.

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

5.

Nxb

Nhà xuất bản

Đ ặ n g Thu Thủy/Luận v ỡ n T h ạc sĩ Luột/2003


3

MUC
• LUC

LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ MÔ HÌNH PHÁP LÝ “CÔNG TY

Tr. 6


10

MẸ- CÔNG CON”

1.1.

Khái niệm mô hình pháp lý công ty mẹ - công ty con

10

1.1.1.

Cơ sở pháp lý của việc hình thành quan hệ công ty mẹ -

10

công ty con
13

1.1.2.

Bản chất của quan hệ công ty mẹ - công ty con

1.1.3.

Đặc điểm quan hệ công ty mẹ - công ty con

1.1.4.


Định nghĩa mô hình pháp lý công ty mẹ - công ty con

16

1.2.

Đối tượng áp dụng thí điểm mô hình công ty mẹ - công

18

14

ty con
1.2.1.

Vai trò chủ đạo và yêu cầu đổi mới nâng cao hiệu quả

18

hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
1.2.2.

Trình độ, quy mô tổ chức quản lý hoạt động sản xuất-kinh

19

doanh của doanh nghiệp nhà nước
1.2.3.

Định hướng chiến lược và quy hoạch phát triển ở một số


20

ngành, lĩnh vực
1.3.

Lý do, mục đích xây dựng mô hình pháp lý công ty mẹ

23

- công ty con hiện nay
1.3.1.

Lý do xây dựng mô hình pháp lý công ty mẹ - công ty

23

con
1.3.2.

Mục đích của việc chuyển Tổng công ty, doanh nghiệp

26

nhà nước quy mô lớn sang hoạt động theo mô hình công
ty mẹ - công ty con
1.4.

So sánh mô hình công ty mẹ - công ty con với mô hình
tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước độc lập quy mô

lớn hiện nay

Đ ộ n g ĩh u Thuỷ/Luộn v ă n T hạc sĩ Luột/2003

29


1.5.

Kinh nghiệm quốc tê về xây dựng mô hình công ty mẹ công ty con

1.5.1.

Một số dạng mô hình công ty mẹ - công ty con qua kinh
quốc tế

1.5.2.

M ột số kinh nghiệm quốc tế về tổ chức và hoạt động của
các tập đoàn kinh tế theo mô hình công ty mẹ - công ty
con (trên cơ sở so sánh các dạng tập đoàn)

CHƯƠNG 2: T ổ CHỨC, QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP HOẠT ĐỘNG THEO MÔ HÌNH
PHÁP LÝ CÔNG TY MẸ - CÔNG TY CON

2.1.

\ Tổ chức, quản lý của công ty mẹ

2.1.1.


Cơ cấu tổ chức của công ty mẹ

2.1.2.

Cơ chế quản lý, điều hành công ty mẹ

2.2.
2.2.1.

i Tổ chức, quản lý công ty con
Cơ cấu tổ chức của công ty con (phân theo loại hình
doanh nghiệp)

2.3.

Quan hệ giữa công ty mẹ vói các công ty con

2.3.1.

Quan hệ giữa công ty mẹ với công ty con nhà nước

2.3.2.

Quan hệ giữa công ty mẹ với công ty con là công ty
TNHH một thành viên

2.3.3.

Quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con có cổ phần, vốn

góp chi phối của công ty mẹ

2.3.4.

Quan hệ giữa công ty mẹ và các doanh nghiệp là công ty
có cổ phần đặc biệt và các dạng liên kết

doanh nghiệp

khác
2.4.

Quan hệ giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
doanh hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con

2.4.1.

Quan hệ quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật

2.4.2.

Quan hệ giữa đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại
doanh nghiệp

Đ ặ n g Thu T huỷ/Luộn v â n T h ạc sĩ Luột/2003


5
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DựNG VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ T ổ CHỨC


79

VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY MẸ - CÔNG TY CON

3.1.

Phương hướng chung của việc xây dựng và hoàn thiện

79

pháp luật về tổ chức và hoạt động của công ty mẹ công ty con
3.1.1.

Cần xây dựng một Quy chế chuyển tổng công ty và doanh

79

nghiệp nhà nưóc sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ công ty con
3.1.2.

Các Bộ ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Quy chế

83

chuyển tổng công ty và doanh nghiệp nhà nước sang hoạt
động theo mô hình công ty mẹ - công ty con
3.1.3.

Tổ chức và vận hành cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực


87

hiện Quy chế chuyển tổng công ty và doanh nghiệp nhà
nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con
3.2.

Những kiến nghị về việc xây dựng và hoàn thiện pháp

90

luật về tổ chức và hoạt động của công ty mẹ - công ty con
KẾT LUẬN

96

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

98

SO Đ ổ

Sơ đồ 1: Tổ chức Tổng cồng ty Hàng không Việt Nam trước khi

34

thí điểm mô hình mới
Sơ đồ 2: Tổ chức Tổng công ty Hàng không Việt Nam sau khi hoàn

35


chỉnh mô hình Công ty mẹ - Công ty con
Sư đồ 3: Các mức độ liên kết trong mô hình Công ty mẹ - Công tycon

37

Sơ đồ 4: Mô hình tập đoàn Lufthansa Ag (Tr. )

39

Đ ộ n g Thu Thuý/Luộn v â n T hạc sĩ Luột/2003


6

LỜI NÓI Đnu
1. TÍNH C Ấ P THIẾT C Ủ A VIỆC NGHIÊN c ứ u D Ề TÀ!

Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam (1986) đã mở đầu
cho công cuộc đổi mới và phát triển toàn diện doanh nghiệp nhà nước. Từ
đây, đổi mới doanh nghiệp nhà nước được đặt trong tổng thể đổi mới nền
kinh tế nói chung. Cho đến nay, doanh nghiệp nhà nước đã trải qua nhiều đợt
sắp xếp lại và đang dần dần thích ứng với cơ chế mới, đóng góp tích cực vào
sự phát triển của nền kinh tế, chi phối các ngành, các lĩnh vực then chốt và
sản phẩm thiết yếu, thực hiện vai trò ổn định phát triển kinh tế-xã hội của đất
nước ta.
Để thực hiện được mục tiêu tiến hành đổi mới nhằm nâng cao hiệu
quả và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nưóc trong nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, đã có nhiều văn bản pháp quy về đổi mới cơ chế,
chính sách quản lý vĩ mô được ban hành trong các lĩnh vực như: kế hoạch
hoá, tiền lương, tài chính, tín dụng v.v... Đổng thời, Nhà nước cũng quan tâm

đổi mới tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước theo hướng tăng cường
quyền tự chủ và tự chịu trách nhiêm của doanh nghiệp nhà nước, giảm bói sự
can thiệp trực tiếp của các cơ quan quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Một số mô hình tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước
đà được áp dụng như: mô hình doanh nghiệp nhà nước có HĐQT được áp
dụng cho các Tổng công ty thành lập theo Quyết định 90/Ttg và 91/TTg
ngày 7-3-1994 của Thủ tướng Chính phủ và mô hình doanh nghiệp nhà nước
không có HĐQT áp dụng cho các doanh nghiệp nhà nước độc lập và doanh
nghiệp nhà nước thành viên hạch toán độc lập thuộc các Tổng công ty. Nhờ
vậy, bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định trong việc ổn định và
phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình vận hành, việc thực hiện
các mô hình tổ chức quản lý đang bộc lộ một số mặt hạn chế gây ảnh hưởng
đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động của
các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng và nguồn
lực được nhà nưóc giao
Tinh hình thực tiễn trên đã đặt ra nhiều yêu cầu đòi hỏi Nhà nước ta
cần nghiên cứu hoàn thiện các mô hình tổ chức quản lý hiện hành để tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tổng công ty hay các
doanh nghiệp nhà nước độc lập quy mô lớn thực sự là chủ thể kinh doanh
trên thị trường. Khắc phục một phần những hạn chế này, trong thời gian gần
đây Đảng và Nhà nước đã có chủ trương cho phép một số doanh nghiệp thực
Đ ặ n g Thu Thuỷ/Luộn v ã n Thọc sĩ Luột/2003


7
hiện thí điểm mô hình tổ chức quản lý mới (ví dụ: mô hình Chủ tịch HĐQT
và Tổng giám đốc là một người ở Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt
Nam). Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ ba
(khoá IX) đã chủ trương tiến hành thí điểm, rút kinh nghiệm để nhân rộng
việc thực hiện chuyển tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước độc lập quy mô

lớn sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Có thể coi đây là
một trong những giải pháp quan trọng để khắc phục được những nhược điểm
và tiếp tục cải cách, củng cố vị trí của doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn
hiện nay. Những lý do để tiến hành hoạt động này là:
Thứ nhất: nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước để thực hiện vai trò nòng cốt và
then chốt trong nền kinh tế.
Thứ hai: việc tổ chức, quản lý và tổ chức sản xuất kinh doanh theo mô
hình công ty mẹ - công ty con là phù hợp vói sự phát triển của doanh nghiệp
hoạt động trong giai đoạn hiện nay.
Thứ ba: việc đổi mới tổ chức quản lý là nhu cầu bức xúc và cần thiết
của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay nhằm đáp ứng yêu cầu của quá
trình hội nhập khu vực và thế giới.
Như vậy, việc thực hiện thí điểm mô hình pháp lý công ty mẹ - công
ty con sẽ góp phần khắc phục được những bất cập trong tổ chức quản lý và
Cơ chế hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Đây là mô hình tổ chức doanh
ngiệp đáp ứng được nhu cầu phát triển của doanh nghiệp trong giai đoạn tới.
Tim hiểu những cơ sở lý luận và thực tiễn cũng như một số quy định cụ thể
về mô hình công ty mẹ - công ty con để từ đó đưa ra những giải pháp thích
hợp để xây dựng và hoàn thiện mô hình pháp lý công ty mẹ - công ty con là
một vấn đề hết sức cần thiết nhằm góp phần thực hiện chủ trương đổi mới và
sắp xếp doanh nghiệp của nhà nước hiện nay. Chính vì vậy mà chúng tôi
chọn vấn đề “Xây dựng và hoàn thiện mô hình pháp lý công ty mẹ - công ty
con” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học Luật, chuyên ngành Luật Kinh
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN

cứu

Đ Ề TÀI


Cho tới nay, chúng ta vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu đề cập
một cách có hệ thống về những quan niệm cơ bản của mô hình công ty mẹcông ty con cũng như những quy định cụ thể về tổ chức, quản lý các doanh
nghiệp hoạt động theo mô hình này. Một số công trình nghiên cứu khoa học
mới chỉ tập trung vào nghiên cứu các tập đoàn kinh tế, mà thực chất mô hình
công ty mẹ - công ty con là một trong những hình mẫu phổ biến về quan hệ
Đ ộ n g Thu Thuỷ/Luộn v ă n Thọc sĩ Luột/2003


8

liên kết, tập trung sức mạnh kinh doanh nhằm hình thành tập đoàn kinh tế.
Sở dĩ có tình trạng như vậy là bởi hiện nay, chủ trương thí điểm mô hình
công ty mẹ-công ty con ở một số tổng công ty và doanh nghiệp nhà nước độc
lập quy mô lớn mới thực hiện ở giai đoạn đầu. Trong thực tế, các quan hệ
pháp lý cơ bản về công ty mẹ, công ty con vẫn chưa được xác định rõ ràng và
hoàn chỉnh. Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề pháp lý liên quan đến mô
hình công ty mẹ-công ty con hiện nay mới chỉ ở những bước ban đầu.
Mặc dù vậy, trong thời gian gần đây, một số doanh nghiệp nhà nước
thực hiện thí điểm mô hình công ty - mẹ công ty con cũng đã có một số
nghiên cứu rất cần thiết cho việc nhận thức về mồ hình này, thể hiện qua một
số đề án của các doanh nghiệp tiến hành chuyển đổi như Tổng công ty Hàng
không, Tổng công ty hàng hải. Với việc làm sáng tỏ một số vấn đề thực tiễn
và lý luận về mô hình công ty mẹ-công ty con, đề tài đã đưa ra và bước đầu
giải quyết một số vấn đề chủ yếu nhằm cụ thể hoá, tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện mô hình công ty mẹ-công ty con trong nền kinh tế thị trường ở nưóc ta
trong giai đoạn hiện nay.
3. M Ụ■C ĐÍCH,■ ĐỐI TƯỢ■ NG, PH ẠM
VI NGHIÊN



cứu

ĐỂ

TÀI

“Xây dựng và hoàn thiện mô hình pháp lý công ty mẹ-công ty con ở
Việt Nam ” là một đề tài nghiên cứu rất mới mẻ và phức tạp, vì vậy mục đích
của viêch nghiên cứu đề tài là nhằm đưa ra một số luận điểm khoa học về
việc thiết lập và tiếp tục hoàn thiên các quy định của pháp luật về mô hình
công ty mẹ - công ty con ở nước ta hiện nay.
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu của đề tài và do điều kiện thời gian
có hạn nên chúng tôi chỉ nghiên cứu mô hình pháp lý công ty mẹ-công ty
con dưới góc độ chung nhất về những cơ sở lý luận và thực tiễn của mô hình
công ty mẹ-công ty con, những quy định cụ thể về tổ chức quản lý của mô
hình công ty mẹ công ty con. Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả đưa
ra những điểm mới của mô hình công ty mẹ-công ty con so với những quy
định của pháp luật hiện hành về mô hình tổ chức đang được áp dụng cho các
doanh nghiệp nhà nước (mà cụ thể ở đây là các Tổng công ty và doanh
nghiệp nhà nước độc lập quy mô lớn). Từ đó tác giả luận văn đề xuất, kiến
nghị những hướng cơ bản cho việc xây dựng và hoàn thiện mô hình công ty
mẹ-công ty con trong thời gian tới.
4. PHƯƠNG PH ÁP NGHIÊN

cứu

Đ Ể TÀI:

Để nghiên cứu đề tài, chúng tôi đã vận dụng tổng hợp phương pháp
luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, các phương pháp phân tích, so sánh,

Đ ặ n g Thu Thuỷ/Luộn v â n T h ạc sì Luột/2003


9
tổng hợp, kết hợp lý luận với thực tiễn... Ngoài việc nghiên cứu các quy định
của pháp luật Việt Nam hiện hành và các kết quả nghiên cứu của một số tác
giả trong nước, chúng tôi còn tham khảo các tư liệu của nước ngoài nhằm
xem xét, đánh giá và so sánh từ đó tìm ra những cơ sở lý luận và thực tiễn
cho việc nghiên cứu đề tài.
5. Ý NGHĨA K H O A HỌC V À T H ự C TIEN

c ủ a lu ận văn

Có thể nói, đây là một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu về
mô hình pháp lý công ty mẹ-công ty con trong điều kiện Chính phủ đang có
chủ trương thí điểm thực hiện mô hình này tại Việt Nam. Luận văn góp phần
vào việc xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện các quy định
về mô hình công ty mẹ-công ty con, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho
doanh nghiệp nhà nước thực hiện thí điểm mô hình mới hoạt động và phát
triển, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, nâng cao hiệu
quả quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp. Những kết quả nghiên
cứu của luận văn có thể coi là một trong những tài liệu tham khảo bổ ích cho
những độc giả có nhu cầu tìm hiểu mô hình pháp lý công ty mẹ-công ty con.
6. C ơ C Ấ U C Ủ A LU Ậ N VĂN :

Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn bao gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về mô hình pháp lý “Công ty mẹ
- công ty con”
Chương II: Tổ chức, quản lý doanh nghiệp hoạt động theo mô hình
pháp lý “Công ty mẹ - Công ty con”

Chương III: Phương hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ
chức và hoạt động của doanh nghiệp hoạt động theo mô hình “Công ty mẹCông ty con”

Do điều kiện thời gian và nguồn tư liệu có hạn, trình độ lý luận và
kinh nghiệm thực tế của bản thân còn hạn chế nên Luận văn khó tránh khỏi
những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý và giúp đỡ của thầy
cô giáo, độc giả và bạn bè đồng nghiệp nhằm hoàn thiện việc nghiên cứu đề
tài này.

Đ ặ n g Thu Thuý/Luộn v ỗ n Thạc sĩ Luột/2003


10

CHƯƠNG 1
NHỮNG V Ấ N Đ Ể LÝ LU Ậ N C H U N G V Ề M Ô HỈNH PH ÁP LÝ
"C Ô N G T Y M Ẹ - C Ô N G T Y C O N "

1.1. KHÁI NIỆM MÔ HÌNH PHÁP LÝ CÔNG TY MẸ - CÔNG TY CON
1.1.1. Cơ sỏ pháp lý của việc hình thành quan hệ công ty mẹ công ty con

Khi nền sản xuất hàng hoá phát triển đến một mức độ nhất định, các
nhà kinh doanh đã liên kết với nhau để đáp ứng nhu cầu về vốn nhằm thực
hiện mục đích mở mang hoạt động kinh doanh của mình và cũng để chia sẻ
rủi ro trong các vụ đầu tư. Sự tin tưởng vào các mối quan hệ làm ăn lâu dài
được chuyển hoá thành các hình thức tổ chức kinh doanh dựa trên sự hùn
chung vốn mà ban đầu là hội buôn hợp danh, được gọi là Công ty (company)
với nghĩa gốc ban đầu là hội các chiến hữu - bằng hữu (xuất phát từ từ
companion là chiến hữu, bằng hữu- tiếng Latin là compainis). Khi hai hay
nhiều người góp vốn để hình thành một liên kết mang tính tổ chức nhằm cùng

nhau tiến hành hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận tức là họ đã thành lập một
công ty. Công ty là mô hình tổ chức được hình thành, phát triển phù hợp quy
luật và đòi hỏi tự thân của nền kinh tế thị trường về trình độ tổ chức và quản
lý vốn đầu tư. Ngay từ khi ra đời, nó đã tạo được sự hấp dẫn với những người
kinh doanh và sau đó không ngừng được cải tổ, phái sinh ra nhiều loại hình
nhằm góp phần hạn chế những rủi ro cho các doanh nhân trong điều kiện các
quan hệ kinh tế càng trở nên phức tạp. Các công cụ cho phép thực hiện quyền
sở hữu, sử dụng vốn trong chế định công ty như cổ phiếu, trái phiếu, họp đồng
góp vốn V.V.. cũng chính là những phương tiện pháp lý quan trọng nhất để
phân định, xử lý các quan hệ về quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên cùng
tham gia hùn hạp.
ở đây, cần phải kể đến tác động của quá trình công nghiệp hoá, cùng
với sự phát triển của hệ thống ngân hàng, thị trường tài chính trong giai đoạn
chủ nghĩa tư bản công nghiệp (cuối thế kỷ 18 đến khoảng 1870) đã thúc đẩy
sự di chuyển một cách linh hoạt các luồng vốn của chủ sở hữu ở các doanh
nghiệp khác nhau nhằm tìm kiếm lợi nhuận và phân chia rủi ro. Tuy nhiên,
trong khi nãng lực quản lý, điều hành của chủ doanh nghiệp là có hạn về quy
mô tổ chức một cơ cấu sản xuất - kinh doanh thì nhu cầu tăng vốn đầu tư
kiếm lời là không có giới hạn. Bên cạnh đó, bản thân chủ doanh nghiệp cũng
chỉ có thể chuyên kinh doanh trong một vài lĩnh vực trong khi họ lại cần mở
rộng phạm vi ngành nghề kinh doanh để phân tán rủi ro. Những mâu thuẫn
Đ ặ n g Thu Thuý/Luộn v ă n T hạc sĩ Luột/2003


11

này chỉ có thể được giải quyết thông qua việc doanh nghiệp tự mình đưa vốn
(vốn tự có hoặc vốn vay) vào sản xuất - kinh doanh ở một địa bàn hoặc một
ngành nghề nhất định trong khuôn khổ việc thành lập doanh nghiệp mới theo
các hình thức mà pháp luật quy định hoặc mua lại để điều hành doanh nghiệp

đã có sẵn từ chủ sở hữu khác. Với việc thực hiện hành vi đầu tư trực tiếp này,
một doanh nghiệp đã thực hiện quyền chi phối, kiểm soát của mình đối với
doanh nghiệp khác dựa trên quyền sở hữu về vốn (theo tỷ lệ mức vốn góp
trong doanh nghiệp) và tạo nên một quan hệ liên kết chặt chẽ và bền vững
giữa doanh nghiệp đầu tư và doanh nghiệp nhận vốn đầu tư. Một doanh
nghiệp với tư cách chủ sở hữu của doanh nghiệp khác có thể bỏ ra toàn bộ vốn
đầu tư hoặc hùn vốn với nhiều nhà đầu tư khác (đổng chủ sở hữu). Quyền chi
phối, kiểm soát hay thâu tóm doanh nghiệp này được ví như trong quan hệ
giữa người mẹ đối với con. Như vậy, về mặt cơ sở pháp lý, việc nhìn nhận một
quan hệ công ty mẹ - công ty con phải xuất phát từ địa vị pháp lý của doanh
nghiệp thuộc một trong số các loại hình pháp luật quy định, cho phép nó được
thực hiện quyền đầu tư để trở thành chả sở hữu tại doanh nghiệp khác có vốn
đầu tư của nó. Tuy nhiên, trước hết chúng ta cần làm rõ từng đối tượng là
công ty mẹ và công ty con trong mối quan hệ này.
Công ty mẹ
Công ty mẹ là doanh nghiệp được thành lập, đăng ký hoạt động theo
quy chế pháp lý của một số loại hình doanh nghiệp, thực hiện việc nắm giữ
toàn bộ (100%) vốn điều lệ hoặc nắm giữ cổ phần (hoặc vốn góp) ở mức chi
phối (>50%) ở một hoặc nhiều công ty khác, được gọi là công ty con của
công ty này. Sở hữu về vốn của công ty mẹ ở công ty con là cơ sở vững chắc
duy nhất cho việc tạo ra quyền lực hợp pháp của công ty mẹ nhằm chi phối
công ty con Quyền lực của công ty mẹ thể hiện ở hai quyền cơ bản sau đây:
- Quyền quyết định hình thức tổ chức của công ty con cho phù hợp
với các mục tiêu phát triển trong các ngành, lĩnh vực cụ thể. Ví dụ, công ty
mẹ có thể quyết định công ty con là công ty TNHH một chủ sở hữu duy nhất
là công ty mẹ, nếu bản thân nó muốn quyết định và hưởng dụng toàn bộ kết
quả sản xuất - kinh doanh của công ty con (có thể có những lợi thế, hoặc ưu
thế đặc biệt về địa bàn, sản phẩm có thương hiệu mang tính độc quyền).
Trong trường hợp công ty mẹ thấy cần phải chia sẻ rủi ro cũng như lợi nhuận
cho một số nhà đầu tư khác, nó có thể quyết định chuyển đổi công ty con

thành hình thức công ty cổ phần.
- Quyền quyết định của công ty mẹ về nhân sự chủ chốt của công ty
con (như thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc). Đây là yếu tố tạo tiền đề
cho sự can thiệp gián tiếp vào định hướng chiến lược phát triển, cách thức tổ
Đ ộ n g Thu Thuý/Luộn v ă n Thạc sĩ Luột/2003


12

chức, quản lý sản xuất - kinh doanh, cơ cấu chi tiêu, thị trứờng tiêu thụ, đối
tác làm ăn v.v... của công ty con.
Cần lưu ý là khi thiết kế quan hệ công ty mẹ - công ty con cho các
Tổng công ty nhà nước và doanh nghiệp nhà nước độc lập quy mô lớn ở nước
ta, người ta có xu hướng nhìn nhận quyền chi phối việc quyết định chiến lược,
kế hoạch đầu tư, phát triển của công ty con là một quyền chi phối độc lập thứ
ba của công ty mẹ, như hai quyền nêu trên. Điều này cho thấy rõ ràng có sự
ảnh hưởng từ thực tế hiện tại, khi mà quan hệ giữa Tổng công ty và doanh
nghiệp nhà nước quy mô lớn với các đơn vị thành viên là quan hệ mang nặng
tính chất kế hoạch hoá giữa các cấp hành chính - mệnh lệnh (Tổng công ty
phê duyệt các kế hoạch, chỉ tiêu - định mức sản xuất - kinh doanh của đơn vị
thành viên). Thực chất là khi đã chuyển thành quan hệ công ty mẹ - công ty
con thì công ty mẹ chỉ có quyền chi phối gián tiếp về mặt chiến lược, kế
hoạch mà thôi vì về phương diện pháp lý cả “m ẹ” lẫn “con” đều độc lập và
bình đẳng với nhau về tư cách pháp nhân (đặc điểm nêu trong Mục 1.1.2 dưới
đây).
Ngoài sự chi phối giữa chúng trong quan hệ sở hữu, thông thường
công ty mẹ còn có thể chi phối công ty con bằng các phương thức liên kết
khác, tuỳ theo dạng mô hình công ty mẹ - công ty con cụ thể. Trong nhiều
trường hợp, công ty mẹ nắm khâu then chốt nhất, có công nghệ tiến tiến nhất
trong một dây chuyền sản xuất - kinh doanh hoặc cũng có thể uy tín và

thương hiệu sản phẩm trên thị trường của công ty mẹ là điều kiện kinh doanh
mà công ty con không thể tách rời để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình.
Công ty con
Công ty con là doanh nghiệp mà vốn điều lệ của nó do một công ty
khác nắm giữ ở mức chi phối (từ >50% đến 100%). Như vậy, để là một công
ty con thì phần lớn hoặc toàn bộ sở hữu vốn của một công ty không thể thuộc
về một hoặc nhiều chủ sở hữu có tư cách pháp nhân thuần tuý mà phải thuộc
về một doanh nghiệp. “M ẹ” và “con” đều được nhìn nhận trên cùng một mặt
bằng pháp lý là tư cách pháp nhân của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp là
công ty con tham gia vào quan hệ công ty mẹ - công ty con này là những đơn
vị có tư cách pháp nhân, có thể là các loại hình doanh nghiệp sau đây:
1. Công ty TNHH một thành viên do công ty mẹ là chủ sở hữu duy
nhất (nắm 100% vốn điều lệ).
2. Công ty TNHH từ hai thành viên trở lên hoặc công ty cổ phần: được
hình thành trên cơ sở góp vốn của công ty mẹ với một số tổ chức cá nhân khác
được pháp luật cho phép.
Đ ộ n g Thu Thuỷ/Luộn v â n T h ạc sĩ Luột/2003

V

\


13
3.
Công ty liên doanh là công ty do công ty mẹ nắm giữ tỷ lệ vốn góp
chi phối hợp tác đầu tư với các tổ chức, cá nhân đầu tư nước ngoài hoặc doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo quy định của pháp luật về đầu
tư trực tiếp nước ngoài.
Về cơ bản, đối vói các công ty con là công ty TNHH từ hai thành viên

trở lên và công ty liên doanh thì công ty mẹ nắm giữ ở mức trên 50% vốn
điều lệ. Tuy nhiên, trong m ột số trường hợp cần thiết, pháp luật có thể quy
định sở hữu vốn của công ty mẹ ở công ty con dưới mức 50%. Nhưng phải từ
mức có cổ phần hoặc vốn góp đặc biệt trở lên (gấp đôi cổ đông lớn nhất,
thường là trên 30% vốn điều lệ) và kèm theo những điều kiện kinh doanh đặc
biệt mà công ty con bị ràng buộc chặt chẽ và không thể tách rời sự chi phối
của công ty mẹ. Các điều kiện đó pháp luật quy định hoặc trong điều lệ của
công ty mẹ được công ty con chấp thuận (điều đó có thể so sánh với quan hệ
giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi - dựa trên một sự đồng tình và phải được pháp
luật thừa nhận).
Ngoài ra, khi nghiên cứu, xem xét mô hình công ty mẹ - công ty con
áp dụng đối với Tổng công ty hoặc doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn hoạt
động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước, người ta cũng đặt ra khả năng coi các
doanh nghiệp nhà nước đang trong giai đoạn quá độ chò sắp xếp, chuyển đổi
loại hình là công ty con, cho dù quan hệ giữa chúng chưa thực sự được chuyển
hoá về bản chất thành quan hệ sở hữu vốn.
1.1.2. Bản ch ố t củ a quan hệ cô n g ty m ẹ - cô ng ty con

Qua việc nghiên cứu các khái niệm: công ty mẹ, công ty con, có thể
đi đến kết luận ra sao về bản chất của quan hệ công ty mẹ - công ty con - đặc
tính cơ bản, xuyên suốt và mang ý nghĩa quyết định đối với sự duy trì mối
quan hệ này? Đây thực sự là m ột quan hệ mang bản chất kinh tế-pháp lý xuất
hiện khi m ột công ty có nhu cầu tổ chức phát triển sản xuất-kinh doanh để thu
lợi nhuận bằng cách thiết lập quan hệ sở hữu về vốn và tài sản của nó ở một
hoặc nhiều công ty khác ở mức từ trên 50% đến 100% vốn điều lệ (tức liên kết
về tài sản, về quyền và nghĩa vụ đối với tài sản). Sự liên kết này cho phép một
công ty tạo ra m ột sự chi phối vừa đủ cho đến tuyệt đối nắm quyền kiểm soát
hoàn toàn công ty khác theo định hướng, ý đồ tổ chức triển khai sản xuất kinh doanh của mình. Ngoài ra, quan hệ này cũng ít nhiều m ang tính chất liên
kết x ã hội, thể hiện ở những hình thức, phương pháp liên kết khác được công
ty mẹ khai thác, tổ chức thực hiện như bằng các hợp đồng kinh tế nhằm mục

đích chuyển giao công nghệ, hỗ trợ đào tạo và tư vấn kỹ thuật, cho vay đầu tư,
thầu lại cũng như các quy ước (chính thức và ngầm) về phân chia thị trường

Đ ộ n g Thu Thuỷ/Luộn v ă n T h ạ c sĩ Luột/2003


14
cung ứng nguồn ỉực đầu vào hoặc sản phẩm dịch vụ đầu ra v.v... giữa công ty
mẹ với một nhóm các công ty con.
Việc xác định bản chất của quan hệ công ty mẹ - công ty con cho
phép chúng ta rút ra kết luận như sau:
- Các liên kết doanh nghiệp chỉ thuần tuý dựa trên phương pháp hành
chính - mệnh lệnh hoặc thông qua phương pháp bình đẳng, thoả thuận (hợp
đồng với nhau) không đủ điều kiện để trở thành quan hệ công ty mẹ - công ty
con, mặc dù về hình thức liên kết bề ngoài có vẻ như vậy (chẳng hạn giữa
Tổng công ty và các đơn vị thành viên).
- Nhận thức về sự hình thành tập đoàn kinh tế là qúa trình đi từ biểu
hiện bên ngoài đến bản chất thực sự của quan hệ liên kết kinh tế. Để tái cơ
cấu một trong những bộ phận quan trọng nhất của lực lượng sản xuất của đất
nước chúng ta là các tổng công ty và doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn thì
mô hình tổ chức hiện nay là chưa đáp ứng được yêu cầu tăng cường tích tụ về
vốn để tổ chức triển khai, mở rộng quy mô sản xuất- kinh doanh theo hướng
phân công, chuyên môn hoá đối với các tập đoàn kinh tế. Chưa hề có quan hệ
công ty mẹ - công ty con như một số người lầm tưởng khi thấy ở một số tổng
công ty quyền chi phối đối với các đơn vị thành viên. Hầu hết các tổng công
ty không nắm quyền sở hữu vốn ở công ty thành viên bởi nó chưa bao giờ
nắm thật sự và có thể quyết định các vấn đề then chốt của đơn vị thành viên
như một chủ sở hữu thực thụ.
- Để tồn tại quan hệ công ty mẹ - công ty con thì cả công ty mẹ và
công ty con đều phải đủ các điều kiện để có tư cách “mẹ” hoặc “con”, cụ thể

là:
1) Công ty mẹ phải nắm được thực sự và có quyền định đoạt đối với số
vốn của mình nằm ở công ty con (thay vì chỉ nắm trên hình thức)
2) Công ty con phải có sự độc lập nhất định về phương diện pháp lý
với công ty mẹ. Điều này đòi hỏi công ty con phải được hưởng quy chế pháp
lý của một trong số các loại hình doanh nghiệp, mà theo pháp luật, công ty mẹ
có thể được thực hiện đầy đủ quyền chủ sở hữu.
1.1.3. Đ ạ c điểm quan hệ công ty mẹ - công ty con

Xuất phát từ những khái niệm về công ty mẹ, công ty con như đã nêu,
quan hệ pháp lý giữa công ty mẹ với công ty con có một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, vê địa vị pháp lý, cả công ty mẹ và các công ty con đều là
các pháp nhân độc lập, bình đẳng trước pháp luật. Điều đó thể hiện ở việc
công ty mẹ và công ty con đều tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất - kinh
Đ ộ n g Thu Thuỳ/Luộn v ở n T hạc sĩ Luột/2003


15
doanh và tự chịu trách nhiệm về các khoản nợ trong phạm vi số vốn điều lệ
của mình. Công ty mẹ tuy có thể chi phối công ty con dựa trên quyền sở hữu
về vốn nhưng đó là sự chi phối gián tiếp thông qua vai trò và thẩm quyền của
người đại diện công ty mẹ được cử tham gia quản lý của công ty con (Hội
đồng quản trị hoặc Giám đốc - đối với doanh nghiệp không có Hội đồng quản
trị). Ngoài ra, cũng có thể tính đến các ràng buộc gián tiếp khác của công ty
mẹ với công ty con thông qua việc kiểm soát các kênh tiêu thụ hàng hoá và
dịch vụ trên thị trường, về sự hỗ trợ công nghệ, thương hiệu sản phẩm v.v... Sự
bình đẳng về tư cách pháp nhân, ngược lại, cũng khiến cho công íy mẹ chỉ
phải có trách nhiệm trong phạm vi số vốn, số cổ phần của nó ở công ty con
(trừ phi có các cam kết, bảo lãnh đặc biệt đối với tất cả các hệ quả phát sinh từ
hành vi kinh doanh của công ty con).

Thứ hai, cơ ch ế quản lý, chi phối của công ty mẹ với công ty con thể
hiện chủ yếu thông qua quyền của chủ sở hữu vốn, tài sản của công ty mẹ đối
với công ty con. Trong đó, quan trọng nhất là quyền quyết định về bộ máy tổ
chức, nhân sự chủ chốt của công ty con, thông qua đó điều chỉnh các chiến
lược, kế hoạch kinh doanh quan trọng của công ty con. Mức độ chi phối giữa
công ty mẹ với từng loại công ty con cũng khác nhau. Các công ty con chịu sự
chi phối toàn diện, tuyệt đối vì nấu công ty con được công ty mẹ đầu tư và
nắm giữ 100% vốn điều lệ. Thứ đến là các công ty do công ty mẹ nắm giữ
trên 50% vốn điều lệ. Tuy nhiên, đó mới chỉ là tính đến khả năng chi phối về
mặt pháp lý bằng công cụ vốn của chủ sở hữu. Trên thực tế, những công ty
con nào hoạt động trong những lĩnh vực không thuộc hướng mà công ty mẹ
ưu tiên hoặc có nhiều kinh nghiệm phát triển, cạnh tranh thì sẽ được công ty
mẹ trao nhiều quyền chủ động hơn và mức độ chi phối trên thực tế đối với
công ty đó sẽ giảm xuống. Mặt khác, một số công ty liên kết có vốn của công
ty mẹ thấp hơn 50% nhưng vẫn có thể chịu sự khống chế mạnh của công ty
mẹ, bởi sự cam kết chấp hành các “luật chơi” do công ty mẹ đặt ra là điều
kiện tiên quyết để có thể có được thương hiệu hoặc nhận được sự bảo trợ của
công ty mẹ.
Đối với các tập đoàn kinh tế nhiều tầng thì khả năng chi phối của
công ty mẹ có thể là rất sâu, đến tận các cấp “công ty cháu” hoặc xa hơn nữa..
Các công ty con có thể tham gia góp vốn và tài sản để hình thành nên các
công ty cháu nhưng có thể phải cần đến sự cho phép của công ty mẹ vì địa
bàn và lĩnh vực kinh doanh là những yếu tố mang tính chiến lược mà bất kỳ
một công ty mẹ nào cũng phải tính đến để làm sao vốn đầu tư của mình không
bị thất thoát và lợi nhuận đạt được sẽ là tối đa.

Đ ộ n g Thu Thuỷ/Luộn v ă n Thạc sĩ Luột/2003


16


Thứ ba, vê quan hệ giữa công ty mẹ - với công ty con trong sản xuất
- kinh doanh. Mặc dù công ty mẹ có quyền chi phối công ty con, nhưng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh thì đó vẫn phải là quan hệ mang tính phối hợp,
dựa trên hợp đồng. Đặc điểm này là hệ quả tất yếu của đặc điểm thứ nhất đã
nói ở trên. Các họp đồng được ký kết giữa công ty mẹ với công ty con chủ yếu
là hợp đồng thầu lại các công đoạn của một công trình hoặc một lô sản phẩm
nào đó. Đó cũng có thể là hợp đồng tư vấn, nghiên cứu và chuyển giao công
nghệ hoặc đào tạo, tuỳ theo yêu cầu, tính chất công việc cần phải giải quyết.
Nhưng quan hệ dựa trên hợp đồng cũng khiến người ta đặt ra câu hỏi là phải
xử lý những tranh chấp kinh doanh như thế nào, nếu điều đó xảy ra giữa công
ty mẹ và công ty con? Thông thường, về nguyên tắc, các tranh chấp kinh
doanh được xử lý trước hết thông qua con đường hoà giải, nếu không thành
công mới phải thông qua các thủ tục tố tụng tư pháp hoặc trọng tài. Đương
nhiên, một khi công ty mẹ có thể chi phối công ty con thì nó cũng có thể dàn
xếp những bất đồng này. Hậu quả tai hại nhất (nếu có tranh chấp thực sự) chỉ
liên quan đến việc rời bỏ vị trí lãnh đạo công ty con. Song cũng có thể công ty
mẹ chấp nhận những yêu cầu chính đáng của công ty con và có những sự xử
lý nào đó đối với cán bộ quản lý trong bộ máy của mình. Như vậy, từ bản chất
của quan hệ giữa công ty mẹ với công ty con, có thể thấy rằng nhìn chung sẽ
khó và rất hãn hữu mới xẩy ra các tranh chấp thực sự.
1.1.4. Định nghĩa mô hình pháp lý công ty mẹ - công ty con

Về phương diện kỹ thuật, theo Từ điển Tiếng Việt thì “mô hình”
thường được hiểu là hình mẫu thu nhỏ của một vật nào đó. Song về phương
diện khoa học xã hội nói chung và trong lĩnh vực khoa học pháp lý hoặc khoa
học kinh tế nói riêng thì “mô hình” cần được hiểu là dạng kết cấu mang tính
điển hình của một loại quan hệ xã hội. “Mô hình” phác thảo những nét liên hệ
chính yếu nhất giữa một số chủ thể hay yếu tố then chốt. Ví dụ, trong lĩnh vực
kinh tế hộ gia đình có khái niệm mô hình VAC (Vườn-Ao-Chuổng), trong đó

mô tả các yếu tố cơ sở kinh tế then chốt phù hợp với trình độ sản xuất mang
tính tự cung, tự cấp. Trong lĩnh vực thể chế, pháp luật, người ta nói nhiều đến
“mô hình tổ chức”, và nó được cụ thể hoá trong lĩnh vực hoạt động cụ thể
thành các khái niệm tương ứng như mô hình chính thể (liên bang hoặc đơn
nhất, cộng hoà hoặc quân chủ), mô hình hợp tác xã, mô hình công ty cổ phần,
mô hình tổng công ty nhà nước V.V.. .
Để phản ánh quan hệ pháp lý giữa một công ty với một công ty khác
được công ty đó sở hữu toàn bộ hoặc nắm cổ phần chi phối, người ra đã đưa ra
khái niệm “mô hình (pháp lý) công ty mẹ - công ty con”. Tuy nhiên, nói đến
“mô hình” này tức là không hàm ý một quan hệ “mẹ - con” cụ thể nào đó giữa
Đ ặ n g Thu Thuý/Luộn v ã n T h ạc sì Luột/2003

\


17
hai doanh nghiệp với nhau mà đó là sự khái quát thành dạng quan hệ pháp lý
mang tính điển hình, bao trùm một tập hợp doanh nghiệp, trong đó tối thiểu
phải có m ột doanh nghiệp đóng vai trò làm “công ty m ẹ”, có đủ năng lực chi
phối một số doanh nghiệp khác làm “công ty con”. Chúng ta biết rằng trên thế
giới, mô hình công ty mẹ - công ty con đã tổn tại một cách khách quan từ lâu.
Nhưng đối với chúng ta, nhận thức về nó là một quá trình thử nghiệm được rút
ra từ sự cần thiết phải thay đổi phương thức tổ chức, quản lý nhằm tăng
cường, tích tụ về vốn và quan hệ liên kết trong khu vực kinh tế nhà nước, tiến
tới hình thành, củng cố và phát triển tập đoàn kinh tế.
Điều quan trọng nhất khi phác thảo ra một mô hình tổ chức cho các
tập đoàn kinh tế nhà nước trong tương lai là phải xác định mối quan hệ then
chốt, mang tính bản chất của liên kết kinh tế. Hạn chế cơ bản nhất trong việc
thiết kế mô hình tổng công ty nhà nưóc trong những năm 90 của thế kỷ XX là
chúng ta đã khoác một vỏ bọc doanh nghiệp lên một cơ cấu tổ chức sản xuất

mang bản chất hành chính, thông qua việc ghép nối thuần tuý cơ học và vội vã
một số doanh nghiệp lại với nhau. Hậu quả tất yếu mà quan hệ và phương
pháp quản lý hành chính mà cơ chế cũ mang lại là sự kìm hãm các yếu tố tiên
tiến thuộc về lực lượng sản xuất trong khu vực nhà nước phát triển trên con
đường thích ứng với nền kinh tế thị trường. Mối quan hệ bản chất cho sự liên
kết kinh tế trong một cơ cấu doanh nghiệp lớn hơn đã được lựa chọn từ kinh
nghiệm quốc tế vì nó đơn giản và có vẻ chắc chắn, dường như phù hợp với
trình độ quản lý của chúng ta: đó là quan hê công ty mẹ - công ty con. Như
vậy, có thể thấy rằng khái niệm mô hình pháp lý công ty mẹ - công ty con
xuất hiện trong thời điểm này chủ yếu chỉ mang ý nghĩa để nhận thức về dạng
liên kết kinh tế (dựa trên vốn) đối với các tập hợp doanh nghiệp nhà nước
trong quá trình thực hiện đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của các
Tổng công ty và doanh nghiệp nhà nước độc lập quy mô lớn. Tư duy nhận
thức về mô hình này là hoàn toàn cần thiết và có tác dụng bổ sung cho những
hiểu biết hạn chế về bản chất quan hệ liên kết doanh nghiệp trước đây, dù đó
cũng mới chỉ là bước nhận thức cơ bản đầu tiên về liên kết doanh nghiệp trên
quy mô lớn trong nền kinh tế thị trường. Từ các phân tích trên đây, có thể
định nghĩa mô hình pháp lý công ty mẹ - công ty con như sau:
M ô hình pháp lý công ty mẹ - công ty con là hình mẫu mô tả một
cách khái quát và mang tính chất điển hình quan hệ pháp lý giữa một công
ty thực hiện quyền chủ sở hữu phần vốn của nó tại một số công ty khác từ
mức chi ph ối trở lên (mức này tuỳ thuộc vào các điêu kiện xác định cụ th ể
đối với doanh nghiệp) trên cơ sở điêu lệ (hoặc thoả ước) liên kết chung

Đ ặ n g Thu Thuý/Luộn v ã n Thạc sĩ Luột/2003

TH Ư VI ỀN
3ƯCNG Oai H0fc I.' iộĩ H/



18
Tất nhiên, sự mô tả quan hệ điển hình này về phương diện pháp lý là
phải thông qua nhiều lý lẽ và phải được cụ thể hoá bằng các quy phạm về bản
chất của sự liên kết, về cách thức tổ chức quản lý, về quyền và nghĩa vụ của
mỗi bên (mẹ, con và các thành viên khác). Tổng thể các quy định về các nội
dung nêu trên tạo thành khung pháp lý cho sự vận hành, triển khai các quan
hệ pháp lý giữa công ty mẹ với công ty con, mà trước hết khung pháp lý này
sẽ được vận dụng khi thiết kế các điều lệ (hoặc thoả ước) giữa công ty mẹ với
công ty con về tổ chức và hoạt động.
1.2.
ĐỐI TƯỢNG Á P DỤNG THÍ ĐIEM
CÔNG TY CON

m ô h ìn h c ô n g t y m ẹ

Từ những nhận thức về mô hình pháp lý công ty mẹ - công ty con đã
được trình bày ở trên, việc xác định những đối tượng để áp dụng thí điểm mô
hình công ty mẹ - công ty con có thể dựa vào một số yếu tố cơ bản như sau:
1.2.1. V a i trò chủ đạo và yêu cầu đổi mới nâng cao hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp nhà nước

Ó nước ta, kinh tế nhà nước hình thành và được ưu tiên phát triển trong
mấy chục năm qua, do vậy doanh nghiệp nhà nước được thiết lập với số lượng
và quy mô lớn, có mặt ở hầu hết các ngành và lĩnh vực của nền kinh tế với vai
trò hết sức quan trọng. Trong giai đoạn thực hiện chế độ kế hoạch hoá tập
trung, kinh tế quốc doanh phát triển một cách tràn lan không có trọng điểm,
lại được bao cấp nên hoạt động sản xuất kinh doanh không mấy hiệu quả. Đầu
những nãm 90, cùng với công cuộc đổi mới về kinh tế, chính sách, cơ chế
quản lý chuyển sang giai đoạn thực thi cơ chế thị trường một cách toàn diện ,
các doanh nghiệp nhà nước cũng bắt đầu chuyển sang cơ chế mới. Việc

nghiên cứu mô hình công ty mẹ - công ty con trước hết nhằm thí điểm áp
dụng cho các đối tượng là Tổng công ty và doanh nghiệp nhà nước độc lập
quy mô lớn, chưa đặt ra với đối với các doanh nghiệp của các thành phần kinh
tế khác hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Trong thực tiễn, quan hệ công ty
mẹ - công ty con đã xuất hiện ở các doanh nghiệp ngoài khu vực kinh tế nhà
nước. Nhưng hiện nay, trình độ phát triển của các doanh nghiệp này vẫn còn
thấp, chưa đủ để giữ vai trò là nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Hơn nữa,
khi xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, yếu
tố bảo đảm định hướng này, về bản chất, vẫn phải là sự phát huy vai trò chủ
đạo của doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù các thành phần kinh tế đều được
khuyên khích phát triển, các doanh nghiệp đều bình đẳng với nhau trong sản
xuất - kinh doanh và trước pháp luật, nhưng sự bình đẳng đó không có nghĩa
là chúng có vị trí như nhau trong nền kinh tế. Nhiều doanh nghiệp nhà nước
đã thực sự trở thành nòng cốt trong việc đảm bảo các cân đối chủ yếu của nền
Đ ặ n g Thu T huỷ/Luộn v ă n T h ạc sĩ Luột/2003

-


19
kinh tế về những hàng hoá, vật tư chiến lược và các hàng tiêu dùng thiết yếu
như than, điện, dầu k h í..., góp một phần quan trọng vào việc bình ổn giá cả và
duy trì sự phát triển của nền kinh tế.
Các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp mạnh, cần
tiếp tục giữ vai trò “đầu tầu” bởi nó tồn tại và phát triển ở những ngành và lĩnh
vực trọng điểm, có lợi cho việc duy trì chế độ kinh tế XHCN, khắc phục
những hạn chế của cơ chế thị trường. Các doanh nghiệp nhà nước có quy mô
nhỏ, tính chất ngành nghề đơn lẻ, kinh doanh kém hiệu quả thì phải sắp xếp
lại theo hướng hợp nhất, giải thể hoặc giao, bán, cho thuê doanh nghiệp. Để
doanh nghiệp nhà nước tiếp tục phát triển lổm mạnh, nhà nước có chủ trương

sắp xếp lại lực lượng và đổi mới hoạt động của khu vực kinh tế này. Việc thực
hiện chuyển đổi sang mô hình công ty mẹ - công ty con đối với doanh nghiệp
nhà nưóc là bước phát triển tiếp theo, kế thừa các bước thực hiện sắp xếp lại
doanh nghiệp nhà nước trước đây nhằm củng cố vai trò chủ đạo của nó trong
nền kinh tế thị trường.
1.2.2. Trình độ, quy mô tổ chức quản lý hoạt động sàn xuát kinh doanh củ a doanh nghiệp nhà nước

Thực hiện công cuộc đổi mới, doanh nghiệp nhà nước đang được tiếp
tục củng cố và phát triển để thực hiện được vai trò là lực lượng chủ lực trong
nền kinh tế. Các doanh nghiệp nhà nước nói chung đều ổn định và đóng góp
phần quan trọng cho ngân sách nhà nước, ổn định việc làm cho hàng nghìn
người lao động v.v... Tỷ trọng doanh nghiệp nhà nước trong tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) tăng từ 36,5% năm 1991 lên 40,07% năm 1998[15, tr.ll].
Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới và phát triển, doanh nghiệp nhà nước đã
bộc lộ một số hạn chế và yếu kém về trình độ tổ chức và quản lý trong hoạt
động của mình, đòi hỏi phải được tiếp tục khắc phục và tháo gỡ :
- Tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp nhà nước chưa cao và đang giảm dần. Tốc độ tăng trưởng bình quân
sau thời gian liên tục đạt 13% đến năm 1998 và đầu 1999 giảm xuống còn 89%. Năm 1998, số doanh nghiệp kinh doanh thực sự có hiệu quả chiếm
khoảng 40%, số doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả, lỗ liên tục
chiếm 20%, những doanh nghiệp kinh doanh chưa có hiệu quả, nằm trong tình
trạng khi lỗ, khi lãi chiếm 40%[15,tr.26].
- Phần lớn doanh nghiệp nhà nước có quy mô vốn rất nhỏ, cơ sở vật
chất nghèo nàn, lạc hậu về trang thiết bị. Cho đến nay ,có tới 14 trong số 17
Tổng công ty 91 (82%) có mức vốn nhà nước dưới mức vốn bình quân (3.882
tỷ đồng). Vốn của các tổng công ty 90 bình quân chỉ có 280 tỷ đổng, chỉ bằng
65% tiêu chí quy định. 80% số tổng công ty có vốn nhà nước thấp hơn mức
Đ ặ n g Thu Thuý/Luộn v ă n Thạc sĩ Luột/2003



20

bình quân. Chỉ có 13% các tổng công ty 90 có vốn trên 500 tỷ đổng [14,tr.9].
Trong khi bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước, ngày càng xuất hiện nhiều lĩnh vực kinh doanh đòi hỏi vốn lớn để đầu
lư phát triển công nghệ mới, công nghệ hiện đại. Do đó, trong khi sức đầu tư
các thành phần kinh tế khác trong nước có hạn thì doanh nghiệp nhà nước
phải chuẩn bị đầy đủ tiềm lực đầu tư, chiếm lĩnh lĩnh vực này để không bị các
nhà đầu tư nưóc ngoài lấn lướt, khống chế.
- Nhiều vấn đề liên quan đến bộ máy tổ chức quản lý của doanh
nghiệp hiện vẫn còn gây vướng mắc như về hiệu quả hoạt động của Hội đổng
quản trị doanh nghiệp và cơ chế điều hành Tổng Giám đốc; quan hệ giữa các
đơn vị thành viên chưa có sự đổi mới thực sự; quan hệ giữa doanh nghiệp với
các Bộ, u ỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc
thực hiện chức năng quản lý nhà nước, thực hiện một số quyền đại diện chủ sở
hữu nhà nước đối với doanh nghiệp chưa được thực hiện đầy đủ theo nội dung
được phân cấp V.V..
- Phương thức hình thành doanh nghiệp mới chỉ dựa trên tập hợp các
đơn vị nhỏ lẻ, tiêu chí về số đơn vị thành viên đối với Tổng công ty 91, Tổng
công ty 90 là quá ít. Mức độ liên kết cũng còn hạn chế, thậm chí ở một vài nơi
còn rời rạc.
Thực trạng nêu trên cho thấy trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp ở
nước ta trong thời gian qua còn thấp. Phần lớn mục tiêu đề ra khi thành lập
các Tổng công ty là tạo sự liên kết kinh tế, gắn bó về lợi ích, thị trường chưa
đạt được. Trong giai đoạn hiện nay, trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp
phù hợp với sản xuất - kinh doanh quy mô lớn, hoạt động đa ngành nghề là
vấn đề được ưu tiên hàng đầu. Do đó, việc áp dụng mô hình công ty mẹ - công
ty con với những quan hệ liên kết nội tại tương đối phức tạp trước hết thích
hợp cho các Tổng công ty và doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, đã có mạng
lưới doanh nghiệp giống như quan hệ giữa công ty mẹ với nhiều công ty con.

1.2.3. Đ ịnh hướng chiến lưọc và quy hoạch phát triển ỏ một s ố
ngành, lĩnh vực để nâng cao sức cạnh tranh

Chủ trương của Đảng và nhà nước về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp
nhà nước, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng
lần thứ ba (khoá IX) đã đề ra yêu cầu hình thành một số tập đoàn kinh tế
mạnh trên cơ sở các Tổng công ty nhà nước để tạo điều kiện thúc đẩy tích tụ
tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh nhằm nâng cao hiệu quả của nền
kinh tế. Tuy vậy, trong thực tế có sự chồng chéo về ngành nghề kinh doanh
giữa các doanh nghiệp của trung ương với nhau và với địa phương trên cùng
một địa bàn, thậm chí giữa các doanh nghiệp trong; cùng một ngành. Trong
Đ ặ n g Thu Thuý/Luộn v ă n T hạc sĩ Luột/2003


21

các lĩnh vực thương mại, dịch vụ kỹ thuật, tư vấn, xây dựng V.V.. tình trạng
các doanh nghiệp cùng ngành nhưng trực thuộc nhiều cơ quan quản lý khác
nhau, cùng tham gia cạnh tranh trên những địa bàn kinh doanh chật hẹp rất
phổ biến. Ví dụ, trên một sàn bay quốc tế có từ 4 đến 5 doanh nghiệp của
Tổng công ty Hàng không Việt Nam và của Cục Hàng không dân dụng cùng
tham gia khai thác cảng hàng không với các dịch vụ cùng tính chất. Hệ quả
dẫn tới có thể là giá các sản phẩm, dịch vụ bị đẩy lên quá cao trong khi chất
lượng không được cải thiện, hoặc ngược lại, các doanh nghiệp nhà nước đua
nhau bỏ thầu thấp khiến Nhà nước bị thiệt hại nặng. Điều đó làm suy giảm
nghiêm trọng sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy vậy, trong giai đoạn vừa
qua, cũng phải thấy rằng phần lớn các Tổng công ty đã xây dựng được chiến
lược phát triển sản xuất - kinh doanh dài hạn để chỉ đạo các doanh nghiệp
thành viên cùng phối thực hiện một cách thống nhất. Nhờ vậy, có thể giảm
dần tình trạng các doanh nghiệp hoạt động một cách khép kín, vô tình gây ra

sự cạnh tranh, làm suy yếu lẫn nhau.
Nhằm định hướng lại quy hoạch chiến lược tổng thể các doanh nghiệp
nhà nước theo tinh thần Nghị quyết của Ban chấp hành trung ương Đảng,
trong năm 2001 - 2002, Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà
nước đã tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xác định một số lĩnh
vực cần đẩy mạnh sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, chuyển sang hoạt động
theo mô hình công ty mẹ - công ty con, tạo cơ sở cho việc tiến tới xây dựng
tập đoàn kinh tế. v ể nguyên tắc, tất cả các tổng công ty và doanh nghiệp nhà
nưóc quy mô lớn (theo mô hình HĐQT và cơ chế quản lý từ 2 cấp trở lên - có
đơn vị thành viên) đều có thể cân nhắc, tuỳ vào nhu cầu phát triển, điều kiện
sản xuất - kinh doanh của mình (ví dụ không bị thua lỗ nặng nề và không có
nhiều đơn vị thành viên thuộc diện để lại là doanh nghiệp nhà nước) để xin thí
điểm chuyển sang thực hiện mô hình mới.
Căn cứ vào Quyết định 58/2002/QĐ-TTg ngày 26/4/2002 của Thủ
tướng Chính phủ ban hành tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp nhà
nước và Tổng công ty nhà nước và danh sách các doanh nghiệp được đồng ý
xây dựng, triển khai Đề án chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ công ty con, có thể thấy doanh nghiệp trong một số lĩnh vực được chọn thí
điểm, có khả năng thực hiện bao gồm: vận tải hàng không, hàng hải, đường
thuỷ nội địa, công nghiệp tàu thuỷ, xây dựng công trình và sản xuất vật liệu
xây dựng, cơ khí chế tạo máy, kinh doanh buôn bán lương thực, dệt may, kinh
doanh địa ốc, du lịch, chế biến thuỷ, hải sản V.V.. . Các doanh nghiệp trong
thời gian tới có thể thực hiện mô hình công ty mẹ - công ty con có khả năng
thuộc các lĩnh vực: đường sắt (khép kín cả công nghiệp, vận tải và quản lý,
khai thác cơ sở hạ tầng), điện tử - tin học, luyện kim, hoá chất, kinh doanh
Đ ặ n g Thu Thuỷ/Luộn v ă n T hạc sĩ Luột/2003


22
buôn bán xăng dầu, sản xuất một số hàng tiêu dùng và công nghiệp thực
phẩm quan trọng (cà phê, chế biến gỗ, rượu bia, thuốc lá

bảo hiểm, tài
chính. Một số lĩnh vực có Tổng công ty ít nhiều mang tính độc quyền nhà
nước như bưu chính - viễn thông, điện lực, dầu khí cần tiếp tục nghiên cứu
xây dựng tập đoàn, nhưng cần cân nhắc mô hình cụ thể. Đối với các doanh
nghiệp nhà nước hoạt động công ích thì do cơ chế quản lý ít nhiều gắn bó với
cơ quan quản lý nhà nước nên chưa tính đến việc xây dựng mô hình công ty
mẹ - công ty con.
Nhìn chung, từ các căn cứ trên đây, có thể kết luận là mô hình pháp lý
công ty mẹ - công ty con hiện đang tổ chức triển khai được áp dụng cho các
đối tượng là Tổng công ty và doanh nghiệp nhà nước độc lập quy mô lớn
(doanh nghiệp có HĐQT). Tuy nhiên, do tính chất thí điểm của mô hình mới,
các Tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước là đối tượng chuyển đổi sang mô
hình công ty mẹ - công ty con cần được lựa chọn một cách chặt chẽ. Trong dự
thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về thí điểm chuyển Tổng công ty
nhà nước và doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ
- công ty con (năm 2003)[19,tr.4], Ban soạn thảo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
đã dự kiến đưa ra một số điều kiện làm cơ sở giúp cho việc lựa chọn doanh
nghiệp nhà nước hoạt động theo mô hình này như sau:
- Tổng công ty thuộc diện giữ lại là Tổng công ty nhà nước theo quy
định của Chính phủ; doanh nghiệp nhà nước thuộc danh mục do Nhà nước
tiêp tục duy trì 100% sở hữu.
- Đang có vốn góp chi phối ở nhiều doanh nghiệp khác hoặc đã được
phê duyệt kế hoạch cổ phần hoá các doanh nghiệp thành viên Tổng công ty,
các bộ phận của doanh nghiệp nhà nước, nhưng Tổng công ty hoặc doanh
nghiệp nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối.
- Kinh doanh đa ngành nghề, trong đó có một ngành kinh doanh chính;
có nhiều đơn vị phụ thuộc, chi nhánh, vãn phòng đại diên trong và ngoài nước
- Có quy mô lớn và có tiềm lực tài chính để thực hiện việc đầu tư vốn
vào các công ty con
-


Có khả năng phát triển

- Được các Bộ, ngành, u ỷ ban nhân dân cấp tỉnh lựa chọn, trình được
Thủ tướng phê duyệt danh sách trước khi thực hiện.
Về bản chất, các điều kiện này đều phản ánh ở những mức độ cụ thể
khác nhau các căn cứ đã trình bày ở trên. Trong thời điểm hiện tại, chúng ta
cần chấp nhận chúng như những điều kiện cần và đủ cho bước nhẩy mới về
đổi mới doanh nghiệp.
Đ ở n g Thu Thuý/Luộn v ă n T hạc sĩ Luột/2003


23
1.3. LÝ DO, MỤC ĐÍCH X Ã Y DựNG MÔ HÌNH PHÁP LÝ CÔNG TY MẸ
- CÔNG TY CON HIỆN IMAY
1.3.1. Lý do xây dựng mô hình pháp lý công ty mẹ - công ty
con

Việc nghiên cứu xây dựng mô hình pháp lý công ty mẹ - công ty con
xuất phát từ các lý do cơ bản sau đây:
1)
Các chủ trương, chính sách vê sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước của Đảng và Nhà
nước nhằm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó
kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo
Thực hiện đường lối của Đảng, hơn 10 năm qua, Chính phủ đã đẩy
mạnh công cuộc đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, tiến hành ba đợt
sắp xếp lớn các doanh nghiệp nhà nước. Đợt thứ nhất được thực hiện từ 19901993: thực hiện các giải pháp tình thế nhằm tập trung giải quyết về tổ chức,
xây dựng cơ chế, chính sách và tài chính để sắp xếp các đơn vị cơ sở. Với căn
cứ là Quyết định số 315-HĐBT ngày 1-9-1990 về chấn chỉnh và tổ chức lại

sản xuất kinh doanh trong khu vực kinh tế quốc doanh và Nghị định số 388HĐBT ngày 20.11.1991 ban hành quy chế về thành lập và giải thể doanh
nghiệp nhà nước. Đợt thứ hai thực hiện từ 1994-1997 dựa trên các Quyết định
số 90/TTg về việc tiếp tục sắp xếp doanh nghiệp nhà nước trong đó có việc sắp
xếp, thành lập và đăng ký lại các liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty; quyết định
số 91/TTg ngày 7-3-1994 về việc thí điểm tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam
nhằm nâng cao khả năng tích tụ của các Tổng công ty trong thời kỳ thực hiện
mục tiêu công nghiệp hoá hiên đại hoá đất nước. Trong tổ chức, quản lý doanh
nghiệp bỏ dần chế độ Bộ chủ quản và cấp hành chính chủ quản, phân biệt
quản lý nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh, nâng cao hơn nữa tính chủ
động, tự chủ của cơ sở và tăng cường vai trò quản lý nhà nước của các cơ quan
quản lý các cấp. Đợt thứ ba thực hiện từ giữa năm 1998 đến nay theo các Chỉ
thị số 20/1998/TT-TTg ngày 21-4-1998 về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới
doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở phân loại doanh nghiệp và Chỉ thị số
15/1999/CT-TTg ngày 26-5-1999 về việc hoàn thiện tổ chức hoạt động của
Tổng công ty nhà nước.
Có thể thấy rằng, vấn đề hoàn thiện mô hình tổ chức pháp lý của doanh
nghiệp nhà nước được tập trung hơn từ giữa những năm 90 của thế kỷ XX, sau
một loạt những điều chỉnh, thử nghiệm. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII và Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ tư
(khoá VIII) của Đảng đã xác định một số một số chủ trương đổi mới khá căn
bản về hình thức tổ chức và nội dung hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
Đ ộ n g Thu Thuý/Luộn v ă n T h ạc sĩ Luột/2003


24
theo hướng chuyển các doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo hình thức
công ty TNHH hoặc công ty cổ phần, tổ chức lại các Tổng công ty nhà nước
để chúng đủ điều kiện trở thành tập đoàn kinh tế mạnh thông qua các biện
pháp thay cơ chế quản lý vốn bằng phương pháp hành chính sang cơ chế đầu
tư tài chính. Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng

lần thứ ba (khoá IX) đã khẳng định mục tiêu tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu qủa doanh nghiệp nhà nước, xác định rõ quan điểm chủ
đạo, nhiệm vụ và các giải pháp lớn trong việc thực hiện mục tiêu này. Đổng
thời, chủ trương hình thành một số tập đoàn kinh doanh mạnh trên cơ sở các
tổng công ty nhà nước cũng đã được đề ra. Thí điểm, rút kinh nghiệm để nhân
rộng việc thực hiện chuyển tổng công ty nhà nưóc sang hoạt động theo mô
hình công ty mẹ - công ty con, trong đó Tổng công ty đầu tư vốn vào các
doanh nghiệp thành viên là những công ty TNHH một chủ hoặc công ty cổ
phần mà tổng công ty giữ cổ phần chi phối.
2)
Các đê xuất, kiến nghị của các tổng công ty và doanh nghiệp
nhà nước quy mô lớn vê sự cần thiết phải thí điểm xây dựng mô hình công
ty mẹ - công ty con qua quá trình rút ra các bài học kỉnh nghiệm vê tổ
chức, quản lý doanh nghiệp trong nước và quốc tế.
Trong những năm vừa qua, mặc dù đã có những đóng góp tích cực cho
sự phát triển của nền kinh tế đất nước, nhưng kết quả hoạt động của các tổng
công ty và doanh nghiệp nhà nưóc vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng và
nguồn lực được Nhà nước đầu tư. Ngay từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, sắp
xếp lại các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế nhà nước, nhiều doanh nghiệp
nhà nước đã nhận thức được những vấn đề còn hạn chế trong mô hình tổ chức
và hoạt động cũng như cơ chế quản lý đối với các doanh nghiệp này. Sau khi
tiến hành nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức và khảo sát trực tiếp ở một số tập
đoàn kinh tế lớn của nước ngoài, các doanh nghiệp đã đưa ra một số đề xuất
cho việc thiết lập một mô hình tổ chức mới có thể khắc phục được những bất
cập còn tồn tại và phù hợp với điều kiện Việt Nam. Ớ vào thời điểm này, hầu
hết các doanh nghiệp vẫn chưa đưa ra được cái tên chính xác của mô hình này
là mô hình công ty mẹ - công ty con mà đặt nó dưới nhiều cách gọi, chẳng
hạn như: Tổng công ty Hàng hải có đề án về loại hình tổng công ty tham gia
góp vốn với doanh nghiệp thành viên (năm 2000), Tổng công ty Hàng không
đề xuất việc kiện toàn tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý theo mô hình Tổng

công ty liên kết với các đơn vị thành viên trên cơ sở vốn góp (năm 1999). Đó
chính là những bước khởi đầu để tiến tới thừa nhận và xây dựng mô hình công
ty mẹ - công ty con.

Đ ộ n g Thu Thuỳ/Luộn v ă n Thọc sĩ Luột/2003


×