Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Thảo luận Dân sự buổi 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.29 KB, 22 trang )

BÀI THẢO LUẬN 1: CHỦ THỂ CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ
I)

Năng lực hành vi dân sự:
1. Cho biết những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 so với Bộ luật
Dân sự 2005 về quy định mất năng lực hành vi dân sự.

Trả lời:
- Điểm mới 1: Bổ sung trường hợp loại trừ NLHVDS đầy đủ
+ BLDS 2005: chỉ có 2 trường hợp là mất năng lực hành vi dân
sự và hạn chế năng lực hành vi dân sự (Điều 22 và điều 23 BLDS 2005).
+ BLDS 2015: bổ sung thêm trường hợp người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi (Điều 23 BLDS 2015).
 Theo đó, người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không
đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng
lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi
ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận
giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người
giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ. Việc quy định này
đã giải quyết được trường hợp thực tế những người “lửng lơ” giữa có và
mất năng lực hành vi dân sự mà BLDS 2005 đã để lại khoảng trống.
- Điểm mới 2: Không còn người không có năng lực hành vi dân sự.
+ BLDS 2005: “Người chưa đủ sáu tuổi không có năng lực
hành vi dân sự. Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi phải do người
đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.” (Điều 21 BLDS 2005).


+ BLDS 2015: Người chưa đủ 6 tuổi được xếp vào chung
nhóm người chưa thành niên, và vẫn giữ nguyên quy định về giao dịch dân
sự đối với đối tượng này (Khoản 2 Điều 21 BLDS 2015).


 Quy định này là hoàn toàn phù hợp. Bởi lẽ, không thể từ khi một đứa trẻ
sinh ra cho đến khi chưa đủ sáu tuổi lại không có khả năng bằng hành vi
của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự nào đó. Bên cạnh đó,
quy định này cũng đã khắc phục được bất cập trên thực tế khi áp dụng
BLDS 2005, theo đó, đối với những giao dịch của trẻ chưa đủ sáu tuổi
nếu không được bố, mẹ đồng ý thì đều bị tuyên là vô hiệu mà không cần
phải tính đến lợi ích của đứa trẻ, điều này là chưa phù hợp, vì thực tế có
những giao dịch dù không thuộc trường hợp nhằm phục vụ nhu cầu sinh
hoạt hàng ngày, phù hợp với lứa tuổi, nhưng lại rất cần thiết, cấp thiết đối
với lợi ích của đứa trẻ lúc đó thì trường hợp này có thể xem xét để không
tuyên giao dịch vô hiệu.
- Điểm mới 3: Sửa đổi về quy định giao dịch dân sự đối với người từ đủ 15
tuổi đến chưa đủ 18 tuổi.
+ BLDS 2005: “Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi
đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì
có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự
đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác.” (Khoản 2 Điều 20 BLDS 2005).
+ BLDS 2015: “ Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười
tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự
liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác
theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.”
(Khoản 4 điều 21 BLDS 2015).


 BLDS 2005 chỉ nêu điều khoản loại trừ một cách chung chung, nhưng
theo BLDS 2015 thì việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự của đối
tượng này được quy định cụ thể, linh hoạt hơn.
- Điểm mới 4: BLDS 2015 thêm các cụm từ “cơ quan, tổ chức hữu quan”,
“pháp y tâm thần” vào quy định mất năng lực hành vi dân sự.

+ BLDS 2005: “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo
yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố
mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định.”
(Khoản 1 Điều 22 BLDS 2005).
+ BLDS 2015: “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu
của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan,
Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân
sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.” (Khoản 1 Điều 22 BLDS
2015).
2. Hoàn cảnh của ông P như trong quyết định được bình luận có
thuộc trường hợp mất năng lực hành vi dân sự không? Vì sao?
Trả lời: Hoàn cảnh của ông P không thuộc trường hợp mất năng lực hành vi dân sự.
Vì:

Căn cứ Khoản 1 Điều 22 BLDS 2015 “Khi một người do bị bệnh tâm

thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo
yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu
quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân
sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.”.


Căn cứ Khoản 1 Điều 23 BLDS 2015 “Người thành niên do tình
trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi
nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này,
người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở
kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ,

xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.”.
 Ông P vẫn có khả năng nhận thức được. Theo kết luận của Trung tâm
Pháp y, về mặt y học ông P đã có dấu hiệu thuyên giảm bệnh tình. Ngoài
ra ông P còn yêu cầu Tòa án chỉ định bà Huỳnh Thị T làm người giám hộ
cho mình. Nên ông P chưa đến mức mất hoàn toàn khả năng nhận thức
nên không thể thuộc trường hợp mất năng lực hành vi dân sự.
3. Nêu những điểm giống nhau và khác nhau giữa hạn chế năng lực
hành vi dân sự và mất năng lực hành vi dân sự.
Trả lời:
* Mất năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 22 BLDS 2015 như sau:
“1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi
ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định
tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận
giám định pháp y tâm thần.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì
theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan
hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết
định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.


2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người
đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.”
* Hạn chế năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 24 BLDS 2015:
“1. Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán
tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan
hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố
người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.

2. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người
bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của
người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh
hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác.
3. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích
liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ
quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.”
 Điểm giống nhau:
- Họ là những người từng có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
- Việc chủ thể bị hạn chế hay bị mất năng lực hành vi dân sự dựa trên
quyết định của Tòa án trên cở sở yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên
quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan.
- Họ không thể tự mình tham gia tất cả các giao dịch dân sự mà pháp luật
cho phép.


- Khi không còn căn cứ cho rằng chủ thể bị mất năng lực hành vi dân sự
hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì họ có quyền được khôi phục
lại năng lực hành vi dân sự của mình.
 Điểm khác nhau:
- Về nguyên nhân: người mất năng lực hành vi dân sự là do họ mắc bệnh
tâm thần hoặc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành
vi của mình. Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì do họ
nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích dẫn đến phá tán tài sản của gia
đình.
- Về hệ quả pháp lí: Người mất năng lực hành vi dân sự sẽ không còn
năng lực hành vi dân sự, không thể tham gia bất kì một giao dịch dân sự
nào, các giao dịch dân sự của họ sẽ do người đại diện của họ xác lập và
thực hiện. Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì họ không

bị mất hết năng lực hành vi dân sự mà họ vẫn có thể tự mình tham gia
được một số giao dịch dân sự nhằm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của
họ.

4. Trong Quyết định được bình luận, ông P có thuộc trường hợp
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không? Vì sao?
Trả lời: Ông P không thuộc trường hợp bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Vì: Theo Khoản 1 Điều 24 BLDS 2015 “Người nghiện ma túy, nghiện các
chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của
người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có
thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.


Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự và phạm vi đại diện.”.
Ông P theo giám định pháp y tâm thần số: 286/KLGĐTC ngày 22/5/2017 kết luận:
- Về mặt y học: Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tại thuyên giảm (F13.7).
- Về mặt pháp luật: Khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.
 Không thuộc trường hợp hạn chế năng lực hành vi dân sự.
5. Điểm khác nhau cơ bản giữa người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự và người có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi.
Trả lời: Căn cứ Điều 23,24 BLDS 2015.
Hạn chế năng lực hành vi dân sự

Khó khăn trong nhận thức

- Người người thành niên có năng lực - Người thành niên do tình trạng thể
hành vi dân sự nghiện ma túy, nghiện chất hoặc tinh thần mà không đủ khả
các chất kích thích khác dẫn đến phá năng nhận thức, làm chủ hành vi
tán tài sản của gia đình.


nhưng chưa đến mức mất năng lực

- Yêu cầu tuyên bố một người bị hạn hành vi dân sự.
chế năng lực hành vi dân sự chỉ được - theo yêu cầu của người này, người
thực hiện bởi người có quyền, lợi ích có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ
liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết
có mối quan hệ với người đó, Tòa án luận giám định pháp y tâm thần, Tòa
có thể ra quyết định tuyên bố người án ra quyết định tuyên bố người này là
này là người bị hạn chế năng lực hành người có khó khăn trong nhận thức,
vi dân sự.

làm chủ hành vi và chỉ định người
giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của
người giám hộ.


6. Tòa án xác định ông P thuộc trường hợp người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi có thuyết phục không. Vì sao?
Trả lời: Tòa án xác định ông P thuộc trường hợp người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi là thuyết phục.
Vì: Trường hợp của ông P đã đủ các yếu tố quy định theo Khoản 1 Điều 23
BLDS 2015 và Tòa án đã kết luận dựa trên bản giám định pháp y của Trung tâm
Giám định pháp y Miền Trung là văn bản kết luận có giá trị pháp lý đối với những
người bị tâm thần, hạn chế năng lực… Do đó, Tòa án kết luận là vô cùng thuyết
phục.
7. Việc Tòa án không đề nghị bà H là người giám hộ cho ông P có
thuyết phục không? Vì sao?
Trả lời: Việc Tòa án không đề nghị bà H là người giám hộ cho ông P là thuyết
phục.

Vì: Sau khi bà H bỏ đi thì bà T là người nuôi dưỡng ông P từ nhỏ đến lớn.
Mặt khác, bà H đã bỏ đi hơn 20 năm nay, và không về địa phương lần nào, hiện
nay không biết bà H đang ở đâu, làm gì, còn sống hay đã chết. Nên không có cơ sở
để chỉ định bà H là người giám hộ cho ông P. Vì vậy, Tòa án kết luận là vô cùng
thuyết phục.
8. Việc Tòa án để bà T là người giám hộ cho ông P có thuyết phục
không? Vì sao?
Trả lời: Việc Tòa án để bà T là người giám hộ cho ông P là thuyết phục.
Vì: - Theo Điều 53, 57 BLDS 2015 ba chủ thể là vợ ông P (bà Vủ Thị H),
cha mẹ ông P (ông Lê Văn H, bà Lê Thị H) không đủ điều kiện làm người giám hộ
cho ông P. Cụ thể:


+ Bà Vủ Thị H đã yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án ly hôn với ông P
mà Tòa án đã thụ lý, nên không đủ điều kiện làm người giám hộ cho ông P.
+ Ông Lê Văn H đã chết năm 2007.
+ Bà Lê Thị H đã bỏ đi hơn 20 năm nay, và không về địa phương lần
nào, hiện nay không biết bà H đang ở đâu, làm gì, còn sống hay đã chết. Nên
không có cơ sở để chỉ định là người giám hộ cho ông P.
- Theo Điều 49 BLDS 2015, bà Huỳnh Thị T đủ điều kiện làm người giám
hộ cho ông P. Vì bà T có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và là người nuôi dưỡng
ông P từ nhỏ đến khi trưởng thành.
- Theo Khoản 2 Điều 46 BLDS 2015, ông P yêu cầu Tòa án chỉ định bà T là
người giám hộ cho mình.
9. Với vai trò của người giám hộ bà T được đại diện ông P trong
những giao dịch nào? Vì sao?
Trả lời: Theo Điều 58,59 BLDS 2015, bà T được đại diện cho ông P trong những
giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của ông P vì lợi ích của ông P.
“a) Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những
nhu cầu thiết yếu của người được giám hộ;

b) Được thanh toán các chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản của người được
giám hộ;
c) Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
và thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền, lợi
ích

hợp

pháp

của

người

được

giám

hộ.”


2, Bài tập tư cách pháp nhân và hệ quả pháp lý
Câu 1: Những điều kiện để tổ chức được thừa nhận là một pháp nhân (nêu rõ
từng điều kiện).
Trả lời:
- Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 74 BLDS 2015 và Điều 83 BLDS 2015.
Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng

tài sản của mình;
d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
1. Pháp nhân phải có cơ quan điều hành. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn
của cơ quan điều hành của pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân
hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân.
2. Pháp nhân có cơ quan khác theo quyết định của pháp nhân hoặc theo quy
định của pháp luật.”
Cụ thể là:
Thứ nhất, pháp nhân phải được thành lập theo quy định của Bộ luật Dân sự
2015, luật khác có liên quan, tức là phải được thành lập theo đúng trình tự, thủ tục
tương ứng do luật định cho pháp nhân, phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thành lập, cho phép hoặc công nhận thành lập.
 Ví dụ: khi thành lập doanh nghiệp, công ty cổ phần hay công ty TNHH (các
pháp nhân) đều phải được thành lập hợp pháp. Tức là phải đăng ký và được


Sở kế hoạch đầu tư tỉnh, thành phố mà nơi công ty đóng trụ sở cấp Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Thứ hai, pháp nhân có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật
Dân sự 2015 như sau: 1. Pháp nhân phải có cơ quan điều hành. Tổ chức, nhiệm vụ
và quyền hạn của cơ quan điều hành của pháp nhân được quy định trong điều lệ
của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân; 2. Pháp nhân có cơ
quan khác theo quyết định của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật.
Như vậy một tổ chức muốn trở thành pháp nhân phải có điều lệ hoặc quyết
định thành lập pháp nhân. Trong điều lệ và quyết định thành lập phải có quy định
cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan điều hành pháp nhân.
Thứ ba, pháp nhân phải có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự
chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Tài sản độc lập là tài sản của pháp nhân
hoặc tài sản do nhà nước giao cho quản lý. Pháp nhân là chủ sở hữu và có đầy đủ
quyền của người chủ sở hữu. Pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó

không thể bắt buộc bất kì chủ thể nào thực hiện thay mình kể cả các thành viên
trong tổ chức pháp nhân đó (trừ khi có thỏa thuận).


Ví dụ: Khi mở công ty cổ phần, các cổ đông mua cổ phần, góp vốn vào công
ty. Thì tài sản này phải độc lập với tài sản của các cổ đông. Công ty chịu
trách nhiệm với tài sản của công ty. Hoặc một trường hợp tổ chức không có
tư cách pháp nhân dù được thành lập hợp pháp là Doanh nghiệp tư nhân. Vì
tài sản của doanh nghiệp tư nhân không tách biệt với tài sản cá nhân – chủ
doanh nghiệp tư nhân đó.
Thứ tư, pháp nhân nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc

lập. Vì pháp nhân là một tổ chức độc lập, được quyền giao dịch, xác lập quyền và
nghĩa vụ nên bắt buộc nó có thể tự nhân danh chính mình. Pháp nhân có quyền
nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật thông qua người đại diện theo


pháp luật. Theo đó, pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự một cách
độc lập, được hưởng đầy đủ quyền và có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ theo quy
định của pháp luật.
Câu 2: Trong Bản án số 1117, theo Bộ tài nguyên và môi trường, Cơ quan đại
diện của Bộ tài nguyên và môi trường có tư cách pháp nhân không? Đoạn nào
của Bản án có câu trả lời.
Trả lời:
- Trong Bản án số 1117, theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Cơ quan đại diện
của Bộ Tài nguyên và Môi trường có tư cách pháp nhân nhưng là tư cách
pháp nhân không đầy đủ.
- Được thể hiện trong đoạn sau của Bản án 1117: “Như vậy Cơ quan đại diện
Bộ Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị trực thuộc
Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đại diện hạch toán báo sổ khi thực

hiện dự toán, quyết toán phải theo phân cấp của Bộ, phụ thuộc theo sự phân
bổ ngân sách của Nhà nước và phân cấp của Bộ Tài nguyên và Môi trường
chứ không phải là một cơ quan hạch toán độc lập. Mặc dù trong quyết định
1367 nói trên có nội dung “Cơ quan đại diện có tư cách pháp nhân, có con
dấu và tài sản riêng” nhưng là Cơ quan đại diện Bộ phải hạch toán báo sổ
nên cơ quan này có tư cách pháp nhân nhưng là tư cách pháp nhân không
đầy đủ.”
Câu 3: Trong Bản án số 1117, vì sao Tòa án xác định Cơ quan đại diện của Bộ
tài nguyên và môi trường không có tư cách pháp nhân?
Trả lời: Căn cứ Điều 92 BLDS 2005.
“1. Pháp nhân có thể đặt văn phòng đại diện, chi nhánh ở nơi khác với nơi đặt trụ
sở của pháp nhân.


2. Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ đại diện
theo ủy quyền cho lợi ích của pháp nhân và thực hiện việc bảo vệ các lợi ích đó.
3. Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ
hoặc một phần chức năng của pháp nhân, kể cả chức năng đại diện theo ủy quyền.
4. Văn phòng đại diện, chi nhánh không phải là pháp nhân. Người đứng đầu văn
phòng đại diện, chi nhánh thực hiện nhiệm vụ theo ủy quyền của pháp nhân trong
phạm vi và thời hạn được ủy quyền.
5. Pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do văn
phòng đại diện, chi nhánh xác lập, thực hiện.”
 Tòa án xác định Cơ quan đại diện của Bộ tài nguyên và môi trường
không phải là pháp nhân vì các lí do:
Xét theo quyết định số 1364/QĐ-BTNMT ngày 08/7/2008 của Bộ trưởng Bộ
tài nguyên và môi trường quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Cơ quan đại diện Bộ tài nguyên và môi trường tại thành phố Hồ
Chí Minh thì Cơ quan đại diện là tổ chức của Bộ tài nguyên và môi trường, giúp
Bộ trưởng theo dõi, tổng hợp tình tình thực hiện nhiệm vụ về lĩnh vực thuộc phạm

vi của Bộ trên địa bàn các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ở phía Nam, thực
hiện một số nhiệm vụ theo chương trình công tác của Bộ trên địa bàn được giao
phụ trách… Phối hợp với các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ thực hiện công tác chuyên
môn nghiệp vụ được giao. Cơ quan đại diện của Bộ Tài nguyên và môi trường
chưa đáp ứng đủ điều kiện có cơ cấu tổ chức chặt chẽ.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Trả lời: Theo tôi, tôi hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý và khách quan. Tôi
đồng tình với hướng giải quyết của Tòa án khi chấp nhận yêu cầu bồi thường của


ông Nguyễn Ngọc Hùng do cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường thành
phố Hồ Chí Minh đã không rõ ràng trong việc kí kết hợp đồng lao động với ông
Nguyễn Ngọc Hùng.
Thứ nhất, tại Bản án Lao động sơ thẩm số 32/2012/LĐST ngày 9/7/2012,
Tòa án nhân dân quận 1 và nguyên đơn- ông Nguyễn Ngọc Hùng đều xác định bị
đơn là Cơ quan đại diện của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Điều này không phù
hợp với quyết định số 1364/QĐ-BTNMT ngày 8/7/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi trường và Điều 92 Bộ luật Dân sự năm 2005. Theo đó, đưa Cơ
quan đại diện của Bộ Tài nguyên và Môi trường là bị đơn là không đúng mà bị đơn
phải là Bộ Tài nguyên và Môi trường. Vì cơ quan đại diên không có tư cách pháp
nhân, chỉ là đơn vị phụ thuộc pháp nhân, nhân danh pháp nhân xác lập các giao
dịch. Pháp nhân có quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do Văn
phòng đại diện, chi nhánh xác lập, thực hiện. Chính vì vậy, Tòa đã hủy Bản án Lao
động sơ thẩm số 07/2012/LĐ-ST ngày 25/05/2012 về việc “Tranh chấp về trường
hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động” của Tòa án nhân dân quận 1.
Không những thế, để đảm bảo cho nguyên đơn- ông Nguyễn Ngọc Hùng có quyền
khởi kiện lại cho đúng đối tượng mà không để quá thời hiệu khởi kiện vụ án, Tòa
đã chuyển hồ sơ về cho Tòa án nhân dân quận 1, thành phố Hồ Chí Minh giải
quyết lại sơ thẩm vụ án.
Thứ hai, về án phí lao động phúc thẩm, Cơ quan đại diện của Bộ Tài nguyên

và Môi trường sẽ được hoàn lại 200.000đ.
Như vậy vấn đề Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm tai nạn thì cơ quan đại diện
Bộ Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh sẽ phải tiếp tục thực hiện để
đảm bảo lợi ích về quyền và nghĩa vụ cả người lao động mà trong trường hợp này
là ông Hùng. Cùng với đó Tòa án đã rất đúng đắn khi phát hiện ra được sai sót của
Tòa án cấp sơ thẩm là xác định không đúng của người tham gia tố tụng với tư cách


là bị đơn trong vụ án, hủy án Sơ thẩm, và yêu cầu Tòa án nhân dân Quận 1 giải
quyết lại vụ án sơ thẩm.
Câu 5: Pháp nhân và cá nhân có gì khác nhau về năng lực pháp luật dân sự?
Nêu cơ sở khi trả lời (nhất là trên cơ sở BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015).
Trả lời:
Khái niệm

NLPLDS của Cá nhân
NLPLDS của Pháp nhân
Năng lực pháp luật dân sự là Năng lực pháp luật dân sự
khả năng của cá nhân có của pháp nhân là khả
quyền dân sự và nghĩa vụ năng của pháp nhân có
dân sự. ( Khoản 1 Điều 14)

các quyền, nghĩa vụ dân
sự phù hợp với mục đích
hoạt

Thời điểm phát sinh
và chấm dứt

động


của

mình.

( Khoản 1 Điều 86)
Năng lực pháp luật dân sự Năng lực pháp luật dân sự
của cá nhân có từ khi người của pháp nhân phát sinh
đó sinh ra và chấm dứt khi từ thời điểm pháp nhân
người đó chết.( Khoản 3 được thành lập và chấm
Điều 14)

dứt từ thời điểm chấm dứt
pháp nhân. ( Khoản 2

Tính chuyên biệt

Điều 86)
Mọi cá nhân đều có năng lực Chỉ có những tổ chức
pháp luật dân sự

pháp nhân có đủ điều kiện
theo quy định của điều 84
mới có năng lực pháp luật

Phạm vi

dân sự
Năng lực pháp luật dân sự Mỗi pháp nhân sẽ được
của cá nhân không bị hạn xác lập năng lực pháp luật



chế, trừ trường hợp do pháp dân sự tương ứng.
luật quy định ( Điều 16)
- BLDS 2015:
Khái niệm

NLPLDS của Cá nhân
NLPLDS của Pháp nhân
Năng lực pháp luật dân sự Năng lực pháp luật dân
của cá nhân là khả năng sự của pháp nhân là khả
của cá nhân có quyền dân năng của pháp nhân có
sự và nghĩa vụ dân sự. các quyền, nghĩa vụ dân

( Khoản 1 Điều 16)
sự ( Khoản 1 Điều 86)
Thời điểm phát sinh và Năng lực pháp luật dân sự Năng lực pháp luật dân
chấm dứt

của cá nhân có từ khi người sự của pháp nhân phát
đó sinh ra và chấm dứt khi sinh từ thời điểm được cơ
người đó chết. ( Khoản 3 quan nhà nước có thẩm
Điều 16)

quyền thành lập hoặc cho
phép thành lập; nếu pháp
nhân phải đăng ký hoạt
động thì năng lực pháp
luật dân sự của pháp
nhân phát sinh từ thời

điểm ghi vào sổ đăng ký.
Năng lực pháp luật dân
sự của pháp nhân chấm
dứt kể từ thời điểm chấm
dứt pháp nhân. (Khoản
2,3 Điều 86)


Tính chuyên biệt

Mọi cá nhân đều có năng Chỉ có những tổ chức
lực pháp luật dân sự như pháp nhân có đủ điều
nhau. ( Khoản 2 Điều 16)

kiện theo quy định của
điều 74 mới có năng lực

Phạm vi

pháp luật dân sự
Năng lực pháp luật dân sự Năng lực pháp luật dân
của cá nhân không bị hạn sự của pháp nhân không
chế, trừ trường hợp Bộ luật bị hạn chế, trừ trường
này, luật khác có liên quan hợp Bộ luật này, luật
quy định khác. ( Điều 18 )

khác có liên quan quy
định khác. ( Khoản 1
Điều 86)


Câu 6: Giao dịch do người đại diện của pháp nhân xác lập nhân danh pháp
nhân có ràng buộc pháp nhân không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Giao dịch do người đại diện của pháp nhân xác lập nhân danh pháp nhân có
ràng buộc pháp nhân.
Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 87 Bộ luật Dân sự 2015
“Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ
dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân. Pháp nhân chịu
trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc đại diện của sáng lập viên
xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc luật có quy định khác.”


Câu 7: Trong tình huống trên, hợp đồng ký kết với Công ty Nam Hà trong
tình huống trên có ràng buộc Công ty Bắc Sơn không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.
Trả lời: Hợp đồng kí kết với công ty Nam Hà trong tình huống trên có ràng buộc
Công ty Bắc Sơn.
- Cơ sở pháp lý:
Khoản 1 Điều 84 Bộ luật Dân sự 2015 “Chi nhánh, văn phòng đại diện là
đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, không phải là pháp nhân.”
Khoản 6 Điều 84 Bộ luật Dân sự 2015 “Pháp nhân có quyền, nghĩa vụ dân
sự phát sinh từ giao dịch dân sự do chi nhánh, văn phòng đại diện xác lập,
thực hiện.”
Khoản 4 Điều 92 BLDS 2005: “Văn phòng đại diện, chi nhánh không phải
là pháp nhân. Người đứng đầu văn phòng đại diện, chi nhánh thực hiện
nhiệm vụ theo ủy quyền của pháp nhân trong phạm vi và thời hạn được ủy
quyền.”
=> Theo đó thì chi nhánh không được công nhận là một pháp nhân vì chi nhánh là
đơn vị phụ thuộc trụ sở chính, được thành lập hợp pháp, có con dấu và tài khoản

riêng nhưng chưa độc lập hoàn toàn về tài sản nên không được coi là pháp nhân.
Viêc chi nhánh công ty Bắc Sơn ký hợp đồng với Công ty Nam Hà chỉ là thực hiện
nhiệm vụ được quy định tại quy chế hoạt động của chi nhánh. “Chi nhánh có
quyền lựa chọn khách hàng, trực tiếp giao dịch ký kết hợp đồng với khách hàng,
chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh đã đăng ký”. Chủ thể của bản hợp đồng
này là Công ty Bắc Sơn nên Công ty phải chịu trách nhiệm giải quyết khi xảy ra
tranh chấp, không thể đổ hết trách nhiệm cho chi nhánh.
II)

Trách nhiệm dân sự của pháp nhân:


1. Trách nhiệm của pháp nhân đối với nghĩa vụ của các thành viên
và trách nhiệm của các thành viên đối với nghĩa vụ của pháp
nhân.
Trả lời:
- Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự: Các bên phải nghiêm chỉnh thực hiện
nghĩa vụ dân sự của mình và tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ, nếu không tự nguyện thực hiện thì có thể bị cưỡng
chế thực hiện theo quy định của pháp luật.
- Trách nhiệm của pháp nhân đối với nghĩa vụ của mỗi thành viên:
+ Pháp nhân chỉ phải chịu trách nhiệm dân sự về những hành vi được
coi là hành vi của pháp nhân: Hành vi của pháp nhân được hiểu là hành vi
của người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền nhân
danh pháp nhân và hành vi của các thành viên pháp nhân trong phạm vi
nhiệm vụ được pháp nhân giao. Trong trường hợp người đại diện của pháp
nhân thực hiện với tư cách cá nhân thì sẽ không làm phát sinh trách nhiệm
dân sự cho pháp nhân.
+ Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình: Tài sản
chịu trách nhiệm là tài sản độc lập của pháp nhân. Tài sản của pháp nhân

được hình thành bằng sự góp vốn của các chủ sở hữu và tài sản hình thành
trong quá trình hoạt động của pháp nhân và riêng biệt với khối tài sản của
các thành viên; là tất cả các loại tài sản mà pháp nhân sở hữu và pháp nhân
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình.Tư cách chủ thể của pháp
nhân được chứng minh là độc lập với các chủ sở hữu về mặt tài sản. Khi đó,
các pháp nhân tham gia các quan hệ tài sản sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ
pháp lý liên quan đến trách nhiệm về tài sản của pháp nhân.


+ Pháp nhân không chịu trách nhiệm thay cho thành viên và ngược
lại: Pháp nhân sẽ không chịu trách nhiệm đối với nghĩa vụ dân sự do người
của pháp nhân xác lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân, đồng thời,
người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối
với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện.
- Trách nhiệm của các thành viên đối với nghĩa vụ của pháp nhân:
+ Người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp
nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường
hợp luật có quy định khác.
2. Trong Bản án được bình luận, bà Hiền có là thành viên của Công
ty Xuyên Á không? Vì sao?
Trả lời: Bà Hiền là thành viên của công ty xuyên á, vì bà Hiền đã góp vốn 26,05%
vào Công ty Xuyên Á.
3. Nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích là nghĩa vụ của Công tu
Xuyên Á hay của bà Hiền? Vì sao?
Trả lời: Nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích là nghĩa vụ của Công ty Xuyên Á, vì
khi ký hợp đồng mua gạch của Công ty Ngọc Bích, người đại diện đã nhân danh
Công ty Xuyên Á ký hợp đồng mua gạch, theo Khoản 3 Điều 93 BLDS 2005 quy
định: “Thành viên của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp
nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện.”
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa cấp sơ thẩm và

Tòa cấp phúc thẩm liên quan đến nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc
Bích.


Trả lời: Bản án của Tòa án sơ thẩm là chưa thỏa đáng bởi lẽ bà Hiền chỉ góp vào
Công ty 26,05 % về vốn mà buộc bà Hiền liên đới trả nợ là không đúng (hình như
phải từ 36% trở lên mới đúng) điều này còn sai theo Khoản 3 Điều 99 BLDS 2015.
5. Làm thế nào để bảo vệ quyền lợi của Công ty Ngọc Bích khi Công
ty Xuyên Á đã bị giải thể.
Trả lời: Tòa án cần phải thu thập đủ chứng cứ làm rõ lí do giải thể, tài sản của
Công ty giải thể và nghĩ vụ về tài sản của công ty sau giải thể.... Để giải quyết theo
đúng pháp luật, từ đó mới có thể đảm bảo quyền lợi cho Công ty Ngọc Bích.

* Các nguồn trích dẫn:
- Bộ luật Dân sự 2005.
- Bộ luật Dân sự 2015.
- Quyết định số 11/2017/QĐDS-ST ngày 18/7/2017 của Tòa án nhân dân thị xã
Điện Bàn tỉnh Quảng Nam.
- Bản án số 1117/2012/LĐ-PT ngày 11/9/2012 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí
Minh.
- Bản án số 10/2016/KDTM-PT ngày 17/03/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh An
Giang.


-

/>
luc-hanh-vi-dan-0
/>tabid=156&ctl=ViewNewsDetail&mid=560&NewsPK=321
/>



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×