Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Các yêu cầu đối với quyết định của các cơ quan hành chính nhà nước việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.64 MB, 92 trang )

rổ

ĩ

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
________ Ạ

¡1

______

KHOA LUẬT

Nguyễn Văn Thanh

NHỮNG VẤN ĐỂ PHÁP LÝ VỂ GÓP VỐN THÀNH
LẬP CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN THEO
LUẬT DOANH NGHIỆP
LUẬN VĂN THẠC s ĩ KHOA HỌC LUẬT

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 50515

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Đình Hảo
Viên nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật

Đ Ạ I HỌC

QUỐC

G IA



HÀ NÔI

TRUNGTÂMTI!Ô! :f> ĩ!N .T H Ư V Ộ

NoV'

Hà Nội 2002


M Ụ C

L Ụ C

Lời nói đầu
Chương I. Một số vấn đề lý luận pháp lý về góp vốn thành lập
công ty TNHH
1.1. Khái quát công ty TNHH
1.2. Vốn điều lệ và vốn pháp định
1.2.1. Vốn điều lệ
1.2.2. Vốn pháp định
1.3. Bảo đảm của Nhà nước đối với việc bỏ vốn đầu tư vào hoạt động
kinh doanh
1.4. Sự điều chỉnh của các qui định pháp luật về vốn và tài sản góp vốn,
phương thức góp vốn và thời điểm góp vốn thành lập công ty TNHH
1.4.1. Thời điểm góp vốn
1.4.2. Tài sản góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn
Chương n . Trực trạng các qui định pháp luật về góp vốn thành
lạp cong ty TNHH
2.1. Vốn điều lộ và vốn pháp định

2.1.1. Vốn điều lệ
2.1.2. Vốn pháp định
2.2. Bảo đảm của Nhà nước đối với việc bỏ vốn đầu tư vào hoạt động
kinh doanh
2.3. Thời điểm góp vốn
2.4. Tài sản góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn
2.4.1. Khái niệm tài sản góp vốn
2.4.2. Điều kiện cần và đủcho tài sản góp vốn
2.4.3. Định giá tài sản góp vốn
2.4.4. Thời điểm chuyển dịch quyền sở hữu tài sản góp vốn và trách
nhiệm của các thành viên góp vốn
2.4.5. Giấy chứng nhận tài sản góp vốn
Chương i n . Nhu cầu và những giải pháp tiếp tục hoàn thiện các
qui định pháp luật về góp vốn thành lập công ty TNHH theo
Luật doanh nghiệp
3.1. Hoàn thiện qui định về vốn điều lệ và vốn p h á p định
3.2. Hoàn thiện qui định về bảo đảm của Nhà nước đối với việc b ỏ
vốn đầu tư vào hoạt động kinh doanh
3.3. Hoàn thiện qui định về thời điểm góp vốn
3.4. Hoàn thiện qui định về tài sản góp vốn vào công ty TNHH
3.5. Hoàn thiện Hệ thống pháp luật và các thiết chế kinh tế, xã hội
Kết luật
Tài liệu tham khảo

Trang
1
7
7
14
14

15
19
24
25
32
46
46
46
49
52
58
59
59
62
63
65
66
70

70
74
77
79
86
88
89


LỜI NÓI ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài

Quá trình đổi mới toàn diện mà đổi mới kinh tế là trọng tâm là một quá trình
tất yếu, không thể đảo ngược. Hơn 15 năm đổi mới Việt Nam đã thu được
những thành tựu đáng kể về chính trị, văn hoá - xã hội và đặc biệt là kinh tế.
Trong quá trình phát triển kinh tế các doanh nghiệp dân doanh có một vai trò
quan trọng và ngày càng khảng định vị trí của mình trong nền kinh tế quốc
dân. Sự đóng góp của các doanh nghiệp dân doanh có một ý nghĩa to lớn về
nhiều mặt, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng nguồn thu Ngân
sách Nhà nước thông qua các loại thuế phải nộp của doanh nghiệp, phát huy
được nội lực bằng nguồn vốn đầu tư từ người dân cũng như tính sáng tạo của
họ trong sản xuất, kinh doanh. Từ đó tạo ra một môi trường cạnh tranh giữa
các thành phần kinh tế, không ngừng nâng cao năng lực sản xuất, thúc đẩy
kinh tế phát triển.
Góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế, tạo ra môi trường cạnh tranh, thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển có sự đóng góp quan trọng của các doanh nghiệp
dân doanh, đặc biệt là các công ty trách nhiệm hữu hạn, một loại hình doanh
nghiệp phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế của nước ta hiện nay, tuy nhiên
để đảm bảo cho tính ổn định, bền vững và phát triển của các doanh nghiệp dân
doanh nói chung, công trách nhiệm hữu hạn nói riêng đòi hỏi phải có môi
trường pháp lý phù hợp, đó là điều tất yếu vì sự điểu chỉnh của pháp luật phải
phù hợp với đòi hỏi khách quan, điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội, truyền
thống văn hoá, lịch sử , tâm lý ...
Luật doanh nghiệp được ban hành năm 2000 là một quá trình tất yếu, khách
quan của quá trình đổi mới. Tuy vậy bên cạnh những mặt tích cực, Luật doanh
nghiệp còn có những vấn đề bất cập, đặc biệt là các qui định về góp vốn

1



thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn.
Góp vốn là một trong những vấn đề quan trọng thành lập công ty trách nhiệm
hữu hạn, nó là khởi đầu của công việc kinh doanh, là một trong các yếu tố tiền
đề, cơ sở duy trì sự hoạt động cũng như thành công của một công ty, là cơ sở
để phân chia lợi nhuận giữa các thành viên tham gia cũng như sự chuyển
nhượng, thừa kế vốn góp và quyền đưa ra các quyết định quan trọng của công
ty. Đối với bên ngoài công ty trách nhiệm hữu hạn, vốn nhiều hay ít là một
trong các yếu tố tạo uy tín của công ty trên thương trường, niềm tin của khách
hàng đối với công ty và khả năng trả nợ của công ty đối với chủ nợ. Nghĩa vụ
của công ty đối với Nhà nước, thuế thu nhập doanh nghiệp liên quan đến góp
vốn, chi phí khấu hao tài sản cố định (tài sản cố định được hình thành từ vốn
của chủ sở hữu và vốn vay) là chi phí hợp lý được trừ để tính thu nhập chịu
thuế.
Liên quan đến góp vốn là sự cần thiết có sự bảo đảm an toàn pháp lý đối với
chủ sở hữu doanh nghiệp nói chung, công ty trách nhiệm hữu hạn nói riêng.
Sự bảo đảm pháp lý về tài sản của doanh nghiệp, hoạt động kinh doanh và lợi
nhuận thu được của doanh nghiệp.
Do đó các qui định về góp vốn phải khách quan, minh bạch, rõ ràng và có
tính khái quát cao. Tôi chọn đề tài " Những vấn đề pháp lý về góp vốn thành
lập công ty trách nhiệm hữu hạn theo Luật doanh nghiệp" với mong muốn góp
phần làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn về góp vốn thành lập công ty trách
nhiệm hữu hạn và đưa ra các giải pháp hoàn thiện các qui định về góp vốn của
công ty trách nhiệm hữu hạn của Luật doanh nghiệp.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Doanh nghiệp dân doanh trong đó các công ty đối vốn bao gồm công ty trách
nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần đối với Việt Nam vẫn còn là điều mới mẻ,
mặc dù các loại hình cồng ty này đã ra đời hàng mấy trăm năm ở các nước


2


khác trên thế giới. Do đó trong những năm gần đây các đề tài về công ty đối
vốn thu hút được rất nhiều sự quan tâm nghiên cứu của những nhà khoa học ở
các lĩnh vực khác nhau như kinh tế, pháp luật... trong đó có các luận văn thạc
sỹ và luận án tiến sỹ nghiên cứu về vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn, như:
" Quyền sở hữu tài sản của công ty" luận văn thạc sĩ luật của Lê Thị Châu.
" Những vấn đề pháp lý về vốn và tài sản đối với công ty trách nhiệm hữu
hạn ở Việt Nam" luận văn thạc sĩ luật của Nguyễn Thị Huệ Dung.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu đều đề cập đến các vấn đề pháp lý về
vốn, như thủ tục góp vốn và những vấn đề liên quan đến vốn của công ty
trách nhiệm hữu hạn.
Nhưng công ty trách nhiệm hữu hạn là một lĩnh vực mới ở Việt Nam, cho
nên các qui định về công ty trách nhiệm hữu hạn nói chung qui định về vốn
nói riêng ngày càng thay đổi theo hướng hoàn thiện, bên cạnh đó vốn của
công ty trách nhiệm hữu hạn là đề tài rộng, do đó cách tiếp cận của các đề tài,
phạm vi nghiên cứu, mức độ là khác nhau và các đề tài đó không nghiên cứu
chuyên sâu về những vấn đề pháp lý về góp vốn thành lập công ty trách nhiệm
hữu hạn theo Luật doanh nghiệp mà đề tài này đề cập đến.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

a- M ục đích nghiên cứu của đề tài:

Mục đích của đề tài là nghiên cứu và làm rõ một số vấn đề pháp lý về góp
vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn theo Luật doanh nghiệp, đánh giá
thực trạng các qui định của pháp luật hiện hành về việc góp vốn, đầu tư thành
lập công ty trách nhiệm hữu hạn cũng như các qui định khác có liên quan đến
tài sản và các hoạt động kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp này.

Tham khảo pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn trên thế giới, vận dụng
những vấn đề lý luận về góp vốn, đề xuất những khuyên nghị nhằm bảo đảm

3


Ip dụng có hiệu quả Luật doanh nghiệp vào đời sống kinh tế và hoàn thiện các
jui định về góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn theo Luật doanh
Ighiệp.

b- Nhiệm vụ nghiên cứu của đ ề tài:
Mục đích nghiên cứu của đề tài được cụ thể hoá bằng những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những qui định về góp vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn
theo Luật doanh nghiệp.
- Nghiên cứu các qui định của pháp luật khác liên quan đến tài sản, đầu tư,
góp vốn thành lập doanh nghiệp, cụ thể Bộ luật dân sự, Luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật hôn nhân gia đình,
Luật đất đai, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Hiệp đinh thương mại Việt
Nam - Mỹ, Hệ thống tài khoản kế toán, pháp luật nước ngoài về công ty trách
nhiệm hữu và tình hình thực tế của Việt Nam.
- Chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu các qui định về góp vốn của công ty
trách nhiệm hữu hạn của Luật doanh nghiệp.
- Đề xuất những nội dung cơ bản để hoàn thiện các qui định về góp vốn theo
Luật doanh nghiệp.

4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Vốn của doanh nghiệp là vấn đề rất rộng, nó được được qui định trong các
văn bản pháp luật khác nhau nhằm điều chỉnh các loại hình doanh nghiệp có
hình thức khác nhau thuộc các thành phần kinh tế. Trong khuôn khổ của một
luận văn thạc sĩ, đề tài được giới hạn trong phạm vi nghiên cứu các qui định về

góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn theo Luật doanh nghiệp.

5. Những đóng góp của luận văn

4


- Chỉ ra mối liên hệ biện chứng giữa kinh tế và pháp luật, cụ thể chỉ ra mối
liên hệ giữa lý thuyết (qui định tài sản góp vốn) với thực tế kinh doanh, đặc
biệt là mối liên hệ giữa tài sản góp vốn với Hệ thống tài khoản kế toán của
pháp luật tài chính Việt Nam và hệ thống kế toán của các nước có nền kinh tế
triển, như Hệ thống kế toán Anh, Mỹ.
- Chỉ ra mối liên hệ giữa tài sản góp vốn của công ty trách nhiệm với các qui
định của các văn bản pháp luật khác có liên quan đến tài sản và góp vốn thành
lập doanh nghiệp.
- Phân tích các qui định về góp vốn của Luật doanh nghiệp hiện hành đưa ra
các giải pháp hoàn thiện.
- Trong quá trình phân tích chỉ ra những điều bất cập trong các văn bản pháp
luật khác.
- Đề cập đến vai trò quan trọng của các thiết chế kinh tế trong hoạt động kinh
tế.

6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn

- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những cơ quan và người
làm công tác hoạch định chính sách phát triển kinh tế, xây dựng pháp luật,
những người làm công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, học tập và giảng dạy
chuyên ngành và không chuyên ngành luật.
- Luận văn có thể được các nhà kinh doanh tham khảo để soạn thảo điều lệ
công ty, các nhà đầu tư tham khảo trong quá trình góp vốn thành lập doanh

nghiệp nói chung, công ty trách nhiệm hữu hạn nói riêng.

7. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu của đề tài các phương pháp luận của duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử luôn được sử dụng, ngoài ra còn sử dụng các

5


phương pháp thu thập thông tin, phân tích, so sánh và qui lạp.
Trong quá trình nghiên cứu có sử dụng tài liệu của các tác giả trong và ngoài
nước, các đạo luật của Việt Nam và của các nước trên thế giới.

8. Kết cấu của luận văn
Chương I : Một số vấn đề lý luận pháp lý về góp vốn thành lập công ty trách
nhiệm hữu hạn.
Chương II : Thực trạng các qui định pháp luật về góp vốn thành lập công ty
trách nhiệm hữu hạn theo luật doanh nghiệp.
Chương m : Nhu cầu và những giải pháp tiếp tục hoàn thiện các qui định pháp
luật về góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn theo Luật doanh
nghiệp.

6


Chương I
MỘT SỐ VẦN ĐỂ LÝ LUẬN PHÁP LÝ VỂ GÓP VỐN
THÀNH LẬP CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN


1.1. Khái quát công ty trách nhiệm hữu hạn.
Từ công ty theo từ điển tiếng Anh "company" được hiểu là tập hợp, nhóm
người, những người cùng làm việc với nhau hoặc liên kiết với nhau vì cùng
chung mục đích, như vậy công ty có những đặc điểm cơ bản:
- Có sự liên kết của hai hay nhiều cá nhân.
- Có cùng mục đích chung.
Từ "company" hiểu theo nghĩa rộng đó là các mối liên hệ trong gia đình,
hiệp hội, đoàn thể v.v... mục đích của những mối liên hệ này rất đa dạng,
mục đích của nó có thể nhằm để giải quyết các vấn đề tình cảm, tương trợ
giúp đỡ, dịch vụ công cộng, hay kinh doanh sinh lời v.v... như vậy mối liên
kết của từ "com pany" được hiểu theo nghĩa rộng được điều chỉnh bởi nhiều
các qui phạm khác nhau, đó có thể là các qui phạm đạo đức, văn hoá, hay
pháp luật.
Khoản 1 Điều 9 Chương I của Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa kỳ
định nghĩa công ty "Công ty là bất kỳ thực thể nào được thành lập hoặc tổ
chức theo luật áp dụng, bất kể hoạt động vì mục đích lợi nhuận hay phi lợi
nhuận, do chính phủ hay tư nhân sở hữu hoặc kiểm soát, gồm công ty, công ty
tín thác, công ty hợp danh, doanh nghiệp một chủ, chi nhánh, liên doanh, hiệp
hội, hoặc tổ chức khác;"[6,Tr'3401
Từ công ty được hiểu dưới khía cạnh điều chỉnh của dân luật nó là m ột tổ
chức được liên k ết bởi hai hay nhiều thành viên vì mục đích kinh doanh sinh
lời, và m ối liên k ế t giữa cắc thành viên được thông qua m ột sự kiện pháp lý.

Sự liên kết của các cá nhân để hình thành công ty dựa trên rất nhiều các yếu

7


tố, sự liên kết có thể dựa trên mức độ tin- cậy, quen biết về nhân thân, hoặc
mối liên kết dựa trên tài sản góp vốn. Chính vì mối liên kết giữa các thành

viên trong công ty dựa trên các yếu tố, tiêu chí khác nhau mà sự kiện pháp lý
về mối liên kết này cụng khác nhau, sự điều chỉnh của pháp luật đối với các
mối liên kết cũng khác nhau. Dưới góc độ pháp lý, người ta chia công ty thành
hai loại, công ty đối nhân và công ty đối vốn.
Công ty đối nhân là loại hình công ty mà sự liên kết dựa trên yếu tố độ tin
cậy về nhân thân giữa các thành viên tham gia, sự góp vốn là thứ yếu, chính vì
sự tham gia chủ yếu dựa trên cơ sở độ tin cậy, yếu tố góp vốn là thứ yếu, do đó
công ty đối nhân không có sự tách bạch về tài sản của công ty và các thành
viên tham gia. Vì không có sự tách bạch về tài sản của công ty và tài sản của
các thành viên tham gia cho nên các thành viên tham gia hoặc ít nhất một
thành viên phải chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài
sản của công ty. Do các thành viên tham gia hoặc ít nhất một thành viên phải
chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản của công ty
cho nên công ty đối nhân không phải là một chủ thể độc lập trong các quan hệ
dân sự và vì điều này nó ít chịu sự qui định bắt buộc của pháp luật.
Công ty mà sự liên kết giữa các thành viên dựa trên yếu tố cơ bản là góp vốn
vào công ty của các thành viên được gọi là công ty đối vốn. Tên gọi "công ty
đối vốn" đã cho thấy mối liên hệ dựa trên cơ sở tình cảm, sự gắn bó giữa các
thành viên là không quan trọng đối với công ty đối vốn, sự liên kết giữa các
thành viên tham gia công ty đối vốn được dựa trên cơ sở góp vốn vào công ty.
Sự tham gia của các thành viên được dựa trên cơ sở tài sản góp vốn cho thấy
có sự tách bạch về tài sản đem góp vốn vào công ty của các thành viên và tài
sản không đem góp vốn của họ, như vậy có sự tách bạch về tài sản của công ty
và tài sản của các thành viên. Vì có sự tách bạch về tài sản của công ty và tài
sản của các thành viên tham gia góp vốn cho nên công ty đối vốn có tài sản
riêng, do đó công ty đối vôn là một chủ thể độc lập trong các quan hệ dân sự.
Công ty đối vốn có tư cách pháp nhân chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ

8


\


và các nghĩa vụ tài sản của công ty bằng chính tài sản của công ty, các thành
viên tham gia chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản
của công ty bằng tài sản góp vốn vào công ty của họ.
Như vậy công ty đối vối có một số đặc điểm cơ bản sau:
- Sự liên kết tham gia của các thành viên được dựa trên cơ sở góp vốn, sự
quen biết là thứ yếu và không quan trọng.
- Các thành viên của công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài sản của công ty bằng phần vốn góp vào công ty, công ty chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản của công ty bằng tài sản
của công ty.
- Công ty đối vốn là một chủ thể độc lập trong quan hệ dân sự, có tư cách pháp
nhân, có sự tách bạch về tài sản của công ty và tài sản của các thành viên tham
gia góp vốn.
- Vì sự tham gia và mối liên kết được dựa trên cơ sở góp vốn, sự quen biết là
thứ yếu, do đó công ty đối vốn dễ dàng thay đổi thành viên công ty.
- Công ty đối vốn có tư cách pháp nhân là chủ thể độc lập trong quan hệ dân
sự, do đó nó chịu sự điều chỉnh của các qui định pháp luật nhiều hơn so với
công ty đối nhân.
Ở Việt Nam và hầu hết các nước trên thế giới công ty đối vốn được chia làm
hai loại công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Công ty cổ phần (ở một số nước như Anh, Mỹ còn gọi là công ty mở - public
corporation) là công ty đối vốn mà vốn của công ty được chia thành các phần
bằng nhau và công ty cổ phần có thể huy động vốn thông qua việc phát hành
cổ phiếu rộng rãi trong công chúng.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn (ở một số nước như Anh, Mỹ còn gọi là công
ty đóng - close company) là công ty đối vốn không được quyền huy động vốn
thông qua việc phát hành cổ phiếu mà chỉ được chuyển nhượng trong các

thành viên của công ty.
- Bên cạnh đó giữa công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn có

9


một số sự khác biệt về cơ cấu tổ chức.
Điều 26 của Luật Doanh nghiệp qui định:
" 1. Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại doanh nghiệp, trong đó:
a. Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác
của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp;
b. Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng cho người không
phải là thành viên của công ty khi đã chào bán phần vốn đó cho tất cả các
thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty
và các thành viên của công ty không mua hoặc không mua hết;
c. Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá
năm mươi.
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phiếu.
3. Công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh." [14’Tr 27]
Như vậy công tỵ trách nhiệm hữu hạn là loại hình công ty đối vốn, có sự tách
bạch về tài sản của công ty và tài sản của cắc thành viên tham gia góp vốn,
công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân, tham gia các giao dịch dân
sự với tư cấch độc lập và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản n ợ và cắc nghĩa vụ
tài sản khắc của công tỵ bằng tài sản công ty, công ty trách nhiệm hữu hạn
không được ph ắt hành c ổ phiếu.

Qua khái niệm về công ty trách nhiệm hữu hạn cho thấy mặt tích cực và sự
hạn chế của công ty trách nhiệm hữu hạn:
- Vì sự tham gia của các thành viên trong công ty được dựa trên cơ sở góp vốn

mà sự quen biết là không quan trọng do đó công ty trách nhiệm hữu hạn có
khả năng huy động vốn rộng rãi hơn công ty đối nhân, nhiều người không
phải là quen biết, không hiểu biết về kinh doanh vẫn có thể tham gia góp vốn.
- Vì các thành viên chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài
sản góp vốn, do đó sự điều hành của công ty không nhất thiết phải có sự tham
gia, nhất trí của tất cả các thành viên mà chỉ cần một người điều hành, điều

10


này dẫn đến tính chuyên nghiệp của những nhà quản lý, điều hành công ty,
đây là tiền đề tạo ra những nhà doanh nghiệp, quản lý vi mô giỏi, có tính
chuyên nghiệp.
- Vì các thành viên tham gia góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ
của công ty bằng tài sản góp vốn, do đó nó khuyến khích các nhà đẩu tư vào
các lĩnh vực có nhiều rủi ro, phân bổ đều vốn đầu tư trong các lĩnh vực, ngành
nghề và địa phương khác nhau, tạo ra môi trường cạnh tranh trong kinh doanh,
trách được xung hướng độc quyền và mất cân đối về phát triển giữa các ngành,
địa phương.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn là công ty đối vốn nhưng không được phát
hành cổ phiếu, với số lượng thành viên tham gia tối đa là 50, nó phù hợp với
loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, các thành viên góp vốn cũng như các cơ
quan quản lý nhà nước dễ kiểm soát được các hoạt động công ty, đổng thời
mô hình cơ cấu tổ chức của loại hình công ty này rất năng động trong việc
thay đổi phương hướng kinh doanh, điều này rất cần thiết trong tất cả các nền
kinh tế, đặc biệt là những nước có nền kinh tế thị trường mới phát triển như
Việt Nam.
- Tuy nhiên tính chịu trách nhiệm hữu hạn (công ty chỉ chịu trách nhiệm về
các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bằng tài sản của công
ty và các thành viên chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài

sản góp vốn) chỉ đặt ra khi công ty phá sản. Như vậy những đặc tính ưu việt
của công ty trách nhiệm hữu hạn luôn đòi hỏi phải có sự hoàn thiện về pháp
luật phá sản.
Bên cạnh những mặt tích cực công ty trách nhiệm hữu hạn cũng có một số hạn
chế nhất định:
- Vì tính chịu trách nhiệm hữu hạn do đó công ty trách nhiệm hữu hạn tạo rủi
ro cho những chủ nợ và khách hàng thu hổi nợ trong trường hợp công ty bị
phá sản.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn là một chủ thể độc lập, có tài sản độc lập,

11


như vậy những thành viên tham gia công ty phải hai lần nộp thuế so với công
ty đối nhân. Sau khi công ty phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, phân chia
lợi nhuận cho các thành viên, số lợi nhuận mà các thành viên có được sẽ phải
đóng thuế thu nhập cá nhân. Đối với công ty đối nhân công ty không phải nộp
thuế thu nhập doanh nghiệp, các thành viên của công ty chỉ phải nộp thuế thu
nhập cá nhân.
Độc lập tham gia vào các giao dịch kinh tế dân sự, tự chịu trách nhiệm vé các
khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác bằng tài sản công ty là đặc tính cơ bản
của công ty trách nhiệm hữu hạn. Để hiểu rõ về đặc tính này của công ty trách
nhiệm hữu hạn cần hiểu rõ về cơ cấu nguồn vốn và tài sản của công ty trách
nhiệm hữu hạn. Nguồn vốn của một công ty trách nhiệm hữu hạn bao gồm
vốn của chủ sở hữu và vốn vay. Nguồn vốn vay của công ty trách nhiệm hữu
hạn bao giờ cũng được thực hiện sau khi công ty được thành lập. Ở đây chủ
thể của bên vay là công ty (nó được đại diện bởi người điều hành), công ty
chịu trách nhiệm về nguồn vốn vay (trả nợ gốc và lãi vay) này bằng tài sản của
công ty.
Như vậy có sự khác biệt về nguồn vốn của chủ sở hữu và vốn vay:

- Thời điểm hình thành vốn của chủ sở hữu được thực hiện ngay cả trước khi
công ty được thành lập còn vốn vay bao giờ cũng được hình thành sau khi
công ty được thành lập, khi bên cho vay (các tổ chức tín dụng hoặc các chủ
thể khác của pháp luật dân sự) cho công ty vay vốn, để trở thành một bên của
hợp đồng vay công ty phải có tư cách pháp nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn
có tư cách pháp nhân kể từ khi đăng ký kinh doanh (được thành lập). Khi
thành viên tham gia góp vốn vay tiền (hoặc tài sản khác) để góp vốn vào công
ty, thành viên đó chịu trách nhiệm vô hạn về số tiền vay (gồm lãi vay và trả nợ
gốc) và trách nhiệm này không liên đới đến công ty dù vay tiền để góp vốn
vào công ty. Một công ty trách nhiệm hữu hạn vay vốn để đầu tư hay mở rộng
hoạt động kinh doanh công ty có trách nhiệm về khoản nợ bằng tài sản của

12


công ty, các thành viên tham gia công ty chỉ chịu trách nhiệm về tài sản đã
góp vốn vào công ty.
- Chủ thể vay vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn là công ty, còn chủ thể
góp vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn là các thành viên tham gia góp vốn.
Trách nhiệm về nguồn vốn vay của công ty là tài sản của công ty, còn trách
nhiệm của các thành viên tham gia góp vốn là tài sản đã góp vốn vào công ty.
- Tài sản góp vốn có thể là hữu hình hoặc vô hình , nhưng tài sản hình thành
từ nguồn vốn vay của công ty luôn là hữu hình (có hình thái vật chất).
Vốn của chủ sở hữu của công ty gồm vốn điều lệ (vốn hình thành do các
thành viên tham gia góp vốn góp hoặc cam kết góp vốn vào công ty ghi vào
điều lệ công ty) và các quỹ hình thành từ lợi nhuận sau thuế hoặc chênh lệnh
tỷ giá hay chênh lệnh do đánh giá lại tài sản. Như vậy vốn của chủ sở hữu của
công ty trách nhiệm hữu hạn có thể xảy ra các trường hợp sau:
- Có giá trị bằng vốn điều lệ của công ty.
- Có giá trị lớn hơn vốn điểu lệ, đây là trường hợp công ty kinh doanh có lãi

hoặc vốn tăng lên do tài sản góp vốn là ngoại tệ có tỷ giá ngoại tệ tăng, hoặc
tài sản góp vốn đánh giá lại tăng.
- Trường hợp thứ ba là vốn của chủ sở hữu nhỏ hơn vốn điều lệ của công ty,
trường hợp này sảy ra khi công ty kinh doanh thua lỗ hoặc vốn giảm do tài sản
góp vốn là ngoại tệ có tỷ giá ngoại tệ giảm, tài sản góp vốn đánh giá lại giảm.
Tài sản của công ty trách nhiệm hữu hạn được hình thành từ nguồn vốn của
chủ sở hưu và vốn vay theo phương trình sau:
Tài sản công ty TNHH = Vốn chủ sở hữu + Vốn vay
Khi nói công ty trách nhiệm hữu hạn chịu trách nhiệm về các khoản nợ và

13


các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bằng tài sản của công ty, các thành viên
tham gia góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản
khác bằng tài sản góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn. Điều này được
hiểu khi một công ty trách nhiệm hữu hạn vay nợ, công ty có nghĩa vụ trả nợ
vốn vay, nếu chưa đủ trả công ty phải trả bằng vốn của chủ sở hữu và vốn điều
lệ là giới hạn cuối cùng (đây là trường hợp vốn của chủ sở hữu nhỏ hơn vốn
điều lệ của công ty), khi công ty lâm vào tình trạng phá sản đã trả nợ đến hết
vốn điều lệ mà vẫn còn nợ thì các thành viên tham gia góp vốn không phải lấy
tài sản không đem góp vốn của mình để trả nợ cho công ty. Do đó về mặt pháp
lý tài sản góp vốn cần được các qui phạm pháp luật điều chỉnh một cách rõ
ràng và minh bạch, điều này không chỉ là sự cần thiết của các thành viên tham
gia góp vốn mà nó còn ảnh hưởng đến chủ nợ, nhà đầu tư, khác hàng, Nhà
nước.

1.2. Vốn điều lệ và vốn pháp định.

1.2.1. Vốn điều lệ


Vốn điều lệ theo pháp luật của các nước được hiểu là số vốn góp và cam kết
sẽ góp vốn của các thành viên tham gia góp vốn ghi vào điều lệ công ty. Vốn
điều lệ được đưa ra theo ý chí chủ quan của các thành viên tham gia góp vốn,
nhưng ý chí chủ quan này là sự phản ánh khách quan, một công ty cần vốn
điều lộ là bao nhiêu phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, khả năng tài chính
của các thành viên tham gia góp vốn, khả năng vay nợ sau khi công ty được
thành lập. Vì tính chịu trách nhiệm hữu hạn như đã phân tích ở mục 1.1 vốn
điều lệ là giá trị cuối cùng để trả nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty.
Vốn điều lệ có thể nhỏ hơn vốn chủ sở hữu, trong trường hợp này công ty có
khả năng trả nợ. Trường hợp vốn điều lệ lớn hơn vốn chủ sở hữu đây là trường
hợp công ty kinh doanh thua lỗ hoặc trường hợp góp vốn là ngoại tệ có

14


tỷ giá giảm , hoặc tài sản góp vốn (đất đai, nhà xưởng) đánh giá lại giảm. Như
vậy về thực chất vốn điều lệ của công ty giảm, và trường hợp này khả năng trả
nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty là hạn chế, vì tính chịu trách
nhiệm hữu do đó để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, khách hàng, trách những
hành vi không minh bạch, rủi ro cho khách hàng, khi vốn điều lệ của công ty
trách nhiệm hữu hạn giảm cần có sự thay đổi về vốn điều lệ ghi trong điều lệ
công ty.
Một vấn đề được đặt ra đối với những dự án lớn quá trình huy động vốn được
thực hiện trong một thời gian dài và có những trường hợp việc góp vốn tiếp
theo của các thành viên là không cần thiết vì dự án không khả thi do các
nguyên nhân khác nhau, như vậy mặc dù việc góp vốn và cam kết sẽ góp của
các thành viên đã ghi trong điều lệ của công ty, nhưng do những nguyên nhân
khác nhau mà việc cam kết sẽ góp không được thực hiện nhưng được sự thống
nhất ý trí của các thành viên. Nhưng vì tính chất chịu trách nhiệm hữu hạn của

công ty trách nhiệm hữu hạn, do đó để bảo vệ khác hàng, những chủ thể cho
vay, những nhà tài trợ và các thành viên góp vốn, điều lệ công ty phải ghi rõ
tiến trình huy động vốn và trọng trường hợp nào thì tiến trình huy động góp
vốn được huỷ bỏ. Trường hợp số vốn cam kết sẽ góp nhưng không thực hiện
đúng hạn gây ảnh hưởng thiệt hại cho công ty thì thành viên cam kết góp vốn
đó chịu trách nhiệm vô hạn về thiệt hại này.

1.2.2. Vốn pháp định.

Vốn pháp định được hiểu là vốn do Nhà nước qui định tối thiểu phải có để
thành lập doanh nghiệp.
Khoản 3 Điều 3 Luật công ty (Đã được sửa đổi theo Luật sửa đổi một số điều
của Luật công ty ngày 22-6-1994) qui định " Vốn pháp định là mức vốn tối
thiểu phải có để thành lập công ty do pháp luật qui định đối với từng ngành,
nghề"[13,Tr l0]. Khoản 19 Điều 2 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (Đã

15


được sửa đổi, bổ sung ngày 9-6-2000) qui định " Vốn pháp định cửa doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là mức vốn phải có để thành lập doanh
nghiệp được ghi trong điều lệ doanh nghiệp"115,Tr 11]. Từ những qui định trên
vốn pháp định được hiểu là vốn điều lệ phải có để thành lập công ty do pháp
luật qui định. Pháp luật của các nước khác nhau có qui định khác nhau về vốn
Ị)háp định, các nước theo Hệ thông pháp luật án lệ như Anh, Mỹ không qui
ỉịnh vốn pháp định, nhưng các nước theo Hệ thống pháp luật Âu châu lục địa
lố

qui định vốn pháp định, việc qui định vốn pháp định hay không qui định


/ốn pháp định là tuỳ vào từng hoàn cảnh kinh tế, chính trị xã hội, truyền thống
dnh doanh v.v.. .của mỗi nước.
Từ khía cạnh kinh tế ta thấy rằng, một dự án, một doanh nghiệp được thành
ập hoạt động có kết quả, thì vốn là một trong những yếu tố quyết định sự
hành công, ngoài ý tưởng kinh doanh, phải cần những chi phí vật chất nhất
ỉịnh ban đầu để chi trả các chi phí thiết bị máy móc, nhà xưởng, nhân công,
Ìguyên vật liệu cho hoạt động kinh doanh, văn phòng, chi phí quản lý. Những
:hi phí này tuỳ thuộc vào từng dự án, từng thời điểm khác nhau. Dự án thành
ập một nhà máy sản xuất xi mãng nhu cầu góp vốn phải lớn hơn thành lập
nột nhà máy may, hay thành lập một công ty kinh doanh xuất nhập khẩu tài
;ản góp vốn phải nhiều hơn một văn phòng tư vấn ...
Mật khác thực tế đòi sống kinh tế đòi hởi chủ sở hữu tài sản bao giờ cũng có
rách nhiệm đối với tài sản của mình cũng như đối với tài sản của người khác
lay tài sản đi vay. Các nhà tài trợ, chủ nợ hay khác hàng chỉ có thể tin tưởng
'ào doanh nghiệp, khi doanh nghiệp có khả năng tài chính thực sự. Hiện tại
ác tổ chức tín dụng quốc tế cho vay thường có yêu cầu về vốn đối ứng của
hủ đầu tư. Vậy thì việc qui định vốn pháp định tuỳ từng điều kiện là sự cần
hiết.
ở đây có thể có những câu hỏi đặt ra, pháp luật của một số quốc ra phát triển
ihư hệ thống pháp luật Anh, Mỹ không qui định vốn pháp định và những nước
ló có nền kinh tế phát triển vào bậc nhất thế giới, phải chăng sự qui định vốn

16


pháp định là đi ngược lại sự phát triển? Để giải thích vấn đề này, chúng ta phải
có cái nhìn biện chứng mối quan hệ giữa pháp luật với điều kiện kinh tế, văn
hoá xã hội, truyền thống v.v...Các nước Anh, Mỹ là những nước có nền kinh
tế thị trường rất phát triển và để điều chỉnh các quan hệ kinh tế thì ngoài pháp
luật còn có các thiết chế kinh tế khác như: tư vấn, kiểm toán, luật sư, kế toán,

thống kê, ngân hàng, bảo hiểm, truyền thống kinh doanh và uy tín thương
trường. Những thiết chế này phát triển đạt ở mức cao, do đó luật pháp không
cần qui định vốn pháp định là bao nhiêu cho việc thành lập doanh nghiệp. Đây
là công việc của những sáng lập viên. Họ sẽ thông qua tư vấn đầu tư để thành
lập doanh nghiệp phù hợp với số vốn có thể. Theo sự nhìn nhận của pháp luật
Anh, Mỹ con người có khả năng sáng tạo vô tận họ có thể kinh doanh từ ý
tuởng, từ ý tưởng họ có thể vay vốn ngân hàng để thực hiện dự án. Ngân hàng
các nước này cho vay dựa trên cơ sở khả thi của dự án và họ có các chuyên gia
để thẩm định dự án và cơ chế giám sát thực hiện dự án. Ngoài ra, khi một
người muốn quan hệ làm ăn với một công ty họ có thể thông qua luật sư riêng
của mình, tư vấn để biết được thông tin về đối tác, khách hàng, do đó sự gian
dối, lùa đảo được hạn chế. Vậy thì thực chất của vấn đề là các thiết chế kinh
tế, truyền thống kinh doanh, tập quán đã tự qui định hay ít nhất cũng đưa ra
những dự đoán tương đối chính xác về tính khả thi cũng như số vốn cần phải
có để thành lập một doanh nghiệp, do đó pháp luật không cần phải qui định.
Điều này không được hiểu rằng kinh doanh không cần vốn, khách hàng, chủ
nợ tự phải bảo vệ mình trước khi khi kinh doanh.
Trong điều kiện Việt Nam hiện tại hệ thống pháp luật còn nhiều hạn chế, các
thiết chế kinh tế như: kế toán, thống kê, ngân hàng, kiểm toán, tư vấn v.v...
còn chậm phát triển, kinh tế thị trường mới hình thành, các doanh nghiệp dân
doanh chưa có uy tín cũng như kinh nghiệm kinh doanh, vì vậy vai trò của
pháp luật là rất quan trọng. Pháp luật không chỉ đơn thuần là một khung pháp
lý, tạo một môi trường kinh doanh bình đẳng cho mọi người mà còn có tính
định hướng, hướng dẫn, cung cấp thông tin, vừa có tính khái quát nhưng
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỎ! !
trúngtàmthôngti.n: rHƯVlỆN

N-,

V- ic /c


*•


phải cụ thể rõ ràng, dựa vào pháp luật người dân biết được cái gì không được
làm và còn biết có khả năng làm cái gì tốt nhất. Cũng dựa vào pháp luật Nhà
nước không chỉ dùng pháp luật để xét xử những vi phạm pháp luật mà quan
trọng hơn Nhà nước đưa ra pháp luật để điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã
hội và cũng để hạn chế tối đa sự vi phạm pháp luật. Từ những lý giải trên Nhà
nước nên qui định vốn pháp định cho việc thành lập doanh nghiệp, điều này là
phù hợp với sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tất nhiên có
thể đặt ra câu hỏi qui định như vậy là một sự thụt lùi? tạo ra sự phiền hà cho
người dân, bởi vì trước đây vấn đề vốn pháp định đã được qui định. Để lý giải
cho điều này, chúng ta phải có một cách làm khác, vấn đề tuỳ từng thời điểm
kinh doanh và từng ngành nghề khác nhau cần một số vốn ban đầu cho phù
hợp là điều không thể bàn cãi. Do đó những cơ quan quản lỳ vĩ mô tuỳ từng
thời điểm sẽ đưa ra những tiêu chí về vốn pháp định để thành lập công trách
nhiệm hữu cho ngành mình, để tránh sự tuỳ tiện những tiêu chí về vốn pháp
định phải được trình lên Thủ tướng. Thủ tướng ban hành quyết định về vốn
pháp định. Quyết định được công bố công khai, cơ quan đăng ký kinh doanh
buộc phải biết và có nghĩa vụ cung cấp thông tin về vốn cũng như các thông
tin khác đến người dân, người dân có đủ số vốn trên là đủ điều kiện về vốn để
thành lập doanh nghiệp. Như vậy tránh được sự phiền hà của các cơ quan quản
lý nhà nước, vai trò của các thiết chế kinh tế cần được tăng lên và một điều
quan trọng thông qua sự qui định về vốn pháp định và dựa vào kinh nghiệm,
trình độ am hiểu với số vốn đã có, người dàn sẽ có định hướng rõ ràng cho
việc ngành nghề kinh doanh cũng như thành lập công ty mà họ hướng tới.
Như vậy việc qui định vốn pháp định một cách khoa học, phù hợp với thực tế
khách quan là một việc cần làm, nó tạo được môi trường kinh doanh ổn định
bởi vì không những nó là một khung pháp lý tạo sân " chơi" cho những người

kinh doanh trung thực, hạn chế và phần nào loại bỏ những người thành lập
công ty với mục đích giả tạo mà nó còn có tính hướng dẫn, định hướng cho
những nhà kinh doanh, sự ra đời và hoạt động của những công ty có tính khả

18


thi hơn. Mục đích đưa ra vốn pháp định là tạo một môi trường kinh doanh ổn
định, lành mạnh, tạo niềm tin vào các doanh nghiệp dân doanh cũng như cung
cấp những thông tin cho các nhà doanh ngiệp.
Quan điểm này không chỉ phù hợp với nền kinh tế Việt Nam hiện tại, mà
nhiều nước phát triển pháp luật vẫn qui định vốn pháp định cho việc thành lập
công ty, như hệ thống pháp luật Âu châu lục địa.
Thí dụ:
- Cộng hoà liên bang Đức
Công ty cổ phần (AG) 100.000 DM
Công ty TNHH (GmbH) 50.000DM
-Pháp
Công ty cổ phần (SA) 25.000 Fr
Công tyTNHH (SARL) 50.000 Fr
- Italia
Công ty cổ phần (SPA) 1.000.000 Live
Công ty TNHH (SRL) 50.000 Live

1.3. Bảo đảm của Nhà nước đối với việc bỏ vốn đầu tư vào hoạt động kinh
doanh.

Để khuyến khích đầu tư, phát triển kinh tế, các quốc gia đều có chính sách
bảo đảm, khuyên khích và hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế bỏ vốn đầu tư kinh doanh.

Bảo đảm của Nhà nước được hiểu là nghĩa vụ của Nhà nước đối với doanh
nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh từ đầu tư, sản xuất, tiêu thụ sản
phẩm đến phân chia lợi nhuận. Mọi hành vi xâm hại đến tài sản và lợi nhuận
thu được từ hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp là bất hợp pháp.
Tài sản, các quyền tài sản, hoạt động kinh doanh và lợi nhuận của doanh
nghiệp phải được bảo đảm.

19


Khuyên khích đầu tư được hiểu là một số ghĩa vụ của doanh nghiệp đối với
Nhà nước được Nhà nước miễn, giảm, nhằm tăng thêm lợi nhuận cho doanh
nnghiệp, như miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu hay
tiền thuê đất...
Hỗ trợ đầu tư được hiểu là Nhà nước chia xẻ một số các phí tổn về vật chất
hay dịch vụ với doanh nghiệp trong quá trình đầu tư và hoạt động kinh doanh,
nhằm giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp như hỗ trợ lãi
suất, xúc tiến thương mại, đào tạo...
Các nhà doanh nghiệp, đầu tư trước khi bỏ vốn kinh doanh, vấn đề quan tâm
hàng đầu của họ là sự bảo đảm, chính sách khuyên khích, hỗ trợ từ phía Nhà
nước đối với các doanh nghiệp. Trong các chính sách trên thì vấn đề quan
trọng nhất là sự bảo đảm của Nhà nước đối với việc bỏ vốn đầu tư kinh doanh,
vì đây là nghĩa vụ của Nhà nước đối với tài sản, các quyền tài sản và hoạt
động kinh doanh của doanh nghgiệp, tức là sự bảo đảm của của Nhà nước đối
với sự tồn tại của doanh nghiệp.
Điều kiện để một công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập, là các thành
viên có tài sản góp vốn, có cùng sự thiện chí, đồng tình trong việc thành lập
công ty, đồng thời công ty có ý tưởng kinh doanh rõ ràng và điều kiện khách
quan phù hợp với ý tưởng đó. Nhưng để một công ty tồn tại và phát triển thì
ngoài những yếu tố trên, đòi hỏi phải có sự thừa nhận vào bảo hộ của Nhà

nước đối với việc bỏ vốn đầu tư vào hoạt động kinh doanh. Sự thừa nhận và
bảo hộ đối với hoạt động kinh doanh của công ty trách nhiệm hữu hạn tức là
thừa nhận và bảo hộ sự hợp pháp đối với các thành viên góp vốn từ quá trình
góp vốn, hoạt động kinh doanh của công ty, lợi nhuận thu được từ hoạt động
kinh doanh và phân phối lợi nhuận theo tỷ lệ góp vốn mà các thành viên tham
gia góp vốn được hưởng. Mọi hành vi xâm hại đến tài sản, hoạt động kinh
doanh hợp pháp của công ty cũng như lợi nhuận thu được đều được ngăn chặn.
Sự tranh chấp xảy ra (nếu có) giữa công ty với các chủ thể khác về tài sản và
các quyền tài sản, hoạt động kinh doanh và các lợi ích khác từ hoạt động

20


kinh doanh phải được giải quyết thông qua thương lượng và hoà giải dựa trên
các nguyên tắc và qui định của Bộ luật dân sự. Nếu không hoà giải và thương
lượng được các bên có quyền yêu cầu tổ chức trọng tài hay toà án giải quyết
tranh chấp và các phán quyết của trọng tài hay toà án phải được thực thi.
Sự bảo đảm của Nhà nước phải được qui định trong các văn bản pháp luật
của Hệ thông pháp luật. Các qui định này phải rõ ràng, minh bạch, thống nhất
và phải được thực thi. Như vậy sự bảo đảm của Nhà nước đối với việc bỏ vốn
đầu tư kinh doanh đòi hỏi sự minh bạch, rõ ràng, thống nhất trong các qui
định của luật nội dung và thủ tục, đồng thời công tác thực thi và áp dụng pháp
luật được thực hiện nghiêm minh.
Các qui định của Chương II "Chế độ kinh tế"[12,Tr 191Hiến pháp nước cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 thừa nhận và đảm bảo cho sự tồn tại và hoạt
động kinh doanh của các thành phần kinh tế, cụ thể Điều 22 của Hiến pháp
qui định "Các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế phải
thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước, đều bình đẳng trước pháp
luật, vốn và tài sản hợp pháp được Nhà nước bảo hộ."[I2,Tr21]
Những qui định của Hiến pháp 1992 đã được cụ thể hoá trong các văn bản

pháp luật, đặc biệt trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (Đã được sửa
đổi ngày 9-6-2000), Điều 21 của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam qui
định "Trong quá trình đầu tư vào Việt Nam, vốn và tài sản hợp pháp khác của
các nhà đầu tư nước ngoài không bị trưng dụng hoặc tịch thu bằng biện pháp
hành chính, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hoá."
[i5.Tr.23]

£ )ịệ U

2la qui định "Trong trường hợp do thay đổi qui định của pháp

luật Việt Nam làm thiệt hại đến lợi ích của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài và các bên tham gia hợp đồng kinh doanh, thì doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng kinh doanh tiếp tục được hưởng
các ưu đãi đã qui định trong Giấy phép đầu tư và Luật này hoặc Nhà nước giải
quyết thoả đáng theo các biện pháp sau đây:
a) Thay đổi mục tiêu hoạt động của dự án;

21


b) Miễn giảm thuế theo qui định của pháp luật;
c) Thiết hại của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên tham gia
hợp đồng kinh doanh được khấu trừ vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp;
d) Được xem xét bổi thường thoả đáng trong một số trường hợp cần thiết;".
[I5.Tr.2I]

Các qui định trên là sự tiến bộ, nó ngăn chặn sừ tuỳ tiện duy ý chí của các cơ
quan quản lý can thiệp vào các hoạt động kinh doanh bằng các biện pháp hành
chính, tạo sự an tâm đầu tư và kinh doanh cho các nhà doanh nghiệp, nhưng

bên cạnh đó các qui định này vẫn còn có những hạn chế. Các qui định này
không đưa ra được cơ chế để tính thiệt hại xảy ra. Bồi thường các thiệt hại về
vật chất (tài sản, lợi nhuận) nguyên tắc phải bằng vật chất tương ứng, nhưng
các qui định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lại bồi thường bằng
chính sách, khi doanh nghiệp không hoạt động được thì các chính sách không
có giá trị, ý nghĩa, bồi thường bằng vật chất chỉ được xem xét trong một số
trường hợp, nhưng đó là trường hợp nào không được qui định rõ ràng, không
đưa ra cơ chế bồi thường.
Bảo đảm quyền sở hữu là vấn đề đặc biệt quan trọng, để hội nhập quốc tế,
thu hút đầu tư thì vấn đề bảo đảm của nhà nước với quyền sở hữu là cơ bản và
cốt yếu, đây cũng là đồi hỏi khách quan trong quá trình hội nhập của Việt
Nam, đặc biệt khi Việt Nam tham gia vào các tổ chức quốc tế, trong đó có tổ
chức Thương mại quốc tế (WTO).
Khoản 1 Điều 10 Chương IV Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ qui
định một cách rõ ràng, minh bạch về trường hợp tước quyền sở hữu và bồi
thường thiết hại "Không Bên nào được tước quyền sở hữu hoặc quốc hữu hoá
các khoản đầu tư một cách trực tiếp hoặc gián tiếp bằng các biện pháp tương
tự như tước quyền sở hữu hoặc quốc hữu hoá (sau đây được gọi là "tước quyền
sở hữu") trừ trường hợp vì mục đích công cộng, theo phương thức không phân
biệt đối xử, dựa trên việc thanh toán bồi thường nhanh chóng, đầy đủ và có
hiệu quả, phù hợp với thủ tục luật định và các nguyên tắc chung về đối xử

22


được qui định tại Điều 3. Việc bồi thường phải theo đúng giá thị trường của
khoản đầu tư bị tước quyền sở hữu tại thời điểm ngay trước khi việc tước
quyền sở hữu được thực hiện, phải thanh toán không chậm trễ, bao gồm tiền
lãi theo lãi suất thương mại hợp lý tính từ ngày tước quyền sở hữu. Giá đúng
của thị trường không được phản ánh bất cứ sự thay đổi nào về giá trị do hành

động tước quyền sở hữu đã biết trước ngày thực hiện."[6,Tr 471]
Sự bảo đảm của Nhà nước đối với chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn
không chỉ được hiểu trong trường hợp trưng dụng vì mục đích công cộng có
bổi thường, mà còn bảo đảm về tài sản của công ty trong toàn bộ quá trình
hoạt động của công ty cũng như lợi nhuận thu được từ hoạt động của công ty.
Việc bảo đảm của Nhà nước đối với chủ sở hữu công ty về tài sản không chỉ
đơn thuần được hiểu là bảo vệ tiền bạc, nhà của, văn phòng, xưởng máy... của
công ty mà còn phải bảo vệ cả tài sản vô hình. Tên thương mại của hàng hoá,
kiểu dáng công nghiệp của sản phẩm, chuyển giao công nghệ phải được bảo
hộ. Tên thương mại hay kiểu dáng công nghiệp của sản phẩm của công ty bị
"nhái" lại, hành vi này không khác gì sản sản công ty bị xâm hại, đánh cắp.
Bảo đảm của Nhà nước đối với chủ sở hữu công ty còn được hiểu bảo đảm
hoạt động kinh doanh và thị trường của công ty. Bảo đảm cho hoạt động kinh
doanh và thị trường của sản phẩm được hiểu là phải có một môi trường pháp
lý tạo ra sự bình đẳng cho hoạt động của doanh nghiệp, không có sự phân biệt
đối sử đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc các hình thức sở hữu khác
nhau trong cùng một điều kiện hoạt động, không có sự phân biệt, hạn chế
hoặc ngăn cản về thị trường tiêu thụ của sản phẩm cùng loại trong những điều
kiện như nhau. Những chính sách thuế hoặc những biện pháp hạn chế một loại
sản phẩm trên trị trường phải được công bố công khai, dựa trên nguyên tắc
không phân biệt đối xử và có lộ trình hợp lý.
Sự bảo đảm của Nhà nước đối với chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn
còn được hiểu một cách đầy đủ theo đúng bản chất của công ty trách nhiệm
hữu hạn đó là trong tình trạng công ty kinh doanh không thuận lợi và

23


×