Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Phát triển tài chính toàn diện trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.04 KB, 12 trang )

Phát triển tài chính toàn diện trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ 4 tại Việt Nam
1. Đặt vấn đề
CTD (financial inclusion hay financial exclusion) với mục tiêu đưa dịch vụ tài chính
đến cho mọi người dân và doanh nghiệp. Do đó, nhiều tổ chức quốc tế như Liên hợp
quốc, Ngân hàng thế giới (Worldbank) đều cho rằng, tài chính toàn diện (TCTD) là một
trong những giải pháp quan trọng để đạt được mục tiêu phát triển bền vững. Việt Nam
đang ở thời kỳ đầu của cuộc CMCN 4.0 - cuộc cách mạng được xây dựng trên cách mạng
số và đặc trưng bởi Internet. Đây là cơ hội để các quốc gia phát triển nói chung, Việt Nam
nói riêng nắm bắt được công nghệ nhưng đồng thời cũng khiến cho các quốc gia bị tụt
hậu xa hơn nếu không tận dụng tốt những lợi thế và cơ hội. Chính vì vậy, phát triển
TCTD trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 tại Việt Nam là cần thiết để các nhà làm chính
sách có thể đưa ra các giải pháp phù hợp cho sự phát triển TCTD tại Việt Nam.
2. Thực trạng về phát triển tài chính toàn diện trong bối cảnh cuộc cách mạng công
nghệ 4.0 tại Việt Nam
Để phân tích thực trạng về phát triển TCTD, (Honohan, 2008) và (Sarma, 2012) sử
dụng dữ liệu được tổng hợp từ bộ chỉ số của Global Index về nhu cầu từ góc độ cá nhân
liên quan đến việc sử dụng các dịch vụ tài chính để đo lường. Gortsos and Panagiotidis
(2017), phân tích TCTD thông qua ba chỉ tiêu (i) mức độ tiếp cận của các tổ chức tín
dụng, (ii) mức độ sử dụng các sản phẩm và dịch vụ tài chính và (iii) chất lượng của sản
phẩm phẩm dịch vụ. Đồng quan điểm này, Sarma (2016) cũng cho rằng TCTD được thể
hiện thông qua ba khía cạnh là khả năng thâm nhập ngân hàng, tính khả dụng của các
dịch vụ ngân hàng và việc sử dụng hệ thống ngân hàng (Gopalan & Kikuchi, 2016).
Trên cơ sở các nghiên cứu trước, trong bài phân tích này, các tác giả đánh giá thực
trạng phát triển TCTD ở Việt Nam dựa trên các chỉ tiêu như: số tài khoản ngân hàng, số
dịch vụ thanh toán, số lượng điểm thanh toán,.. với bộ dữ liệu được thu thập từ các nguồn
tin cậy như: Worldbank (bộ dữ liệu Global Index 2017), IMF (Financial Access Survey –
FAS) và dữ liệu được công bố của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).


2.1. Thực trạng sử dụng tài khoản ngân hàng


- Về số lượng chi nhánh ngân hàng:
Theo Ravikumar (2012) số lượng ngân hàng thương mại trong một quốc gia tạo cơ
hội cho người dân của quốc gia đó tham gia và sử dụng hệ thông tài chính chính thức.
Lượng chi nhánh của ngân hàng càng nhiều, mức độ bao phủ của hệ thống ngân hàng
càng lớn. Thông thường các chỉ tiêu thường sử dụng để đánh giá là mức độ bao phủ của
chi nhánh ngân hàng và số lượng máy ATM theo dân số và địa lý.
Biểu đồ 1: Phân bổ số lượng chi nhánh ngân hàng tại Việt Nam trong giai đoạn
2014-2018
9.4

4

9.2

3.9

9

3.8

8.8
8.6

3.7

8.4

3.6

8.2


3.5

8

3.4

7.8

3.3

7.6
7.4

2014

2015
Số CN/1,000 km2

2016

2017

2018

3.2

Số CN/100,000 người trưởng thành

Nguồn: IMF data FAS

Trong giai đoạn 2014 - 2018, cả số lượng chi nhánh ngân hàng theo dân cư và theo
địa lý của Việt Nam đều tăng, cụ thể năm 2014 có 8,7 chi nhánh ngân hàng trên 1.000
km2 tương ứng với 3,8 chi nhánh trên 100.000 người trưởng thành, đến năm 2018 con số
này lần lượt là 9,3 và 3,9. Mặc dù vậy, nhìn chung trong giai đoạn này, số lượng chi
nhánh theo dân cư và theo địa lý nước ta tăng không nhiều.
Số lượng máy ATM và thẻ ATM:
Theo Ravikumar (2012), mức độ thâm nhập máy ATM cũng là một trong những chi
tiêu đáng kể để đo lường TCTD. Thâm nhập máy ATM đo lường khả năng tiếp cận của


các chi nhánh ngân hàng cho người dân. Số lượng ngân hàng và máy ATM càng lớn
chứng tỏ việc truy cập càng dễ dàng do có ít khách hàng trên mỗi máy ATM hơn.
Bảng 1: Phân bổ số lượng máy ATM của Việt Nam trong giai đoạn 2014 - 2018
Năm
2014
2015
2016
2017
2018

Số lượng

Số lượng

máy ATM
16,018
16,937
17,472
17,889
18,587


ATM/1,000 km2
51.66
54.62
56.35
57.69
59.94

Số lượng ATM/100,000
người trường thành
22.71
23.76
24.26
24.58
25.28
Nguồn: IMF data FAS

Nhìn vào bảng ta thấy, số lượng máy ATM cũng như phân bổ máy ATM theo địa lý,
theo dân cư và số lượng thẻ ATM của nước ta luôn tăng trong giai đoạn 2014 - 2018.
Trong năm 2014 số máy ATM của cả nước là 16,018 máy đến năm 2018 đã tăng thêm
2,569 máy lên đến 18,587 máy. Nếu so sánh về phân bổ máy ATM theo khu vực địa lý,
vào năm 2014 nếu 1,000 km2 chỉ có 51.66 máy ATM đến năm 2018 con số này lên đến
gần 60 máy. Tương tự phân bổ ATM theo dân cư của nước ta cũng tăng lên trong giai
đoạn phân tích. Trong 4 năm 2014 đến 2018, số lượng ATM phân bổ theo dân cư tăng
2.71 máy ATM/100,000 người trưởng thành từ 22.71 lên đến 25.28. Như vậy, máy ATM
của Việt Nam tăng lên cả về số lượng và phân bổ cho thấy NHNN và các ngân hàng
thương mại hiện đang quan tâm về mức độ của máy ATM để tăng cường khả năng truy
cập đối với khách hàng.
2.2. Thực trạng sử dụng dịch vụ thanh toán
- Thẻ thanh toán:

Trong thời gian gần đây, cùng với sự phát triển của CMCN 4.0, NHNN đang tích
cực thực hiện đề án thanh toán không dùng tiền mặt. Do vậy, số lượng thẻ ghi nợ (thẻ
thanh toán) cũng tăng lên đáng kể. Theo biểu đồ 2, số lượng thẻ thanh của Việt Nam
trong giai đoạn 2014 - 2018 tăng nhẹ, cụ thể: so với năm 2014, số lượng thẻ thanh toán
năm 2018 tăng gần 9% từ mức 73,6 triệu thẻ lên đến 80,2 triệu thẻ.
Biểu đồ 2: Số lượng thẻ thanh toán tại Việt Nam giai đoạn 2014 - 2018


ĐVT: triệu cái
90.00
80.00
70.00
60.00
50.00
40.00
30.00
20.00
10.00
-

2014

2015

2016

2017

2018


Nguồn: IMF data FAS
- Thẻ tín dụng:
Trong bối cảnh của cuộc CMCN 4.0, cùng với sự phát triển của phương tiện thanh
toán là thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng cũng ngày một tăng lên trong giai đoạn gần đây của Việt
Nam.
Biểu đồ 3: Số lượng thẻ tín dụng tại Việt Nam trong giai đoạn 2014-2018
6000000
5000000
4000000
3000000
2000000
1000000
0
2014

2015

2016

2017

2018

Nguồn: IMF data FAS


Theo biểu đồ 3 có thể thấy, số lượng thẻ tín dụng của Việt Nam tăng trong giai đoạn
2014 - 2018. So với 2014, số lượng thẻ tín dụng trong năm 2015 sụt giảm, nhưng phát
triển tăng trở lại từ năm 2016, số lượng thẻ tín dụng năm 2018 tăng hơn 1.5 triệu chiếc so
với năm 2014, tương đương mức tăng 52%. Số lượng thẻ tín dụng tăng đồng nghĩa với

lượng người dân có khả năng truy cập các dịch vụ tài chính cũng tăng. Tuy nhiên, phần
lớn thẻ tín dụng được phát hành tập trung ở các thành phố lớn, nơi người dân có nhu cầu
và dễ dàng sử dụng các dịch vụ tài chính - ngân hàng.
- Điểm thanh toán POS:
Thanh toán qua POS ngày càng trở nên phổ biến ở Việt Nam. Trong giai đoạn 2014
- 2018, số lượng máy POS và giá trị giao dịch POS tăng (biểu đồ 4). Trong giai đoạn
2014 - 2017, số lượng máy POS tăng khá nhanh nhưng tới năm 2018, số lượng máy POS
sụt giảm với 25,690 máy. Tuy nhiên, giá trị giao dịch POS lại không giảm, mà tăng qua
các năm trung bình 30%/năm. So với năm 2014, giá trị giao dịch POS năm 2018 tăng
180%. Điều này cho thấy, lượng người sử dụng POS ngày càng nhiều. Tuy vậy, cũng như
một số dịch vụ tài chính chính thức khác, máy POS và người sử dụng POS thường tập
trung ở các thành phố lớn và phát triển.
Biểu đồ 4: Số lượng máy POS và giá trị giao dịch POS tại Việt Nam giai đoạn
2014 - 2018
300,000

500,000
450,000

250,000

400,000
350,000

200,000

300,000
150,000

250,000

200,000

100,000

150,000
100,000

50,000

50,000
-

2014

2015
Số lượng máy POS

2016

2017

2018

-

Giá trị giao dịch (tỷ đồng)

Nguồn: NHNN



2.3. Các kênh phân phối khác
Bên cạnh các kênh cung ứng dịch vụ truyền thống như thanh toán, cho vay, chuyển
tiền, trong bối cảnh công nghệ thông tin đang phát triển như vũ bão và CMCN 4.0 đang
tồn tại, các tổ chức tín dụng đã phát triển và cung ứng thêm các sản phẩm mới như dịch
vụ 24/24, dịch vụ ngân hàng trực tuyến, thực hiện chat online, các giao dịch thông qua
Internet banking. Đặc biệt, với sự ra đời và phát triển của điện thoại thông minh (smart
phone), các tổ chức tín dụng đã nắm bắt được nhu cầu của khách hàng trong việc thay đổi
thói quen như tra cứu thông tin, mua sắm, giao dịch ngân hàng qua điện thoại nên đã triển
khai ngân hàng số cũng như cung ứng nhiều sản phẩm, kênh phân phối mới phù hợp với
nhu cầu người dùng như Internet banking, Mobile banking, Table banking, ví điện tử,
mạng xã hội,…
Chính việc thay thế kênh bán hàng này đã làm thay đổi tư duy của các nhà quản trị
ngân hàng từ ngân hàng truyền thống sang “ngân hàng số - digital banking - “ngân hàng
không giấy”. Nếu trước đây việc mở rộng quy mô ngân hàng được thực hiện thông qua
mở rộng mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch để tăng sức cạnh tranh thì nay các ngân
hàng cần phải đầu tư nhiều hơn nữa vào dịch vụ công nghệ để thỏa mãn nhu cầu của
khách hàng.
3. Đánh giá việc phát triển tài chính toàn diện tại Việt Nam hiện nay
3.1. Các kết quả đạt được
Thông qua phân tích thực trạng vể TCTD ở Việt Nam trong bối cảnh CMCN 4.0
hiện nay có thể thấy, nước ta đã đạt được một số kết quả sau:
Một là, lượng phân bổ chi nhánh ngân hàng cũng như máy ATM ngày càng nhiều,
tạo điều kiện tiếp cận dịch vụ cho người dân ngày càng gia tăng. Ngoài ra, trong những
năm gần đây, trong bối cảnh công nghệ số - CMCN 4.0, Chính phủ và NHNN đã áp dụng
và triển khai nhiều biện pháp thanh toán không sử dụng tiền mặt. Vì vậy, lượng thẻ tín
dụng cũng như thẻ ATM và các dịch vụ ngân hàng hiện đại đã tăng lên đáng kể.
Hai là, sản phẩm, dịch vụ ngân hàng ngày càng phong phú, đa dạng, chất lượng
dịch vụ được tăng lên đáng kể đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân. Trong thời
gian vừa qua, các ngân hàng thương mại đã đầu tư đáng kể để nâng cấp cơ sở hạ tầng



ngân hàng, nhất là các dịch vụ liên quan đến công nghệ số. Các dịch vụ Internet banking,
Mobile banking, ví điện tử,… ngày càng được dễ dàng sử dụng thông qua các ứng dụng
trực tiếp trên điện thoại di động, kích thích người sử dụng các dịch vụ này càng cao.
3.2.

Một số hạn chế còn tồn tại
Bên cạnh một số kết quả đạt được như đã phân tích, phát triển TCTD trong bối cảnh

cuộc CMCN 4.0 ở Việt Nam còn tồn tại một số hạn chế như sau:
Thứ nhất, số lượng người dân sử dụng các dịch vụ ngân hàng, mạng lưới chi nhánh
ngân hàng và máy ATM mặc dù có sự tăng lên đáng kể nhưng còn khá thấp so với các
quốc gia trong khu vực.
Thứ hai, CMCN 4.0 lan tỏa và tác động đến tất cả các ngành nghề, khu vực, địa lý
nhưng mức độ tiếp cận dịch ngân hàng không đồng đều, trong đó tỷ lệ người dân nông
thôn, người dân khu vực vùng sâu vùng xa được tiếp cận với dịch vụ ngân hàng còn thấp.
Mặt khác, nhiều người vẫn chưa thể sử dụng các dịch vụ như mong muốn và theo yêu
cầu.
Thứ ba, mặc dù Chính phủ và NHNN đã ban hành nhiều hành động để hướng tới
phát triển TCTD, song các chương trình này còn phân tán, chưa đồng nhất, chưa có một
chiến lược mang tầm quốc gia để phát triển đề án này.
Thứ tư, hạ tầng công nghệ thông nghệ là một trong những yếu tố then chốt để phát
triển TCTD, nhất là TCTD trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0. Tuy nhiên, tại Việt Nam, yếu
tố này vẫn đang từng bước nâng cấp và xây dựng. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ
đến quá trình phát triển TCTD ở Việt Nam.
4. Những thuận lợi, khó khăn đối với phát triển tài chính toàn diện trong bối cảnh
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4
4.1. Thuận lợi
Một là, cơ cấu dân số Việt Nam là cơ cấu dân số trẻ với 69,3% dân số có độ tuổi từ
15 - 64 1. Với cơ cấu dân số này, Việt Nam sẽ dễ dàng tiếp cận các trào lưu mới, trong đó

có các dịch vụ ngân hàng truyền thống, dịch vụ ngân hàng hiện đại và tiếp thu những
kiến thức mới.
1 />

Hai là, Việt Nam là một trong top những quốc gia sử dụng Internet cao trên thế giới
với tỷ lệ khoảng 67% người sử dụng 2. Đây cũng là một trong những thuận lợi để phát
triển TCTD trong bối cảnh CMCN 4.0 với những sản phẩm dịch vụ hiện đại có thể thực
hiện ngay trên tại nhà, tại nơi làm việc thông qua máy tính, điện thoại có kết nối Internet.
Ba là, cùng với sự phát triển của các tổ chức tín dụng, các tổ chức tài chính vi mô,
các công ty công nghệ tài chính (fintech) ngày càng phát triển đã nắm bắt nhu cầu của
người dân và chú trọng đẩy mạnh công nghệ số vào các dịch vụ tài chính.
Bốn là, CMCN 4.0 sẽ giúp hạ tầng các tổ chức tài chính ngày càng phát triển, việc
hướng dẫn, chăm sóc khách hàng từ xa sẽ trở nên dễ dàng và thuận tiện hơn. Từ đó, giúp
cho khách hàng có thể tiếp cận các dịch vụ ngân hàng mọi lúc mọi nơi, tạo điều kiện để
thúc đẩy TCTD.
Năm là, trong bối cảnh CMCN 4.0, chất lượng dân trí sẽ được cải thiện nhờ trí tuệ
nhân tạo, robots. Do đó, không chỉ đội ngũ nhân sự hoạt động trong lĩnh vực tài chính gia
tăng, mà chất lượng dân trí của người dân trên cả nước cũng sẽ được cải thiện. Chất
lượng đội ngũ nhân sự của các tổ chức tài chính gia tăng, góp phần phục vụ, hướng dẫn
người dân tốt hơn trong quá trình tiếp cận các dịch vụ tài chính. Trình độ dân trí cao sẽ
tạo điều kiện cho người dân dễ dàng truy cập và sử dụng các dịch vụ tài chính.
4.2. Các thách thức, khó khăn
Bên cạnh một số thuận lợi như đã phân tích, phát triển TCTD trong bối cảnh CMCN
4.0 còn một số các thách thức và khó khăn mà Chính phủ, NHNN cũng như các tổ chức
tài chính phải quan tâm.
Thứ nhất, về hành lang pháp lý: Trong khuôn khổ hệ thống pháp lý hiện tại còn
nhiều điểm chưa theo kịp với sự phát triển trong lĩnh vực tài chính ngân hàng như liên
quan đến thanh toán trực tuyến, tiền ảo, tiền điện tử,..
Thứ hai, về hạ tầng công nghệ thông tin, vấn đề bảo đảm thông tin và an ninh mạng
CMCN 4.0 ra đời đồng nghĩa với các giao dịch điện tử xuất hiện ngày càng nhiều với sự

gia tăng của nhiều lỗ hổng bảo mật, tạo điều kiện cho tội phạm công nghệ cao hoạt động.
Trên thực tế, đã xuất hiện những vụ đánh cắp tài khoản của khách hàng từ hacker, tin tặc.
2 />

Đồng thời, NHNN cũng đã ban hành chỉ thị 03/CT-NHNN ngày 10/01/2017 về việc tăng
cường đảm bảo an ninh, an toàn trong thanh toán điện tử và thanh toán thẻ, yêu cầu các
đơn vị liên quan triển khai các biện pháp nhằm đảm bảo an ninh, an toàn trong thanh toán
thẻ và thanh toán trực tuyến. Do đó, bài toán bảo mật của khách hàng đi cùng với sự
thuận tiện phải ngày càng được chú trọng. Đây là một thách thức không nhỏ khi phát
triển TCTD trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0.
Thứ ba, về vấn đề nhân sự: CMCN 4.0 đòi hỏi chất lượng đội ngũ nhân sự phải
được cải thiện. Đi cùng với đó, sẽ là yêu cầu bức thiết để nâng cao chất lượng đội ngũ
nhân sự nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng và từng bước mở rộng mức độ
tiếp cận dịch vụ tài chính đối với các khách hàng.
Thứ tư, về vấn đề phát triển không đồng đều. Không chỉ ở Việt Nam mà ở một số
quốc gia khác trên thế giới cũng gặp phải hiện tượng chênh lệch khoảng cách giữa nông
thôn và thành thị, giữa các vùng miền trong cả nước. Người dân vùng nông thôn, vùng
sâu, vùng xa thường khó và ngại tiếp cận các dịch vụ tài chính do thói quen, trình độ văn
hóa và số lượng ngân hàng hiện hữu trong các khu vực này. Do đó, để phát triển TCTD
trong bối cảnh CMCN 4.0 cần phải quan tâm hơn nữa vấn đề chênh lệch vùng miền.
4.3. Giải pháp phát triển tài chính toàn diện tại Việt Nam trong thời gian tới
Trên cơ sở phân tích về những thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển TCTD
trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam hiện nay, nhóm tác giả đề xuất
một số giải pháp và kiến nghị sau:
- Đối với Chính phủ:
Một là, bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp lý trong lĩnh vực ngân hàng phù
hợp với sự phát triển của lĩnh vực tài chính ngân hàng thời đại mới. Theo đó, Chính phủ
cũng như các cơ quan, ban, ngành cần quy định rõ quy định pháp lý trong giao dịch các
chứng từ điện tử, đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán không dùng tiền mặt nhằm bảo vệ
khách hàng khi thực hiện các giao dịch với tổ chức tài chính. Đồng thời, triển khai công

tác tuyên truyền về luật an ninh mạng.
Hai là, Chính phủ cần kết hợp tăng cường đầu tư vào khu vực miền núi, vùng sâu,
vùng xa kết hợp với thực hiện các chính sách thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào khu


vực này như chính sách giảm thuế, chính sách cho thuê đất dài hạn, chính sách hỗ trợ lãi
suất,.. để kích thích sự phát triển kinh tế tại những khu vực này, nâng cao thu nhập cho
người dân, từ đó người dân có cơ hội và điều kiện để sử dụng các dịch vụ của TCTD.
Ba là, nâng cao hiểu biết cũng như kỹ năng tài chính của người dân, từ đó họ mới
hiểu và sử dụng các dịch vụ được cung cấp. Chính phủ cần kết hợp với các cơ quan chức
năng liên quan tăng cường tuyên truyền phổ cập tài chính đến với tất cả người dân trong
tất cả lĩnh vực từ trường học đến công sở đến xóm làng.
Bốn là, hoàn thiện hạ tầng tài chính và hạ tầng thông tin viễn thông. Đây là yếu tố
sống còn để phát triển các dịch vụ tài chính, từ đó kích thích phát triển TCTD. Điều này,
đòi hỏi Chính phủ cần tập trung nguồn lực đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ thông tin
trên cơ sở kết hợp sự đầu tư từ nhiều nguồn như nguồn vốn ngân sách Nhà nước, nguồn
vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các tổ chức phi Chính phủ.
- Đối với các tổ chức tài chính ngân hàng:
Một là, phát triển nhiều hơn nữa các kênh cung cấp dịch vụ như Internet banking,
mobile banking, ngân hàng đại lý để phục vụ nhu cầu cho người dân. Cân nhắc phương
thức mở rộng hoạt động tài chính để phù hợp với nhu cầu của người dân của từng vùng,
đồng thời tối đa hóa hiệu quả hoạt động của các tổ chức này.
Hai là, sáng tạo thêm các dịch vụ tài chính hiện đại để đáp ứng xu hướng CMCN
4.0 như các sản phẩm ví điện tử, thanh toán bằng quét mã QR. Thực tế các sản phẩm này
vẫn còn chưa phổ biến ở các công ty tài chính, ngân hàng.
Ba là, phổ cập kiến thức cơ bản về dịch vụ tài chính dành cho mọi người dân, nhất
là người dân khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo,… bằng các hình thức như tổ chức các
buổi nói chuyện, buổi hội thảo, in banroll, tờ rơi,…
5. Kết luận
Cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra ở giai đoạn đầu, cuộc CMCN lần này sẽ tác động và

lan tỏa đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, có thể nói đây là động cơ để phát triển
TCTD nói riêng và các mặt khác của nền kinh tế nói chung, tuy nhiên cũng là thách thức
không nhỏ nếu các quốc gia không tận dụng tốt cơ hội của mình. Phát triển bền vững


TCTD đòi hỏi sự quan tâm sát sao của Chính phủ, NHNN nhưng cũng cần sự quyết tâm
thực hiện của các tổ chức tài chính và tất cả các thành phần kinh tế.
Tài liệu tham khảo:
Beck, T., Demirgüç-Kunt, A., & Levine, R. (2007). Finance, inequality and the poor.
Journal of economic growth, 12(1), 27-49.
Bruhn, M., & Love, I. (2014). The real impact of improved access to finance:
Evidence from Mexico. The Journal of Finance, 69(3), 1347-1376.
Chibba, M. (2009). Financial inclusion, poverty reduction and the millennium
development goals. The European Journal of Development Research, 21(2), 213-230.
Gopalan, S., & Kikuchi, T. (2016). Financial Inclusion in Asia: Issues and Policy
Concerns: Springer.
Gortsos, C. V., & Panagiotidis, V. (2017). Financial Inclusion: An Overview of Its
Various Dimensions and Its Assistance in Reducing Private Sector Insolvency NonPerforming Loans and Resolving Private Sector Insolvency (pp. 363-393): Springer.
Honohan, P. (2008). Cross-country variation in household access to financial
services. Journal of Banking & Finance, 32(11), 2493-2500.
Kumar, C., & Mishra, S. (2011). Banking outreach and household level access:
Analyzing financial inclusion in India. Paper presented at the 13th Annual Conference on
Money and Finance in the Indian Economy.
Lực, C. V. (2018). Cơ hội, thách thức và giải pháp đối với hệ thống ngân hàng Việt
Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Tạp chí an toàn thông tin.
Park, C.-Y., & Mercado, R. (2015). Financial inclusion, poverty, and income
inequality in developing Asia. Asian Development Bank Economics Working Paper
Series(426).
Ravikumar, T. (2012). Role of banks in financial inclusion process in India.
International journal of Marketing and Technology, 2(2), 81.

Sarma, M. (2012). Index of Financial Inclusion–A measure of financial sector
inclusiveness. Centre for International Trade and Development, School of International
Studies Working Paper Jawaharlal Nehru University. Delhi, India.


Sarma, M., & Pais, J. (2011). Financial inclusion and development. Journal of
international development, 23(5), 613-628.
Schwab, K. (2016). The Fourth Industrial Revolution: what it means, how to
respond. Retrieved from

doi: />
industrial-revolution-what-it-means-and-how-to-respond/
Worldbank.

(2018).

Financial

inclusion:

overview.

Retrieved

from

doi: />Financial inclusion development in the context of the 4th industrial revolution in
Vietnam
Abstract:
Financial inclusion is a topic of concern worldwide, especially in the context of the

4th industrial revolution. The article is based data of the International Monetary Fund
(IMF) and the State Bank of Vietnam (SBV) in the period of 2014-2018 shows that
despite the financial inclusion development in recent years, but the overall of financial
inclusion development is still low. Since then, the article evaluates the achievements and
some limitations in improving finacial inclusion in Vietnam, after, the paper suggests
some recommendations to develop financial inclusion
Key words: financial inclusion, 4th industrial revolution, Vietnam



×