Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

luận văn thạc sĩ chính sách giải quyết việc làm cho người xuất khẩu lao động về nước của tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.75 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
----------------------------

CHU ĐỨC TOÀN

CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO NGƯỜI XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VỀ NƯỚC
CỦA TỈNH HÀ NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
----------------------------

CHU ĐỨC TOÀN

CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO NGƯỜI XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VỀ NƯỚC
CỦA TỈNH HÀ NAM
Chuyên ngành : Quản Lý Kinh Tế
Mã số
: 60.34.04.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS,TS. MAI THANH LAN



HÀ NỘI, NĂM 2017


i
LỜI CAM ĐOAN
Tên đề tài: “Chính sách giải quyết việc làm cho người xuất khẩu lao
động về nước của tỉnh Hà Nam”.
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. Mai Thanh Lan
Học viên thực hiện: Chu Đức Toàn
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
MS: 15BM0410093
Lời cam kết: “Tôi xin cam đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác”.
Hà Nội, ngày….tháng…..năm 2017
Học viên

Chu Đức Toàn


ii
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin chân thành cám ơn tới các thầy cô giáo trường Đại học
Thương Mại đã truyền đạt những kiến thức thiết thực, sâu rộng, thực tế cho
tác giả trong suốt quá trình học tập tại trường, làm cơ sở cho tác giả thực hiện
tốt luận văn này.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Mai Thanh Lan
– người hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng dẫn tác giả trong quá trình
thực hiện luận văn.

Tác giả xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình và quý báu của Ban
lãnh đạo, tập thể cán bộ, công chức phòng Việc làm – An toàn lao động, Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Hà Nam đã cung cấp số liệu thực tế,
giúp đỡ tác giả trong quá trình tìm hiểu thực tế, khảo sát số liệu tại cơ quan để
tác giả hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm của tác giả còn nhiều hạn chế nên
luận văn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tác giả rất mong nhận
được những đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và những nhà nghiên cứu
khác để nội dung được nghiên cứu trong luận văn hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn!


iii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN...................................................................................................ii
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................84


iv
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tổng hợp hết quả GQVL các huyện, thành phố.............................35
giai đoạn 2011-2016........................................................................................35
Bảng 2.2. Số lượng người lao động đi XKLĐ (Giai đoạn 2011-2016 )..........36
Bảng 2.3. Cơ cấu lao động đi XKLĐ (Giai đoạn 2011-2014).........................37
Bảng 2.4. Số liệu XKLĐ chia theo thị trường trọng điểm..............................38
(Giai đoạn 2011-2016).....................................................................................38
Bảng 2.5. Số lượng người người xuất khẩu lao động về nước........................43
(Giai đoạn 2013-2016 )...................................................................................43
Bảng 2.6 Kết quả giải quyết việc làm cho NLĐ sau khi về nước...................47
từ năm 2013-2016...........................................................................................47

Bảng 2.7 Kết quả hỗ trợ lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài giai
đoạn 2011-2016...............................................................................................49


v
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt
CS
DN
XKLĐ
NLĐ
NNL


NN
TB-XH
QLNN
SXKD
XKLĐ

Diễn giải
Chính sách
Doanh nghiệp
Xuất khẩu lao động
Người lao động
Nguồn nhân lực
Lao động
Hợp đồng
Nước ngoài
Thương binh – Xã hội

Quản lý nhà nước
Sản xuất kinh doanh
Xuất khẩu lao động


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, Việt Nam có khoảng hơn 600 nghìn lao động và chuyên gia
làm việc ở hơn 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề các
loại. Số lao động hằng năm đã gửi về nước một lượng ngoại tệ đáng kể, đưa
xuất khẩu lao động ở Việt Nam trở thành một trong các ngành thu được ngoại
tệ lớn cho đất nước.
Nguồn thu nhập cao từ hoạt động xuất khẩu lao động của người lao động
đã góp phần cải thiện đời sống gia đình và thân nhân họ, giúp nhiều gia đình
trở nên khá giả. Nhiều lao động sau khi về nước đã trở thành các nhà đầu tư
và chủ doanh nghiệp, tạo việc làm cho một bộ phận lao động khác, đóng góp
vào sự phát triển và ổn định xã hội. Xuất khẩu lao động còn là công cụ để
chuyển giao công nghệ tiên tiến nước ngoài, giúp đào tạo đội ngũ lao động có
chất lượng, nâng cao tay nghề và rèn luyện tác phong công nghiệp cho người
lao động, đồng thời tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các
nước trên thế giới. Vì vậy xuất khẩu lao động đang được coi là một ngành
kinh tế đối ngoại mạng lại nhiều lợi ích to lớn cả về mặt kinh tế và xã hội, là
giải pháp tạo việc làm quan trọng và mang tính chiến lược của nước ta, vấn đề
này từ lâu đã trở thành chủ trương của Đảng và Nhà nước ta. Với những ưu
thế về kỹ năng, kinh nghiệm, tác phong làm việc công nghiệp và trình độ
ngoại ngữ nhất định, người từng đi xuất khẩu lao động được đánh giá là
nguồn lao động có tay nghề, chất lượng cao, nếu không được tận dụng sẽ là
một sự lãng phí rất lớn. Trong khi đó, doanh nghiệp FDI lại đang rất cần lao
động có tay nghề cao và tác phong công nghiệp.

Hà Nam là một tỉnh nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng, thuộc vùng
chiêm trũng bán sơn địa. Địa dư hành chính có 05 huyện và 01 thành phố, có
116 xã, phường, thị trấn. Dân số trung bình ước năm 2015 là 802.705 người,


2
số người trong độ tuổi lao động là 466.221 chiếm 58,1% so với dân số, dân số
bước vào độ tuổi lao động bình quân hàng năm khoảng 12.200 người, chiếm
1,52% dân số. Đó là điều kiện tốt cùng với kết cấu hạ tầng tương đối hoàn
thiện rất thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh nhà. Công tác giải
quyết việc làm đặc biệt được quan tâm, giai đoạn 2011-2016 toàn tỉnh giải
quyết việc làm cho 100.385 người trong đó có 5.649 người tham gia xuất
khẩu lao động, giải quyết việc làm thêm cho 127.317 người. Tốc độ về số
lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài hàng năm được tăng lên đều đặn.
Nếu như năm 2012 số lượng là 766 người, năm 2013: 947 người, thì trong
năm 2015 tỉnh đưa được 1.029, số lao động đi làm việc ở nước ngoài trong
năm 2016 là 1.015 người . Bốn thị trường trọng điểm xuất khẩu lao động hiện
nay là Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia và Đài Loan. Hầu hết những người đi
xuất khẩu lao động đều là lao động có trình động thấp tham gia vào những
công việc nặng nhọc, lao động giản đơn hay giúp việc gia đình... Số tiền
người lao động gửi về nước cũng khá cao, cải thiện đời sống kinh tế của hộ
gia đình, cơ sở vật chất được đầu tư tốt hơn, điều kiện giáo dục, sức khỏe con
em lao động được đảm bảo hơn, bộ mặt các xã, phường, thị trấn được thay da
đổi thịt như: nhà cửa, đường xã giao thông được xây dựng khang trang, mở
rộng thêm nhiều nghành nghề, phát triển dịch vụ, kinh doanh hàng hóa…
Thế nhưng, vì lo lắng không thể tìm được việc làm phù hợp sau khi về
nước, không ít lao động xuất khẩu sau khi hết thời hạn hợp đồng đã trốn ở lại
nước sở tại để cư trú, lao động bất hợp pháp gây trở ngại rất lớn trong việc
quản lý, sử dụng lao động và chính sách xuất khẩu lao động của Việt Nam với
các nước khác. Điều đó cho thấy, các chính sách đối với người lao động sau

khi kết thúc hợp đồng xuất khẩu người xuất khẩu lao động về nước là hết sức
quan trọng, nhằm phát huy hiệu quả của xuất khẩu lao động đạt được. Vì vậy,
Nhà nước ta nói chung và tỉnh Hà Nam nói riêng đã có rất nhiều chính sách


3
hỗ trợ, khuyến khích đối tượng người lao động sau xuất khẩu như: chính sách
hỗ trợ đầu tư sản xuất kinh doanh, chính sách tín dụng ưu đãi, chính sách tái
hòa nhập cộng đồng, chính sách tạo việc làm… Tuy nhiên đến nay những
chính sách này vẫn chưa mang tính hệ thống, chưa có tính hiệu lực và thực thi
cao. Do đó việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp chính sách quản lý của nhà
nước đối với nguồn nhân lực này sao cho phù hợp với điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay là một yêu cầu cấp thiết đặt ra cho các ngành các cấp. Vì
vậy, tác giả chọn đề tài: "Chính sách giải quyết việc làm cho người xuất
khẩu lao động về nước của tỉnh Hà Nam” làm đề tài nghiên cứu.
2.Tổng quan tình hình nghiên cứu
Xung quanh vấn đề chính sách đối với NLĐ sau khi kết thúc hợp đồng
XKLĐ đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhưng mỗi công trình nghiên cứu ở
những khía cạnh khác nhau. Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đề tài với
khả năng của mình, tác giả đã có cơ hội tiếp cận, tham khảo một số công trình
nghiên cứu có liên quan đến đề tài như sau.
PGS.TS. Mạc Tiến Anh(2006), Phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam
phục vụ XKLĐ trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới, Tạp chí Việc làm
ngoài nước, Cục quản lý lao động ngoài nước, Bộ Lao động - TB và XH số
5/2006.
Nguyễn Lương Trào (2006) “ Mở rộng và nâng cao hiệu quả của việc
đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài” Luận án tiến sĩ,
Trường Đại học Kinh tế quốc dân). Luận án đã nghiên cứu về chính sách hỗ
trợ kinh tế - tài chính đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài
Nguyễn Thị Phương Linh (2004) “ Một số giải pháp đổi mới quản lý tài

chính về XKLĐ Việt Nam theo cơ chế thị trường” Luận án tiến sĩ , Học viện
Ngân hàng). Luận án đã đi sâu nghiên cứu về việc sử dụng hiệu quả ngành
nghề nguồn nhân lực sau XKLĐ


4
Cao Văn Sâm (2006) “ Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực ở
Việt Nam, nhìn từ góc độ xuất khẩu lao động” Tạp chí việc làm ngoài nước.
Luận án đã đi sâu nghiên cứu về chính sách quy hoạch, kế hoạch nguồn nhân
lực sau XKLĐ
Nhìn chung các tác giả của những công trình nghiên cứu trên đã có những
cách tiếp cận khác nhau hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp vấn đề nguồn nhân lực sau
XKLĐ. Đó là những nguồn tài liệu vô cùng quý giá giúp tôi có được những
thông tin cần thiết để kế thừa và phát triển trong luận văn của mình.
Tuy nhiên trong số các công trình đã nghiên cứu trên chưa có công trình
nào nghiên cứu về chính sách giải quyết việc làm cho người xuất khẩu lao
động về nước của tỉnh Hà Nam với tư cách là luận văn thạc sỹ dưới góc độ
giải quyết việc làm. Trong luận văn này tác giả sẽ cố gắng nghiên cứu vấn đề
một cách cơ bản và hệ thống đồng bộ và đề ra giải pháp nhằm hoàn thiện
chính sách đó.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn
thiện chính sách giải quyết việc làm cho người người xuất khẩu lao động về
nước của tỉnh Hà Nam.
Để đạt mục đích trên đề tài có 3 nhiệm vụ nghiên cứu đó là:
- Hệ thống hóa một số lý luận cơ bản về chính sách giải quyết việc làm
cho người người xuất khẩu lao động về nước.
- Phân tích, đánh giá thực trạng các chính sách giải quyết việc làm cho
người xuất khẩu lao động về nước trên địa bàn tỉnh Hà Nam thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị hoàn thiện chính sách giải quyết

việc làm cho người xuất khẩu lao động về nước của tỉnh Hà Nam trong thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


5
 Đối tượng nghiên cứu: Chủ thể nghiên cứu là người xuất khẩu lao
động về nước và nghiên cứu về chính sách giải quyết việc làm cho người xuất
khẩu lao động về nước
 Phạm vi nghiên cứu:
•Về không gian: Luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu tại tỉnh Hà Nam.
•Về thời gian: Thời gian khảo sát thực trạng từ năm 2011 đến năm 2016,
các đề xuất giải pháp định hướng đến năm 2020.
•Về nội dung: Đề tài nghiên cứu vấn đề việc làm của người xuất khẩu
lao động về nước, nghiên cứu về chính sách giải quyết việc làm cho người
xuất khẩu lao động về nước của tỉnh Hà Nam và các nhân tố ảnh hưởng.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Tổng hợp, phân tích, so sánh, khái quát, hệ thống nguồn tài liệu trong
các nghiên cứu trước đây, thu thập thông tin từ các báo, tạp chí kinh tế, các
báo cáo dưới dạng số liệu, bảng biểu, trang web,..
- Phương pháp xử lý và phân tích số liệu: vận dụng phương pháp thống
kê, so sánh, phân tích trên phần mềm excel và tổng hợp thông qua các số liệu
thu thập được.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 3 chương:
Chương I : Một số lý luận cơ bản về chính sách giải quyết việc làm cho
người xuất khẩu lao động về nước
Chương II: Thực trạng chính sách giải quyết việc làm cho người xuất
khẩu lao động về nước của tỉnh Hà Nam
Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện các chính sách giải quyết việc

làm cho người xuất khẩu lao động về nước của tỉnh Hà Nam .

CHƯƠNG I:
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO NGƯỜI XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VỀ NƯỚC


6
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Người xuất khẩu lao động về nước
Tình trạng việc làm của lao động xuất khẩu(LĐXK) hết hạn hợp đồng về
nước cũng bao gồm : thất nghiệp, thiếu việc làm, có việc làm và một nhóm
không có nhu cầu tìm việc làm. Trước khi đi vào nghiên cứu tình hình cụ thể
về tình trạng việc làm của lao động xuất khẩu hết hạn hợp đồng về nước trước
tiên ta cần hiểu thế nào là xuất khẩu lao động, người xuất khẩu lao động về
nước.
Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về xuất khẩu lao động. Theo TS
Nguyễn Thị Phương Linh, “XKLĐ là sự di chuyển quốc tế sức lao động có
chủ đích, có mục đích và được luật pháp cho phép” [ 26, tr 5 ].
PGS.TS Nguyễn Tiệp lại đưa ra khái niệm khác: “Xuất, nhập khẩu trên
thị trường lao động quốc tế là hình thức di chuyển lao động từ thị trường lao
động nước này (hoặc vùng lãnh thổ này) sang một thị trường lao động nước
khác (hoặc vùng lãnh thổ khác) để cung cấp dịch vụ lao động cho nước nhập
khẩu và giải quyết công ăn việc làm cho lao động của nước xuất khẩu” [ 28,
tr 364-365 ].
Theo cách tiếp cận của luận văn thì xuất khẩu lao động được hiểu như
sau:
Xuất khẩu lao động, thực chất là xuất khẩu hàng hóa sức lao động, đó là
sự di chuyển lao động có tổ chức đi làm việc trong thời hạn nhất định ở nước
ngoài thông qua các hiệp định về XKLĐ và các thỏa thuận khác giữa các

quốc gia nhận và gửi lao động.
Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế đồng thời cũng là hoạt
động mang tính xã hội cao.
Xuất khẩu lao động thực chất cũng là việc mua và bán một loại hàng
hóa đặc biệt vượt ra phạm vi biên giới quốc gia


7
Có 3 cách phân loại xuất khẩu lao động theo các tiêu thức:
-Theo cơ cấu người lao động đưa đi xuất khẩu
-Theo nước đưa NLĐ đi XKLĐ
- Theo hình thức đưa NLĐ đi XKLĐ
Căn cứ vào cơ cấu người lao động đưa đi:
Lao động có nghề:
Là loại lao động trước khi ra nước ngoài làm việc đã được đào tạo thành
thạo một loại nghề nào đó và khi số lao động này ra nước ngoài làm việc có
thể bắt tay ngay vào công việc mà không phải bỏ ra thời gian và chi phí để
tiến hành đào tạo nữa.
Lao động không có nghề:
Là loại lao động mà khi ra nước ngoài làm việc chưa được đào tạo một
loại nghề nào cả. Loại lao động này thích hợp với những công việc đơn giản,
không cần trình độ chuyên môn hoặc phía nước ngoài cần phải tiến hành đào
tạo cho mục đích của mình trước khi đưa vào sử dụng.
Căn cứ vào nước đưa NLĐ đi xuất khẩu lao động:
Nhóm các nước phát triển:
Có xu hướng gửi lao động kỹ thuật cao sang các nước đang phát triển để
thu ngoại tệ. Trường hợp này không phải là chảy máu chất xám mà là đầu tư
chất xám có mục đích. Việc đầu tư nhằm một phần thu lại kinh phí đào tạo
cho đội ngũ chuyên gia trong nhiều năm, một phần khác lớn hơn là phát huy
năng lực trình độ đội ngũ chuyên gia, công nhân kỹ thuật bậc cao ở nước

ngoài .v.v... để thu ngoại tệ.
Nhóm các nước đang phát triển:
Có xu hướng gửi lao động bậc trung hoặc bậc thấp, LĐ “dư thừa”, trình
độ tay nghề kỹ thuật thấp sang các nước có nhu cầu để lấy tiền, tăng thêm
ngoại tệ, giảm sức ép về việc làm trong nước, tăng thêm của cải vật chất cho


8
xã hội, giảm chi tiêu trong nước, tăng thêm tri thức kinh nghiệm làm ăn kinh
tế, giảm tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây ra, tạo một lượng LĐ tích cực, học
tập được phong cách LĐ mới do tổ chức ở NN trang bị. Mở rộng quan hệ hiểu
biết lẫn nhau, giới thiệu con người và đất nước mình cho các nước…
Bên cạnh tác động tốt, việc đưa NLĐ đi làm việc ở NN cũng dễ dàng
gánh phải các hậu quả xấu ( không mong muốn) như: Giảm bớt bộ phận LĐ
trẻ khoẻ, có trình độ văn hoá chuyên môn tương đối cao; gây biến động về
sức mua trong nước, có thể mất bí mật kinh tế do NLĐ mang đi bán, dễ để lại
tính xấu ở nước nhận LĐ nếu LĐ sang đó có hành động sai trái như vi phạm
luật pháp, phong tục tập quán… NLĐ còn dễ dàng mang theo những nếp sống
không phù hợp, các bệnh xã hội từ NN về sau thời gian đi làm việc ở NN.
Căn cứ theo hình thức đưa NLĐ đi XKLĐ:
Đây là cách phân loại chủ yếu dành cho các nhà quản lý để biết được
hiệu quả XKLĐ, tuy nhiên nó cũng có giá trị để nhận biết về trình độ lao động
sau XKLĐ, ví dụ hình thức tu nghiệp sinh thì cho thấy đây là đội ngũ lao
động có kỹ năng chuyên sâu còn XKLĐ theo HĐ ký kết bình thường có thể
chỉ là lao động giản đơn, giúp việc gia đình.
 Khái niệm Người xuất khẩu lao động về nước
Người xuất khẩu lao động về nước là những người Việt Nam đi lao động
ở nước ngoài đã hoàn thành thời gian lao động ở nước ngoài ghi trên hợp
đồng lao động.
Người xuất khẩu lao động về nước là một bộ phận của lực lượng lao

động nói chung, theo các cuộc điều tra nghiên cứu đã cho thấy lao động đi
xuất khẩu chủ yếu trong độ tuổi từ 18-25 chiếm tỷ lệ cao( khoảng 70-80%)
do vậy người xuất khẩu lao động về nước chủ yếu trong độ tuổi từ 20-30 tuổi(
chiếm khoảng trên 60%). Như vậy người xuất khẩu lao động về nước là lực
lượng lao động có đầy đủ năng lực, thể chất và tinh thần cần thiết cho hoạt


9
động sản xuất kinh doanh. Đồng thời mỗi năm lực lượng người xuất khẩu lao
động về nước tương đối lớn, đây là một lực lượng lao động có chất lượng khá
rất lãng phí nếu như không có kế hoạch sử dụng sao cho có hiệu quả. Tạo việc
làm cho người xuất khẩu lao động về nước là góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp
chung của cả nước.
Người xuất khẩu lao động về nước được coi là lao động có trình độ tay
nghề nhất định, Việc sử dụng lao động này không chỉ đem lại năng suất lao
động cao mà còn tiết kiệm được chi phí đào tạo. Trước khi đi xuất khẩu lao
động, lao động được qua các lớp đào tạo nghề, ngoại ngữ nhất định, đồng thời
trong thời gian lao động ở nước ngoài( đa phần là các nước có nền sản xuất
tiên tiến hiện đại) có điều kiện để học tập, tiếp cận với những kỹ thuật, công
nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại. Do vậy nếu không có biện pháp và kế hoạch
sử dụng nguồn lao động này sẽ gây ra lãng phí nguồn lực đồng thời làm tăng
tỷ lệ thất nghiệp.
Người xuất khẩu lao động về nước chủ yếu là lao động chính trong gia
đình. Theo số liệu điều tra của các cuộc điều tra cho thấy trung bình mỗi lao
động xuất khẩu về nước trung bình phải nuôi 2-3 người phụ thuộc. Như vậy
nếu người xuất khẩu lao động về nước không có việc làm, đời sống của nhân
dân gặp khó khăn, chất lượng y tế, giáo dục không được quan tâm, gây ảnh
hưởng đến chất lượng lao động trong tương lai tức là ảnh hưởng đến quá trình
sản xuất đầu vào trong tương lai, gây ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội.
Do đó mà công tác tạo việc làm cho người xuất khẩu lao động về nước không

chỉ là nhiệm vụ trước mắt mà còn là nhiệm vụ mang tính chiến lược.
Người xuất khẩu lao động về nước có được tác phong làm việc công
nghiệp, có vốn kiến thức và trình độ ngoại ngữ nhất định. Khi về nước họ có
thể tự bỏ vốn ra mở các cơ sở sản xuất kinh doanh vừa và nhỏ không những
góp phần tạo việc làm cho bản thân và gia đình mà còn góp phần tạo việc làm


10
cho một lực lượng lao động địa phương nhất định. Do vậy chính quyền các
cấp, các ban ngành từ trung ương đến địa phương cần có những chính sách hỗ
trợ, tạo điều kiện cho người xuất khẩu lao động về nước sản xuất kinh doanh,
tạo điều kiện tốt nhất để góp phần phát triển kinh tế gia đình, đồng thời góp
phần phát triển kinh tế đất nước, ổn định xã hội, nâng cao chất lượng cuộc
sống, xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội.
Đóng góp của người lao động sau khi kết thúc hợp đồng xuất khẩu
lao động vào nền kinh tế
Một là, bổ sung vào nguồn lao động có tay nghề, kỹ thuật cho nền kinh tế
Người lao động trước khi được đưa đi làm việc ở nước ngoài đã phải trải
qua khâu xét tuyển, học tiếng, kiểm tra tay nghề và đào tạo những kỹ năng
cần thiết để đáp ứng yêu cầu của đối tác nước ngoài. Đặc biệt với đối tượng
lao động xuất khẩu thông qua hình thức tu nghiệp sinh, thực tập nâng cao tay
nghề thì điều kiện tuyển chọn về trình độ chuyên môn kỹ thuật để đi xuất
khẩu lao động là rất cao. Khi làm việc ở nước ngoài những lao động này
thông qua quá trình giao lưu, học tập kinh nghiệm, làm việc và sinh hoạt tại
nước bản địa đã tự đào tạo mình thêm vốn kiến thức về ngoại ngữ, được tiếp
xúc với máy móc, công nghệ hiện đại, từ đó người lao động có thể tích lũy
thêm kiến thức về kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp chuyên sâu, rèn luyện, nâng
cao tay nghề, thông thạo các thao tác, xử lý tình huống trong vận hành máy
móc đồng thời có thể giao tiếp trong quá trình sinh hoạt và làm việc. Và khi
trở về nước, trong bối cảnh nguồn nhân lực có tay nghề, chuyên môn kỹ thuật

đang là cơn khát cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, thì những người lao động sau khi kết thúc HĐ XKLĐ được
đánh giá là thích hợp với yêu cầu của nhà đầu tư, họ sẽ bổ sung vào nguồn
nhân lực có tay nghề kỹ thuật. Đồng thời người lao động sau XKLĐ làm tăng


11
khả năng cung cấp nguồn nhân lực tham gia XKLĐ, mang lại lợi ích kinh tế
cho đất nước .
Hai là, nhiều lao động sau khi về nước trở thành các nhà đầu tư và chủ
doanh nghiệp, tạo việc làm cho một bộ phận lao động khác, đóng góp vào sự
phát triển và ổn định kinh tế xã hội
Phần lớn người lao động đi làm việc ở nước ngoài đều có thu nhập khá,
sau khi trở về nước họ đều tích cóp được 1 số vốn nhất định, góp phần cải
thiện đời sống gia đình và thân nhân họ, giúp nhiều gia đình thoát được đói
nghèo và có điều kiện phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống. Bên cạnh đó
nhiều lao động sau khi về nước đã biết cách sử dụng số vốn có được và nghề
đã được đào tạo để đầu tư sản xuất kinh doanh như mở xưởng, thành lập
doanh nghiệp, công ty sản xuất. Từ đó thu hút nhiều lao động, tạo công ăn
việc làm cho nhiều người, giúp tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, đóng góp
vào sự phát triển và ổn định kinh tế xã hội.
Ba là, bổ sung cho đất nước những giá trị văn hoá tiến tiến của nước khác
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng hầu hết làm việc
trong các nhà máy, xí nghiệp của các nước có nền công nghiệp phát triển hơn
trong nước, do đó cũng là nơi mà có những giá trị văn hoá tích tụ của một xã
hội có đời sống sinh hoạt công nghiệp tiên tiến, tác phong giao tiếp hiện đại.
Vì vậy, khi kết thúc hợp đồng XKLĐ trở về, nguồn nhân lực này làm việc
trong các nhà máy, xí nghiệp trong nước sẽ phát huy được những giá trị văn
hóa, tác phong làm việc hiện đại tích lũy được trong quá trình làm việc ở
nước ngoài. Từ đó góp phần bổ sung và lan truyền những giá trị văn hóa tiên

tiến này, cải thiện môi trường làm việc cũng như tác phong làm việc trong nước.
Bốn là, góp phần làm tăng cường mối quan hệ hợp tác quốc tế:
Việc sử dụng người lao động sau xuất khẩu lao động chính là một đảm
bảo về quan hệ hợp tác trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực, mặt khác nảy


12
sinh mối quan hệ đối tác trong các lĩnh vực khác như du lịch, giáo dục đào
tạo. Bởi vì hiện nay, các nhà máy, xí nghiệp tại các khu công nghiệp hầu hết
được hình thành do đầu tư từ nước ngoài, yêu cầu về trình độ tay nghề,
chuyên môn kỹ thuật cũng như tác phong làm việc của các công ty này là
tương đối cao, và người lao động sau XKLĐ được đánh giá là hoàn toàn phù
hợp. Vì thế, nguồn nhân lực này luôn được ưu tiên tuyển dụng làm việc trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, từ đó góp phần phát triển quan
hệ hợp tác, giao lưu văn hóa và hội nhập quốc tế.
1.1.2 Chính sách giải quyết việc làm
Khái niệm việc làm
Đứng trên các góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta đã đưa ra rất nhiều
định nghĩa nhằm sáng tỏ khái niệm việc làm. Và ở các quốc gia khác nhau, do
ảnh hưởng của nhiều yếu tố như điều kiện kinh tế, chính trị, luật pháp…
người ta quan niệm về việc làm cũng khác nhau. Chính vì thế, không có một
định nghĩa chung và khái quát nhất về việc làm.
Để hiểu rõ khái niệm và bản chất của việc làm, ta phải liên hệ đến phạm
trù lao động vì giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Lao động là một yếu tố tất yếu không thể thiếu được của con người, nó
là hoạt động cần thiết và gắn chặt với lợi ích của con người. Bản thân cá nhân
mỗi con người trong nền sản xuất xã hội đều chiếm những vị trí nhất định.
Mỗi vị trí mà người lao động chiếm giữ trong hệ thống sản xuất xã hội với tư
cách là một sự kết hợp của các yếu tố khác trong quá trình sản xuất được gọi
là chỗ làm hay việc làm.

Như vậy, việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản xuất
xã hội, phụ thuộc vào các điều kiện hiện có của nền sản xuất. Người lao động
được coi là có việc làm khi chiếm giữ một vị trí nhất định trong hệ thống sản


13
xuất của xã hội. Nhờ có việc làm mà người lao động mới thực hiện được quá
trình lao động tạo ra sản phẩm cho xã hội, cho bản thân.
Như vậy, một hoạt động được coi là việc làm khi có những đặc điểm sau:
Đó là những công việc mà người lao động nhận được tiền công, đó là những
công việc mà người lao động thu lợi nhuận cho bản thân và gia đình, hoạt
động đó phải được pháp luật thừa nhận.
Trên thực tế, việc làm được thừa nhận dưới 3 hình thức:
- Làm công việc để nhận được tiền lương, tiền công hoặc hiện vật cho
công việc đó
- Làm công việc để thu lợi cho bản thân, mà bản thân lại có quyền sử
dụng hoặc quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tư liệu sản xuất để tiến hành
công việc đó
- Làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao
dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó. Hình thức này bao
gồm sản xuất nông nghiệp, hoạt động kinh tế phi nông nghiệp do chủ hộ hoặc
một thành viên khác trong gia đình có quyền sử dụng, sở hữu hoặc quản lý.
Ở Việt Nam, khái niệm việc làm đã được quy định tại Điều 9 của Bộ luật
lao động và các chính sách thiết yếu cho người lao động: “Việc làm là hoạt
động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm.”.
Chính sách giải quyết việc làm
Chính sách việc làm là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các mục tiêu,
các giải pháp và công cụ nhằm sử dụng lực lượng lao động và tạo việc làm
cho lực lượng lao động đó. Nói cách khác, chính sách việc làm là sự thể chế
hóa pháp luật của Nhà nước trên lĩnh vực lao động và việc làm, là hệ thống

các quan điểm, phương hướng mục tiêu và giải pháp giải quyết việc làm cho
người lao động.


14
1.1.3 Chính sách giải quyết việc làm cho người xuất
khẩu lao động về nước
Cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về “ chính sách”.
Thực tế đang tồn tại nhiều quan niệm, ý kiến khác nhau về chính sách như:
Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm: "Chính sách là những
chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện
trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất,
nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường
lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…".
F.Ellis quan niệm: chính sách như là sự kết hợp của đường lối, mục tiêu
và phương pháp mà chính phủ lựa chọn đối với lĩnh vực kinh tế, kể cả các
mục tiêu và phương pháp mà chính phủ lựa chọn đối với lĩnh vực kinh tế, kể
cả các mục tiêu mà chính phủ tìm kiếm và sự lựa chọn các phương pháp để
theo đuổi các mục tiêu đó. Theo quan niệm này, F.Ellis coi chính sách như là
sự kết hợp của đường lối, mục tiêu và các phương pháp mà chính phủ lựa
chọn để tạo ra tăng trưởng. [tr11].
Như vậy, có thể hiểu: chính sách như là cách thức và hành động mà Nhà
nước lựa chọn nhằm tác động vào sự phân bổ các lợi ích của chủ thể hoạt
động trong xã hội hay một lĩnh vực nhất định nào đó (Kinh tế, chính trị, xã
hội, an ninh quốc phòng).
Đối với Việt Nam, chính sách là hệ thống các phương pháp, cách thức,
biện pháp của Nhà nước cụ thể hóa đường lối của Đảng trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội nhằm đạt được các mục tiêu trong mỗi giai đoạn lịch sử.
Chính sách đối với NLĐ sau khi kết thúc hợp đồng xuất khẩu lao động:
Đến nay, khái niệm chính sách đối với NLĐ sau khi kết thúc hợp đồng

xuất khẩu lao động vẫn chưa được chuẩn hoá, chưa có một nhà khoa học hay
tổ chức lý luận nào đưa ra khái niệm chuẩn mực, theo tác giả có thể đưa ra
khái niệm sau đây:


15
Chính sách đối với NLĐ sau khi kết thúc hợp đồng XKLĐ: là tổng thể
các quan điểm, nguyên tắc và biện pháp của nhà nước nhằm tổ chức khai
thác, thu hút và sử dụng người lao động sau khi kết thúc hợp đồng xuất khẩu
lao động ở nước ngoài trở về.
1.2 Nội dung chính sách giải quyết việc làm cho người xuất khẩu lao
động về nước
1.2.1 Chính sách tạo việc làm
Chính sách tạo việc làm là một hệ thống các chính sách có quan hệ tác
động đến phát triển việc làm cho toàn xã hội nói chung và người lao động sau
khi kết thúc HĐ XKLĐ về nước nói riêng.
Chính sách tạo việc với mục đích khuyến khích DN sử dụng đối tượng
lao động này và tạo việc làm cho những người lao động sau khi kết thúc HĐ
XKLĐ về nước.
Chính sách tạo việc làm được thể hiện ở các nội dung hỗ trợ sau:
Thứ nhất, chính sách hỗ trợ đối với DN như: CS khuyến khích tạo môi
trường hỗ trợ việc làm ngày càng tốt hơn, đặc biệt là môi trường về cơ sở hạ
tầng, đầu tư để ưu tiên các tổ chức sản xuất kinh doanh thu hút nhiều lao động
nhất (đặc biệt là đầu tư tại các khu công nghiệp trong nước và các tổ chức sản
xuất kinh doanh trong nước ra thầu khoán ở nước ngoài) thu hút lao động vào
làm việc với công nghệ, thiết bị làm việc phù hợp.
Thứ hai, CS hỗ trợ đối với NLĐ: Cần có CS hỗ trợ nguồn tài chính cho
các hoạt động tạo việc làm, hỗ trợ cho các đối tượng được tạo việc làm, hệ
thống giới thiệu, xúc tiến việc làm để đưa người lao động sau khi trở về nước
được nhanh chóng có cơ hội với việc làm mới. Ngoài ra, cần có chính sách

khuyến khích việc NLĐ tự tạo các nghề mới hay phát triển nghề truyền thống
mà phù hợp với sức lao động của họ như ưu đãi vay vốn, tư vấn SXKD,...
Ngoài ra để trợ giúp người lao động tìm việc làm, Chính phủ cần xây
dựng chương trình liên kết giữa những doanh nghiệp sản xuất trong nước và


16
các doanh nghiệp xuất khẩu lao động (có thể thông qua Hiệp hội xuất khẩu
lao động và các Hiệp hội doanh nghiệp). Chương trình này sẽ đóng vai trò
như chiếc cầu nối giữa nhu cầu lao động của các doanh nghiệp và nguồn cung
cấp lao động từ những lao động hoàn thành hợp đồng về nước. Nhờ đó người
lao động có thể nhanh chóng nắm bắt thông tin về nhu cầu thị trường lao động
và sẽ có nhiều cơ hội nhanh chóng tìm việc làm phù hợp.
1.2.2 Chính sách tín dụng ưu đãi
Chính sách tín dụng ưu đãi là các chính sách của nhà nước về cho vay
vốn đối với NLĐ sau khi kết thúc HĐ XKLĐ để sản xuất kinh doanh trong
quá trình tái hoà nhập và lập nghiệp.
Chính sách này cùng với chính sách hỗ trợ đầu tư sản xuất kinh doanh
đều nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích NLĐ sử dụng hiệu
quả vốn tự có và vốn vay để đầu tư sản xuất kinh doanh tạo công ăn việc làm
và cải thiện đời sống cho họ. Chính sách tín dụng ưu đãi vừa nhằm mục tiêu
chung là tăng trưởng kinh tế đồng thời cũng hướng vào những mục tiêu xã hội
khác như điều tiết sản xuất kinh doanh, ổn định thị trường.
Chính sách tín dụng ưu đãi thường được nhà nước thông qua tổ chức tài
chính mà chủ yếu là hệ thống ngân hàng hay các tổ chức tín dụng thực hiện
như:
- Nhà nước có chính sách tín dụng ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện và
thời hạn vay đối với NLĐ sau khi kết thúc HĐ XKLĐ về nước từ các quỹ hỗ
trợ việc làm quốc gia.
- Nhà nước tạo điều kiện cho NLĐ sau XKLĐ vay ưu đãi để đổi mới

thiết bị, phương tiện, cơ sở vật chất, mở rộng quy mô SXKD .
Mỗi quốc gia tùy theo điều kiện kinh tế để có những chính sách tín dụng
ưu đãi khác nhau cho từng nhóm đối tượng lao động sau khi kết thúc HĐLĐ
về nước được vay vốn ưu đãi theo các mục tiêu khác nhau. Nước ta vừa có


17
chính sách cho các đối tượng sau xuất khẩu lao động ngoài ra còn có chính
sách cho các thị trường lao động và cho các vùng ưu tiên.
1.2.3 Chính sách đào tạo lại:
Chính sách đào tạo lại là một hệ thống các chính sách nhằm bồi dưỡng
lại, trang bị thêm kiến thức và chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động để
họ có thể đảm nhận được một số công việc nhất định. Cũng như chuẩn bị
những kiến thức, kỹ năng, năng lực để họ có thể đảm nhiệm những công việc
ở vị trí cao hơn trong nghề nghiệp của họ.
Đào tạo lại NLĐ sau khi kết thúc HĐ XKLĐ nhằm mục đích hỗ trợ cho
chính sách tạo việc làm; bồi dưỡng thêm kiến thức, kỹ năng cho NLĐ để họ
đáp ứng được những công việc mới; đồng thời trang bị thêm trình độ ngoại
ngữ cho NLĐ trong giai đoạn hội nhập.
Chính sách đào tạo lại để sử dụng hữu hiệu nguồn nhân lực này phải phù
hợp với chuyên môn và nghề nghiệp sẵn có của họ.
Đề ra các chính sách phù hợp trong từng giai đoạn theo định hướng đào
tạo lại để sử dụng lâu dài NLĐ sau khi kết thúc HĐ XKLĐ là sách lược của
mỗi quốc gia. Những chính sách đào tạo lại cho đội ngũ này được thể hiện ở
một số nội dung như:
Nhà nước khuyến khích doanh nghiệp sử dụng LĐ sau XKLĐ và doanh
nghiệp XKLĐ phối hợp trợ giúp người lao động đào tạo lại về tay nghề, kỹ
năng theo đơn hàng việc làm hoặc đào tạo NLĐ theo nhu cầu của chính NLĐ
cần đào tạo hay giúp họ tham gia học tập tạo nghề mới.
Ngoài ra, nhà nước có thể hướng sự bồi dưỡng, đào tạo lại đối với những

lao động chưa chuyên tâm trong các khóa đào tạo trước khi đi XKLĐ, kể cả
các đối tượng khác muốn chuyển hướng việc làm mà sau khi họ về nước thì
nhu cầu xuất hiện, cũng như các đối tượng lao động khác từ nước ngoài trở về
muốn tham gia đóng góp sức lao động cho quê hương, đất nước mà muốn


18
tham dự bồi dưỡng đào tạo một cách hợp lý thì chính sách này cũng là động
lực thu hút sức lao động hữu ích để sử dụng một cách hợp lý và hiệu quả .
1.2.4 Chính sách hỗ trợ đầu tư sản xuất kinh doanh
Chính sách hỗ trợ đầu tư sản xuất kinh doanh đối với NLĐ sau khi kết
thúc HĐ XKLĐ về nước là các chính sách hỗ trợ cho nhóm các đối tượng lao
động nước ngoài trở về khi họ có nhu cầu sử dụng nghề chuyên môn trong lập
nghiệp; sử dụng vốn sẵn có và nhu cầu tăng nguồn để tiếp tục đầu tư theo
định hướng sản xuất, kinh doanh; mua sắm thiết bị để mở rộng sản xuất, áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh, tạo nghề mới theo
nhu cầu xã hội và quốc tế.
Chính sách hỗ trợ đầu tư sản xuất kinh doanh cho NLĐ sau khi kết thúc
HĐ XKLĐ nhằm mục đích khuyến khích NLĐ sử dụng đồng vốn sẵn có của
họ một cách hữu ích, tận dụng trình độ chuyên môn, kỹ năng, tay nghề với
các định hướng của nhà nước để họ có thể phát triển sản xuất kinh doanh tăng
thu nhập và ổn định cuộc sống.
Chính sách hỗ trợ đầu tư sản xuất kinh doanh để sử dụng nguồn nhân lực
sau xuất khẩu lao động thường được thể hiện ở việc hỗ trợ về tài chính hay
ưu tiên hỗ trợ về đất đai, nhà cửa trong sản xuất (cho thuê ưu đãi, mua bán ưu
tiên).
Đối với những lao động có mong muốn tự tạo việc làm thông qua thành
lập các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, Chính Phủ cần có chính sách hỗ
trợ về thuế và vốn kinh doanh. Chính phủ có thể thiết lập một Quỹ hỗ trợ từ
nguồn đóng góp của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động (do đây là những

doanh nghiệp đã thu lợi nhuận từ việc kinh doanh sức lao động ) và một phần
kinh phí từ Ngân sách của Nhà nước, giao cho Hiệp hội xuất khẩu lao động
quản lý, nhằm cho người lao động vay vốn với lãi xuất kinh doanh.
1.2.5 Chính sách tái hòa nhập cộng đồng:


×