Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Thực thi chính sách giải quyết việc làm cho người lao động ở huyện kỳ anh tỉnh hà tĩnh trong thời kỳ hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.66 KB, 103 trang )

Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o
tr¦êng §¹i häc Vinh

TRẦN HỒNG QUÂN

THỰC THI CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở HUYỆN KỲ ANH
TỈNH HÀ TĨNH TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Nghệ An, 2015


2

Bộ giáo dục và đào tạo
trƯờng Đại học Vinh

TRN HNG QUN

THC THI CHNH SCH GII QUYT VIC
LM CHO NGI LAO NG HUYN K ANH
TNH H TNH TRONG THI K HI NHP
CHUYấN NGNH: CHNH TR HC
Mã số: 60310201

LUN VN THC S KHOA HC CHNH TR

Ngi hng dn khoa hc:
TS. V TH PHNG Lấ



Ngh An, 2015


3
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ tình cảm chân thành và lòng
biết ơn sâu sắc đến các thầy giáo, cô giáo Khoa giáo dục chính trị, Khoa sau Đại
học của trường Đại học Vinh, xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Phòng Lao động
Thương binh và Xã hội, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, các phòng ban chuyên
môn, đồng chí, đồng nghiệp đã giúp đỡ nhiệt tình để tôi hoàn thành luận văn
này.
Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ này là kết quả của quá trình học tập và
nghiên cứu khoa học tại Khoa giáo dục Chính trị của trường Đại học Vinh. Luận
văn không thể hoàn thành nếu không có sự quan tâm, động viên và cung cấp tài
liệu của các thầy giáo, cô giáo, bạn bè cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của TS.
Vũ Thị Phương Lê người hướng dẫn khoa học đã bỏ ra nhiều công sức để tôi
viết và hoàn thành luận văn.
Dù đã rất cố gắng và nổ lực cao, nhưng Luận văn chắc chắn không thể
tránh khỏi những thiếu sót, kính mong các nhà giáo, nhà khoa học giúp đỡ, góp
ý để đề tài Luận văn được hoàn thiện hơn
Vinh, tháng 9 năm 2015

Trần Hồng Quân


4

MỤC LỤC
Trang phụ bìa.......................................................................................................01



5

BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CSXH

: Chính sách xã hội

NN & PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông thôn
TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

XKLĐ

: Xuất khẩu lao động


6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của con người để đảm bảo
cuộc sống và sự phát triển toàn diện. Quyền lao động và đảm bảo việc làm của
người lao động đã được khẳng định trong Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và đã được cụ thể hoá trong Bộ luật Lao động đầu tiên ở nước
ta. Do đó, việc làm, giải quyết việc làm cho người lao động là một trong những
ưu tiên hàng đầu trong các chính sách phát triển kinh tế – xã hội của nước ta.
Mục tiêu của chính sách việc làm là nhằm giải quyết việc làm cho người lao
động, phát triển thị trường lao động, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị,
tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn,... Thực thi chính sách việc
làm là quá trình đưa chính sách vào thực tiễn cuộc sống nhằm giải quyết thoả
đáng nhu cầu việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ
hội có việc làm; góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, Việt Nam - với nguồn nhân lực
dồi dào và quy mô lao động lớn, giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát
huy nội lực, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng
nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân. Vì vậy, giải quyết
việc làm cho người lao động là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, là
giải pháp hữu hiệu, có tính định hướng lâu dài, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Vì vậy, trong thời gian qua, ở Việt Nam đã có nhiều công trình khoa học
nghiên cứu về việc làm, chính sách giải quyết việc làm, đào tạo nghề và phát
triển thị trường lao động.
Về sách tham khảo có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau:
- Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của TS. Nguyễn Hữu
Dũng, TS. Trần Hữu Trung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.


7
- Thị trường lao động và định hướng nghề cho thanh niên của TS.
Nguyễn Hữu Dũng, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội, 2005.

- Thị trường lao động Việt Nam, thực trạng và giải pháp của Tiến sĩ
Nguyễn Thị Thơm (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
- Lao động, việc làm trong xu thế toàn cầu hoá của TS. Lê Văn Toan,
Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội, 2007.
- Chính sách ứng phó khủng hoảng kinh tế của Việt Nam của Nguyễn
Minh Quang, Đoàn Xuân Thuỷ (đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2010.
- Xu hướng việc làm Việt Nam của Trung tâm Quốc gia Dự báo và Thông
tin thị trường lao động, Cục Việc làm, Bộ Lao động, Thương binh và Xã
hội, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2010.
Các bài báo, tạp chí bàn về vấn đề lao động, việc làm và thực thực thi
chính sách giải quyết việc làm cho người lao động như:
- Lao động việc làm những bước tiến quan trọng của Nguyễn Thị Hằng, Tạp
chí Cộng sản, số 23, tháng 8/2003.
- Chính sách việc làm ở Việt Nam: Thực trạng và định hướng hoàn thiện
của Trần Việt Tiến, Tạp chí Kinh tế phát triển (số 181), 2012.
- Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong quá trình đô thị hoá, công
nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn của TS Nguyễn Hữu Dũng, Tạp chí Lao
động - Xã hội, số 246 - 9/2004.
- Giải quyết việc làm trong thời kỳ hội nhập của Nguyễn Thị Kim Ngân,
Tạp chí Cộng sản, số 12/2007.
- Việc làm và chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam hiện nay của tác
giả Phạm Đức Chính, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 363 - 8/2008.
- Để dạy nghề gắn với giải quyết việc làm của PGS, TS Cao Văn Sâm,
đăng trên Tạp chí Lao động & xã hội số 331 - 3/2008.


8
- Phương hướng giải quyết việc làm cho thanh niên đến năm 2015 của TS
Phạm Hữu Đắc, Tạp chí Lao động & xã hội số 353 - 2/2009.

- Các vấn đề về quan hệ lao động trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh
tế quốc tế của Phạm Lan Hương, Tạp chí Lao động và xã hội, (386), tr. 47-48,
năm 2010.
Các công trình khoa học trên đây đã tiếp cận và giải quyết những khía
cạnh khác nhau của vấn đề lao động, thị trường lao động, việc làm và giải quyết
việc làm cả về lý luận và thực tiễn; đề xuất nhiều giải pháp giải quyết việc làm cho
người lao động ở Việt Nam, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Kỳ Anh là một huyện ven biển phía đông nam tỉnh Hà Tĩnh với diện tích
1.053 km², gồm 1 thị trấn và 32 xã, trong đó khu kinh tế Vũng Áng - đang trở
thành khu kinh tế năng động bậc nhất cả nước, thu hút nhiều dự án đầu tư trong
và ngoài nước. Với tiềm năng dồi dào về nhân lực, được thiên nhiên ban tặng
nhiều nguồn khoáng sản, địa hình đa dạng phong phú nên trong thời kỳ hội
nhập, Kỳ Anh có điều kiện cho phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch sinh thái,
nghỉ dưỡng và đặc biệt là du lịch biển.
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và sự điều hành của chính
quyền địa phương huyện Kỳ Anh, nhiều chính sách giải quyết việc làm cho
người lao động đã đi vào cuộc sống và đã thu được nhiều kết quả khả quan. Bên
cạnh đó, vấn đề lao động và việc thực hiện chính sách việc làm vẫn là một vấn
đề bức xúc, còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Các văn bản, chính sách về lao
động - việc làm ra đời nhưng việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện
chưa đầy đủ, chưa thực sự theo sát thực tiễn, hiệu quả triển khai thực hiện chính
sách còn chậm, lúng túng và thấp. Công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện chính
sách chưa được thường xuyên, việc xử lý vi phạm chưa thực sự nghiêm minh,
ảnh hưởng không tốt đến việc giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao
động.


9
Thực tế trên được phản ánh phần nào trong một số công trình nghiên cứu
sau:

- Nghị quyết Số: 96/2008/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
“Về việc phê chuẩn Đề án đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực lao động kỹ thuật
giai đoạn 2009-2015”, 2008.
-Vấn đề việc làm tại khu Kinh tế Vũng Áng, thực trạng và kiến nghị, của
Thăng Long, Mai Ngọc Anh, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (số 199); tr.64-70,
2014.
- Kết luận của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân tại Hội nghị về đào
tạo và bảo đảm nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu kinh tế Vũng Áng, tỉnh Hà
Tĩnh trong Thông báo số: 248/TB-VPCP của Văn phòng Chính phủ (2010),…
Các công trình nghiên cứu khoa học trên đây đã tiếp cận vấn đề việc làm
và giải quyết việc làm ở nhiều góc độ khác nhau, qua đó cũng gợi mở một số vấn
đề cần tiếp tục nghiên cứu và giải quyết. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có công
trình khoa học nào bàn về vấn đề thực thi chính sách giải quyết việc làm cho
người lao động ở một địa bàn cụ thể và đặc thù như huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà
Tĩnh, đặc biệt là trong thời kỳ mà hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ. Vì
vậy, đề tài được lựa chọn không trùng lặp với các công trình đã công bố.
Do đó, nghiên cứu về vấn đề thực thi chính sách giải quyết việc làm cho
người lao động ở huyện Kỳ Anh trong thời kỳ hội nhập đang là vấn đề thời sự
cấp thiết, có ý nghĩa then chốt trong việc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội
của Huyện, góp phần xây dựng tỉnh Hà Tĩnh giàu đẹp, văn minh và phát triển
bền vững.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc phân tích thực trạng thực thi chính sách giải quyết việc
làm cho người lao động ở huyện Kỳ Anh trong thời gian từ 2008 đến 2014, luận
văn đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách
giải quyết việc làm cho người lao động trong những năm tiếp theo.


10
3. Nhiệm vụ nghiên cứu

+ Làm rõ những cơ sở lý luận của thực thi chính sách giải quyết việc làm
cho người lao động trong thời kỳ hội nhập.
+ Phân tích thực trạng thực thi chính sách giải quyết việc làm cho người lao
động ở huyện Kỳ Anh trong thời kỳ hội nhập.
+ Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính
sách giải quyết việc làm cho người lao động ở huyện Kỳ Anh trong giai đoạn
tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình tổ chức thực thi chính sách giải
quyết việc làm cho người lao động trong thời kỳ hội nhập ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà
Tĩnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề thực thi chính sách giải quyết việc
làm cho người lao động ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh trong thời kỳ hội nhập
quốc tế (nói ngắn gọn là thời kỳ hội nhập) dưới góc độ chính trị học. Những số
liệu được nghiên cứu trong luận văn này chỉ giới hạn trong giai đoạn từ 2008
đến 2014 và định hướng giải pháp đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp khác như: phân
tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp trừu tượng hoá,...
6. Những đóng góp mới của luận văn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham
khảo trong nghiên cứu, học tập và giảng dạy cho sinh viên chuyên ngành Chính
trị; đồng thời cung cấp luận cứ cho các cơ quan, ban, ngành, đơn vị hành chính


11
trên địa bàn huyện Kỳ Anh vận dụng để giải quyết việc làm cho người lao động

ở địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, công trình nghiên cứu của tác giả có liên
quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.


12
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC THI CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
1.1. Việc làm và thực thi chính sách giải quyết việc làm cho người lao động
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động
Có nhiều cách quan niệm khác nhau về việc làm, song xét dưới góc độ
triết học, thực chất của việc làm là sự kết hợp sức lao động của con người với tư
liệu sản xuất. Ở Việt Nam, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao
cấp trước đây, người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa
nhận là người làm việc trong thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh,
tập thể). Theo đó, xã hội không thừa nhận việc làm ở các thành phần kinh tế
khác và cũng không thừa nhận có hiện tượng thiếu việc làm, thất nghiệp…
Khi chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
quan niệm về việc làm của Đảng và Nhà nước đã được thay đổi một cách căn
bản. Theo Bộ luật Lao động ở nước ta hiện nay (2012), tại Điều 9: Việc làm,
giải quyết việc làm đã khẳng định: 1.Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu
nhập mà không bị pháp luật cấm. 2.Nhà nước, người sử dụng lao động và xã hội
có trách nhiệm tham gia giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả
năng lao động đều có cơ hội có việc làm [38, tr.5].
Từ quy định trên, có thể khái quát khái niệm việc làm như sau: việc

làm là những hoạt động lao động sản xuất trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội mang lại thu nhập cho người lao động mà không bị pháp luật cấm.
Theo đó, một hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai tiêu thức:


13
Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và
cho các thành viên trong gia đình. Điều này chỉ rõ tính hữu ích và nhấn mạnh
tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm.
Hai là, hoạt động đó không bị pháp luật ngăn cấm. Điều này chỉ rõ tính
pháp lý của việc làm, quan niệm đã rõ ràng hơn so với quan niệm của Tổ chức
Lao động Quốc tế ILO. Hoạt động có ích không giới hạn về phạm vi, ngành
nghề và hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động ở Việt Nam
trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Người lao động hợp
pháp ngày nay được đặt vào vị trí chủ thể, có quyền tự do hành nghề, tự do liên
kết kinh doanh, tự do tìm kiếm việc làm, tự do thuê mướn người lao động trong
khuôn khổ của pháp luật, không bị phân biệt đối xử dù làm việc trong hay ngoài
khu vực Nhà nước. Điều này khẳng định tính chất pháp lý trong hoạt động của
người lao động thuộc khu vực ngoài Nhà nước và các khu vực phi chính thức.
Hai điều kiện đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện cần và đủ để
một hoạt động lao động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động tạo ra
thu nhập, nhưng vi phạm pháp luật như trộm cắp, buôn bán ma túy, mại dâm...
thì không được thừa nhận là việc làm. Mặt khác, một hoạt động là hợp pháp và
có ích, nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là việc làm.
Nhận thức về việc làm và tạo việc làm đã có sự chuyển biến căn bản. Nếu
như trước đây, quan niệm phổ biến là Nhà nước chịu trách nhiệm tạo việc làm
và bố trí việc làm cho người lao động thì nay đã chuyển sang quan niệm tạo việc
làm là trách nhiệm của Nhà nước, doanh nghiệp, xã hội và của chính bản thân
người lao động. Sự thay đổi này phù hợp với thực tiễn phát triển nền kinh tế thị
trường, có vai trò quan trọng trong quá trình giải phóng sức lao động, thúc đẩy tạo

việc làm và phát triển thị trường lao động ở nước ta.
Khái niệm việc làm có hai đặc trưng cơ bản đó là mang lại thu nhập và
không bị pháp luật cấm là cơ sở để xã hội thừa nhận là việc làm. Điều này thể
hiện như sau: Về mặt pháp lý: việc làm phải hợp pháp, phải chịu sự điều chỉnh


14
của pháp luật về độ tuổi, về những ngành nghề được làm và không được làm. Về
mặt kinh tế: việc làm phải đáp ứng lợi ích kinh tế của người lao động, người
sử dụng lao động và đóng góp cho tăng trưởng và phát triển quốc tế. Về chính
trị: việc làm thể hiện rõ những quan điểm, đường lối lãnh đạo của giai cấp cầm
quyền. Về xã hội: việc làm phải phù hợp với truyền thống văn hoá, đạo đức,
phong tục tập quán, công bằng xã hội. Về mặt cá thể: việc làm thể hiện những tri
thức, năng lực, phẩm chất của người lao động khi tham gia việc làm ở những
ngành cụ thể.
Để hiểu rõ hơn khái niệm việc làm, cần làm sáng rõ khái niệm người có
việc làm, thiếu việc làm và thất nghiệp.
Người có việc làm:
Đối với nước ta, người có việc làm là những người từ đủ 15 tuổi trở lên
đang làm việc trong nhóm dân số hoạt động kinh tế, đang làm việc để nhận tiền
lương (tiền công), hoặc đang làm công việc dịch vụ cho bản thân, gia đình và
các việc sản xuất kinh doanh của hộ gia đình.
Có việc làm là có thu nhập, là đòi hỏi chính đáng của người lao động.
Tạo được việc làm tức là thu hút được nguồn lực lao động vào quá trình sản
xuất, làm ra nhiều của cải cho xã hội, tạo ra tiền đề vật chất để giải quyết tốt mối
quan hệ gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Trong hoạch
định chính sách và chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta luôn quan tâm đến con người, tạo
mọi điều kiện để con người phát triển.
Thiếu việc làm: Thiếu việc làm được hiểu là trạng thái trung gian giữa có
việc làm đầy đủ và thất nghiệp. Đó là tình trạng có việc làm, nhưng do nguyên

nhân khách quan, ngoài ý muốn của người lao động, hoặc phải làm việc không
hết thời gian theo luật định hoặc làm những công việc có thu nhập thấp, không
đủ sống muốn tìm thêm việc làm bổ sung.
Thất nghiệp: Có nhiều quan điểm khác nhau về thất nghiệp, song hiểu
một cách khái quát nhất đó là việc người lao động có khả năng làm việc, mong


15
muốn được làm việc nhưng không được làm việc. Như vậy, thất nghiệp hay còn
gọi là hiện tượng người lao động không có việc làm hay là sự tách rời giữa
người lao động và tư liệu sản xuất.
Những người trong độ tuổi lao động (nam từ 15 - 60; nữ 15 - 55) có khả
năng lao động, có nhu cầu lao động, nhưng không có việc làm hoặc đang tìm
việc làm là những người thất nghiệp.
Giải quyết việc làm cho người lao động:
Nghiên cứu việc làm có quan hệ chặt chẽ với vấn đề giải quyết việc làm.
Khi người lao động có việc làm phù hợp, họ được thực hiện được quyền và
nghĩa vụ của mình, trong đó có quyền cơ bản nhất là quyền được làm việc
nhằm nuôi sống bản thân và gia đình, góp phần xây dựng quê hương đất
nước.
Theo Bộ luật Lao động, người lao động được hiểu là người từ đủ 15 tuổi
trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương
và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động [38; tr.7].
Hiện nay, các chính sách của Nhà nước luôn quan tâm chú trọng đến tạo
việc làm cho người lao động thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, các
chương trình, chính sách hỗ trợ tới tận hộ gia đình, các cá nhân sẵn sàng làm
việc. Chính vì vậy, chính sách Nhà nước đã và đang có những tác động quan
trọng đến giải quyết việc làm cho người lao động như khuyến khích các doanh
nghiệp mở rộng sản xuất như giảm thuế tiền sử dụng đất, thuê nhà xưởng, văn
phòng, hỗ trợ về kết cấu hạ tầng điện, đường, trường, trạm nhằm phục vụ cho

các công trình sản xuất... Chính sách Nhà nước tác động toàn diện đến vấn đề
giải quyết việc làm. Bên cạnh đó, các chương trình, chiến lược phát triển, các
hoạt động cụ thể của các doanh nghiệp tác động trực tiếp đến giải quyết việc làm
cho người lao động như đào tạo nguồn lao động, tuyển dụng, bố trí sắp xếp lao
động phù hợp năng lực và yêu cầu...


16
Trong ý nghĩa đó, giải quyết việc làm còn có một ý nghĩa là tạo thêm
được việc làm mới cho người lao động. Ở đây là tạo thêm việc làm mới cho
người lao động mang tính chất là người lao động đang không có việc làm chứ
không phải là người lao động đang đi làm có thêm việc làm khác nữa. Với quan
niệm như vậy, thì giải quyết việc làm là tạo thêm việc làm mới từ các cơ chế
chính sách của Nhà nước cũng như việc tuyển dụng thêm lao động của các cơ
quan, doanh nghiệp thông qua việc hình thành môi trường cho sự kết hợp các
yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất. Nghĩa là, thông qua cơ chế chính sách
khuyến khích đầu tư, để các chủ thể trong nền kinh tế, các doanh nghiệp mở
rộng hoạt động đầu tư, sản xuất nhằm tạo thêm nơi làm việc mà người lao động
có thể vận dụng sức lao động của mình mà sản xuất của cải cho xã hội.
Với cách tiếp cận như trên, giải quyết việc làm không chỉ là nhiệm vụ
chức năng của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của xã hội, của các cơ quan
doanh nghiệp và ngay bản thân người lao động. Giải quyết việc làm là nhằm tạo
ra việc làm đầy đủ cho người lao động và cao hơn, đó là tạo ra sự tự do trong lựa
chọn việc làm để triệt để giải phóng sức lao động và các nguồn lực của xã hội.
Như vậy, giải quyết việc làm thực chất là một quá trình tác động có chủ
đích của chủ thể xã hội và người lao động nhằm giúp người lao động có việc
làm, việc làm đầy đủ, có thu nhập và phải hướng tới không ngừng nâng cao chất
lượng việc làm, thu nhập cao, ổn định để người lao động có cuộc sống vật chất
và tinh thần ngày càng cao.
1.1.1.2. Thực thi chính sách giải quyết việc làm cho người lao động

Chính sách và chính sách công
Chính sách (policy) là công cụ quan trọng của quản lý. Mọi tổ chức, mọi
cấp quản lý đều phải sử dụng các công cụ quản lý để tác động lên đối tượng
quản lý theo một cách thức nào đó nhằm đạt được mục tiêu mong muốn. Chính
sách là một chương trình hành động do các nhà quản lý đề ra để giải quyết một
vấn đề nào đó. Một chính sách có thể được đề ra và được thực hiện trong phạm


17
vi một doanh nghiệp, một tổ chức, một cộng đồng nhỏ, liên quan đến lợi ích một
số người. Các chính sách khác có thể do Chính phủ, một bộ hay chính quyền cấp
tỉnh đề ra, có liên quan đến lợi ích rộng hơn. Có thể xem, chính sách là một công
cụ quản lý để điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội theo những mục tiêu nhất
định.
Chính sách công (public policy) là những chính sách do Nhà nước đề ra,
có phạm vi tác động rộng lớn đến đời sống chính trị, kinh tế, xã hội trên phạm vi
quốc gia, địa phương, một ngành, một nhóm người hay của cả cộng đồng xã hội.
Nhà nước là chủ thể chủ yếu ban hành các chính sách công, thông qua đó, Nhà
nước thực hiện vai trò quản lý đối với xã hội, do đó, chính sách công luôn phản
ánh bản chất của Nhà nước.
Thực thi chính sách công
Chính sách công thường được xem xét dưới góc độ là một chu trình, bao
gồm các hoạt động diễn ra trong một thời gian dài cần thiết, kể từ khi vấn đề nảy
sinh cho đến khi nó được giải quyết bởi các chủ thể tham gia các quá trình này.
Chu trình của một chính sách công thường bao gồm 4 giai đoạn cơ bản: hoạch
định, thực thi, phân tích, đánh giá.
+ Giai đoạn hoạch định chính sách công: các chính sách được nghiên cứu,
đề xuất để Nhà nước phê chuẩn và ban hành công khai. Quá trình đề xuất chính
sách gồm xác định vấn đề cần ra chính sách, xác định các mục tiêu chính sách
cần đạt được và xác định các giải pháp để đạt được các mục tiêu đó. Trên cơ sở

lựa chọn giữa các phương án chính sách công, Nhà nước phê chuẩn một phương
án tối ưu nhất và ban hành chính sách để đưa vào thực thi.
+ Giai đoạn thực thi chính sách công là giai đoạn thực hiện các mục tiêu
của chính sách công trên thực tế, là giai đoạn vận dụng các giải pháp định trước
để đạt được những mục tiêu của chính sách công. Chính trong giai đoạn này,
chính sách công được biến thành các kết quả thực tế. Giai đoạn này nó cần có sự
tham gia của nhiều nguồn lực. Tuy nhiên, giai đoạn này thường chịu nhiều tác


18
động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, làm ảnh hưởng đến kết quả,
trong đó việc tổ chức thực thi và duy trì chính sách là yếu tố quan trọng hàng
đầu bảo đảm sự thành công của chính sách công.
+ Giai đoạn phân tích chính sách công là giai đoạn sử dụng các biện pháp
chuyên môn để để nghiên cứu, xem xét mục tiêu, nội dung chính sách công đã
đề ra cũng như quá trình thực thi chính sách công, từ đó tìm ra những điểm
mạnh, điểm yếu, những chỗ chưa phù hợp để có kế hoạch điều chỉnh, bổ sung
hoặc đưa ra chính sách mới thích hợp hơn. Tuy giai đoạn này không trực tiếp tạo
ra sản phảm cụ thể, nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc chỉ ra những khuyết
tật của sản phẩm đó, từ đó làm cho chúng hoàn hảo hơn và thích hợp hơn với
môi trường hiện có. Phân tích chính sách công là một phương tiện hữu hiệu góp
phần nâng cao năng lực của Nhà nước trong việc ban hành và thực thi chính
sách công.
+ Giai đoạn đánh giá chính sách công là giai đoạn quan trọng trong chu
trình chính sách. Trong giai đoạn này, người ta tiến hành so sánh các kết quả của
chính sách công với các mục tiêu đề ra, phân tích hiệu quả kinh tế - xã hội đạt
được thông qua việc thực thi chính sách công trên thực tế. Việc đánh giá chính
sách công phải dựa trên một số kỹ thuật đánh giá và các tiêu chí kinh tế - xã hội
nhất định. Từ những kết quả đó, Nhà nước quyết định xem có nên tiếp tục duy
trì chính sách đó nữa không hoặc cần bổ sung, chỉnh sửa như thế nào để có hiệu

quả cao hơn, phù hợp với thực tiễn.
Chính sách công là một quá trình năng động với một mức độ trùng lắp
đáng kể giữa các giai đoạn, ví như phân tích chính sách công là một quá trình
bao trùm toàn bộ chu trình chính sách công. Trong thực tế, không phải lúc nào
chu trình chính sách công cũng được tiến hành theo tuần tự 4 bước đó mà đôi
khi các khâu nó đan xen lẫn nhau. Việc phân tích, đánh giá đôi lúc được thực thi
ngay trong giai đoạn thực thi chính sách để có những bổ sung và điều chỉnh phù
hợp.


19
Trên thực tế, giai đoạn thực thi chính sách công được coi là giai đoạn tổng
hợp của cả bốn giai đoạn của quá trình chính sách (hoạch định, thực thi, phân
tích và đánh giá chính sách). Nhiều chính sách công do các cơ quan Trung ương
đề ra và giao cho địa phương thực hiện, nhưng khi chính sách về đến địa
phương, người ta phải tiến hành nghiên cứu áp dụng nó phù hợp với thực tế của
địa phương. Điều đó có nghĩa là giai đoạn thực thi chính sách lại bao hàm cả nội
dung hoạch định chính sách. Từ đó, có thể giải thích tại sao nhiều chính sách
công của Trung ương lại không được thi hành triệt để. Hơn nữa, trong quá trình
thực hiện chính sách, người ta phải tiến hành đánh giá chính sách để có thể điều
chỉnh kịp thời cho phù hợp với mục tiêu. Vì vậy giai đoạn thực thi chính sách
công lại bao gồm cả những công việc thuộc về phân tích và đánh giá chính sách
công.
Thực thi chính sách giải quyết việc làm cho người lao động là giai đoạn là
vận dụng các giải pháp định trước để đạt được các mục tiêu của chính sách giải
quyết việc làm cho người lao động trên thực tế. Chính trong giai đoạn này, các
chính sách đó được biến thành các kết quả cụ thể. Đây là giai đoạn cần có sự
tham gia của nhiều nguồn lực.
1.1.2. Nội dung hệ thống chính sách giải quyết việc làm
Chính sách về hoàn thiện thể chế phát triển thị trường lao động

Nhu cầu được lao động và có việc làm ổn định là một trong những nhu
cầu hết sức cơ bản của con người. Hiện nay, sự hoàn thiện dần của hệ thống
pháp luật đã và đang góp phần giải phóng sức sản xuất, tạo điều kiện cho thị
trường lao động phát triển. Bộ luật Lao động, sửa đổi bổ sung năm 2002 và
2006, 2012, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Dạy nghề, Luật Người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài; các nghị định, thông tư liên quan tới lao động,
thị trường lao động và việc làm đã hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường lao
động phát triển, tăng cường cơ hội việc làm và hoàn thiện quan hệ lao động. Các


20
chế độ về tiền lương, thu nhập, trợ cấp ngày càng hoàn thiện, góp phần nâng cao
năng suất lao động và cải thiện thu nhập của người lao động.
Chính sách về kết nối cung - cầu lao động
Hệ thống dịch vụ việc làm được phát triển từ năm 1992 qua Chương trình
việc làm quốc gia theo Nghị quyết số 120/1992/NQ-HĐBT ngày 11/4/1992, đã
tạo môi trường pháp lý phát triển dịch vụ kết nối cung - cầu về lao động, tăng
cường cơ hội để người lao động tiếp cận thông tin về việc làm, lựa chọn công
việc. Đặc biệt, với việc sửa Điều 18 của Bộ luật lao động năm 1995, Nghị định
số 19/2005/NĐ-CP ngày 28/5/2005 và Nghị định số 71/2008/NĐ-CP của Chính
phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 19/2005/NĐ-CP đã từng
bước hoàn thiện khung pháp lý cho dịch vụ việc làm. Cùng với các trung tâm
giới thiệu việc làm công lập, các doanh nghiệp cũng được phép hoạt động giới
thiệu việc làm, kể cả sự tham gia của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài.
Chính sách về hỗ trợ lao động di chuyển
Chính phủ đã thực hiện các chương trình hỗ trợ di cư đến các vùng kinh tế
mới; hỗ trợ di dân thực hiện định canh định cư đối với đồng bào dân tộc thiểu số
(Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg); Chương trình di dân gắn với xóa đói giảm
nghèo (thuộc nội dung của Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai

đoạn 2006- 2010). Các chương trình di dân đã đáp ứng một phần về tái phân bổ
nguồn lao động, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế vùng, góp phần ổn định đời
sống cho đồng bào dân tộc thiểu số và bảo vệ an ninh quốc phòng.
Các quy định về cư trú, đăng ký hộ khẩu tại các khu đô thị, các thành phố
lớn ngày càng thông thoáng. Luật Cư trú (năm 2007) đã mở rộng quyền cư trú
của công dân, giúp cho việc di chuyển lao động dễ dàng hơn. Các chính sách
phát triển đô thị, các khu công nghiệp, khu chế xuất, các vùng kinh tế trọng
điểm... cũng có tác động kích thích di chuyển lao động, nhất là di chuyển nông


21
thôn - đô thị, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao điều kiện về việc
làm và thu nhập cho lao động nông thôn.
Chính sách về tín dụng ưu đãi cho sản xuất, kinh doanh
Thông qua việc ban hành gần 20 chính sách tín dụng ưu đãi, sử dụng cơ
chế cho vay tín dụng thông qua các chương trình, tổ chức, hội đoàn thể, Nhà
nước hỗ trợ vốn sản xuất, kinh doanh cho các nhóm yếu thế như lao động nghèo,
lao động nông thôn, lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, lao động
vùng chuyển đổi sử dụng đất nông nghiệp, các tổ chức kinh doanh thu hút nhiều
lao động.
Đối với người lao động: Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách tín dụng
ưu đãi cho người nghèo, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật, thanh niên: hỗ
trợ hộ nghèo vay vốn phát triển sản xuất thông qua Chương trình mục tiêu quốc
gia xoá đói giảm nghèo; Quyết định số 32/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 về việc
cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó
khăn; Quyết định số 126/2008/QĐ-TTg ngày 15/9/2008 về vay vốn phát triển sản
xuất cho hộ dân tộc; Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 phê duyệt
Đề án Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm
nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020.
Bên cạnh đó, nhiều chương trình hỗ trợ khác được triển khai trong thời kỳ

suy giảm kinh tế từ 2007 đến nay nhằm giúp cho nhiều doanh nghiệp, các hộ sản
xuất kinh doanh vượt qua giai đoạn khó khăn, duy trì sản xuất, trả lương và đóng
bảo hiểm xã hội cho người lao động. Quyết định số 30/2009/QĐ-TTg ngày
23/02/2009 về việc hỗ trợ đối với người lao động mất việc làm trong doanh
nghiệp gặp khó khăn do suy giảm kinh tế; Quyết định số 92/2009/QĐ-TTg ngày
08/7/2009 về tín dụng đối với thương nhân hoạt động thương mại tại vùng khó
khăn. Một số biện pháp hỗ trợ khác như: miễn, giảm thuế cho doanh nghiệp, giãn
thời gian nộp một số loại thuế (Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 về
những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo


22
đảm an sinh xã hội. Ngoài ra, còn có các biện pháp hỗ trợ như khuyến khích xuất
khẩu, ứng trước kế hoạch đầu tư ngân sách nhà nước của các năm sau... đã tác
động trực tiếp tới vấn đề duy trì việc làm và thu nhập cho người lao động trong
bối cảnh suy giảm kinh tế, người mất việc làm gia tăng.
Chính sách về đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài
Nhà nước đã hình thành một hệ thống chính sách thúc đẩy việc làm ngoài
nước, xây dựng các chương trình trọn gói từ đào tạo, cho vay vốn để hỗ trợ người
lao động khi về nước, đặc biệt là người lao động thuộc hộ nghèo: Quyết định số
365/2004/QĐ-NHNN về việc cho vay vốn đối với lao động đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng; Quyết định số 143/2007/QĐ-TTg ngày 06/7/2007 về việc
thành lập, quản lý Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước; Quyết định số 71/2009/QĐTTg ngày 29/4/2009 phê duyệt Đề án hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất
khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009 - 2020.
Chính sách về cho phép lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
Nhà nước đã hình thành một hệ thống chính sách thúc đẩy việc làm ngoài
nước, xây dựng các chương trình trọn gói từ đào tạo, cho vay vốn để hỗ trợ người
lao động khi về nước, đặc biệt là người lao động thuộc hộ nghèo: Quyết định số
365/2004/QĐ-NHNN về việc cho vay vốn đối với lao động đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng; Quyết định số 143/2007/QĐ-TTg ngày 06/7/2007 về việc

thành lập, quản lý Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước; Quyết định số 71/2009/QĐTTg ngày 29/4/2009 phê duyệt Đề án hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất
khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009 - 2020.
1.2. Tầm quan trọng của việc thực thi chính sách giải quyết việc làm
cho người lao động trong thời kỳ hội nhập
1.2.1. Đặc điểm và tác động của thời kỳ hội nhập đến giải quyết việc làm
cho nguời lao động
Đặc điểm thời kỳ hội nhập


23
Về ngữ nghĩa, “hội nhập” có nguồn gốc từ “liên kết” (integration) với
nghĩa chung nhất là hành động hoặc quá trình gắn kết các phần tử riêng rẽ với
nhau; hợp chung các bộ phận vào một chỉnh thể (nhất thể, hợp nhất) và kết hợp
các thành tố khác nhau lại (tụ hội, tụ nhóm).
Xét theo nghĩa đó, có thể thấy, từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, quá trình
hội nhập quốc tế đã phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực; diễn ra trên nhiều
cấp độ: song phương, tiểu vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu; thu hút hầu hết
các nước trên thế giới. Mức độ hội nhập cũng ngày một sâu sắc và toàn diện hơn.
Ở cấp độ toàn cầu, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên hợp quốc và các
tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc đã ra đời với số lượng thành viên bao
quát hầu hết các nước trên thế giới. Kể từ năm 1995 tiến trình hội nhập về kinh
tế, thương mại cũng dần dần được thúc đẩy với việc ra đời của Hiệp định chung
về thương mại và thuế quan (GATT), sau đó được nối tiếp bằng Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO).
Ở cấp độ khu vực, quá trình hội nhập bắt đầu từ những thập niên 50 thế kỷ
XX và đặc biệt bùng nổ từ thập niên 90 đến nay. Hàng loạt tổ chức khu vực đã ra
đời trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Tính đến tháng 5-2012, có
511 thỏa thuận mậu dịch khu vực (RTAs) đã được thông báo cho WTO. Bên
cạnh đó, hàng trăm RTAs đang trong quá trình đàm phán. Đặc biệt, tiến trình hội
nhập toàn diện trong Liên minh châu Âu (EU) đã đạt đến mức cao, biến tổ chức

này trở thành một thực thể siêu quốc gia. Các nước trong Cộng đồng các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN) cũng đang tiến hành mở rộng và làm sâu sắc tiến trình
hội nhập khu vực một cách toàn diện hơn thông qua xây dựng Cộng đồng
ASEAN dựa trên ba trụ cột: Cộng đồng chính trị - an ninh, Cộng đồng kinh tế và
Cộng đồng văn hóa - xã hội.
Những khảo sát về hội nhập trên thế giới và ở nước ta thời gian qua cho thấy
có những điểm chung cả về quan niệm lẫn hành động của các chủ thể. Từ góc độ
nhà nước, hội nhập quốc tế là quá trình một quốc gia tham gia các hoạt động chung


24
của cộng đồng quốc tế theo các nguyên tắc, chuẩn mực mà cộng đồng quốc tế thừa
nhận. Hội nhập quốc tế là yêu cầu có tính khách quan, theo đó các quốc gia tham gia
các hoạt động của đời sống quốc tế trên hầu hết các lĩnh vực và ở các mức độ khác
nhau do tác động của quá trình toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng. Nhưng việc lựa
chọn lĩnh vực, mức độ và lộ trình hội nhập lại là quyết định chủ quan của từng quốc
gia phù hợp với lợi ích và hoàn cảnh cụ thể mình.
Về bản chất, có thể coi hội nhập quốc tế chính là một hình thức phát triển
cao của hợp tác quốc tế. Hợp tác quốc tế là quá trình các nước giao lưu hoặc hành
động cùng nhau để đạt được một mục tiêu, lợi ích nào đó. Có thể chia hợp tác
quốc tế thành ba mức độ cơ bản, là: trao đổi, tham vấn; phối hợp chính sách, triển
khai hoạt động phối hợp và thực hiện các dự án chung và xây dựng, áp dụng luật
lệ, chuẩn mực chung. Mức độ thứ ba là điểm trùng giữa hợp tác quốc tế và hội
nhập quốc tế. Nói rộng ra, hội nhập quốc tế bao hàm việc chấp nhận, tham gia
xây dựng và thực hiện các chuẩn mực quốc tế, bao gồm: các thể chế, luật lệ, tập
quán, nguyên tắc và tiêu chuẩn chung được chấp nhận rộng rãi. Các chuẩn mực
này có thể được hình thành từ quá trình hợp tác quốc tế, thông qua những hiệp
định, thỏa thuận giữa các nhà nước hoặc các chuẩn mực, tập quán được đặt ra bởi
các tổ chức, hiệp hội phi chính phủ được những tổ chức, cá nhân trên thế giới
chấp nhận rộng rãi.

Về mục tiêu, hội nhập quốc tế cũng như các hình thức hợp tác quốc tế khác
đều vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Các nước tham gia quá trình này trước hết đều
tìm kiếm lợi ích cho đất nước. Do đó, việc tham gia phải dựa theo một số tiêu chí
với mức độ và lộ trình phù hợp.
Về hình thức, hội nhập quốc tế bao gồm các hoạt động: thúc đẩy quan hệ
song phương dựa trên các chuẩn mực quốc tế chung; gia nhập các tổ chức quốc
tế, các cơ chế hợp tác quốc tế; xây dựng các luật lệ và chuẩn mực; thực hiện các
luật lệ, chuẩn mực, các hoạt động chung ở phạm vi quốc tế và quốc gia.


25
Về lĩnh vực hội nhập, quá trình hội nhập diễn ra trong mọi lĩnh vực, từ
chính trị, kinh tế, quốc phòng - an ninh, đến các lĩnh vực khác. Hội nhập trên các
lĩnh vực này có mối liên hệ hữu cơ mật thiết, đan xen, tác động qua lại lẫn nhau.
Thông thường, kinh tế thường là lĩnh vực đi đầu và là cơ sở vững chắc cho hội
nhập trong các lĩnh vực khác. Đồng thời, hội nhập trong các lĩnh vực khác cũng
tạo ra một môi trường thuận lợi cho hội nhập kinh tế.
Về chủ thể, cả nhà nước và các chủ thể phi nhà nước đều tham gia quá
trình hội nhập, tạo nên một sự đan xen nhiều cấp độ, tầng nấc trong hội nhập
quốc tế. Trong các lĩnh vực chính trị và quốc phòng - an ninh, chủ thể chính là
nhà nước và các lực lượng chính trị. Tuy nhiên, trong kinh tế, văn hóa, xã hội và
nhiều lĩnh vực khác, vai trò của các chủ thể phi nhà nước, như doanh nghiệp, các
tổ chức xã hội, đoàn thể và người dân là rất quan trọng.
Trong thời đại này mới này không thể có một quốc gia nào lại tồn tại được
nếu không có sự liên kết với thế giới bên ngoài và cũng không có quốc gia nào có
nền kinh tế phát triển mà lại không có sự liên kết hợp tác với các quốc gia khác.
Chính vì thế, trong thời đại mới này hội nhập kinh tế là tất yếu khách quan.
Ảnh hưởng của quá trình hội nhập đến vấn đề việc làm
Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế là sự mở cửa nền kinh tế, đón nhận
những luồng gió mới từ bên ngoài vào, kích thích các yếu tố, điều kiện trong

nước để phát triển kinh tế. Vì vậy nó có ảnh hưởng nhất định đến các vấn đề kinh
tế - xã hội đặc biệt là vấn đề việc làm. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình xoá
bỏ từng bước, từng phần của rào cản về thương mại và đầu tư giữa các quốc gia,
vì vậy quá trình hội nhập đã làm cho một đất nước có tiềm năng về tài nguyên
thiên nhiên và sự bình ổn về chính trị trở thành địa chỉ đầu tư đáng tin cậy của
các nước phát triển trên thế giới vào các lĩnh vực công nghệ cao hay là các khu
công nghiệp góp phần tạo thêm việc làm cho người lao động. Hội nhập kinh tế
quốc tế tạo điều kiện mở rộng thị trường ngoài nước, khơi thông các nguồn lực
trong và ngoài nước để phát triển kinh tế. Từ đó, nhiều doanh nghiệp trong nước


×