Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ của Tổng cục An ninh – Bộ Công an trong tình hình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (958.36 KB, 99 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN CHẾ

NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, CHIẾN SỸ CỦA TỔNG CỤC
AN NINH – BỘ CÔNG AN TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI - năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN CHẾ

NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, CHIẾN SỸ CỦA TỔNG CỤC
AN NINH – BỘ CÔNG AN TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 8 31 02 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS, TS. TRƯƠNG GIANG LONG

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực hiện
dưới sự hướng dẫn của thầy GS, TS. Trương Giang Long.
Nội dung của luận văn có sự kế thừa các công trình nghiên cứu đi trước với
những trích dẫn và sử dụng tài liệu trong giới hạn cho phép.
Các kết quả của luận văn chưa được công bố trong các công trình nào khác.
Các số liệu, tài liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, khách quan và có nguồn
gốc rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của luận văn.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

Tác giả luận văn

Trần Văn Chế


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ CÔNG
TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, CHIẾN
SỸ CÔNG AN NHÂN DÂN ........................................................................... 9
1.1. Nhận thức chung về công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho
cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân ............................................................. 9
1.2. Nhận thức chung về hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân .......................................... 27

Chương 2: THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, CHIẾN SỸ CỦA TỔNG
CỤC AN NINH .............................................................................................. 34
2.1. Những yếu tố tác động đến hiệu quả công tác giáo dục đạo đức
cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ của Tổng cục An ninh ........................... 34
2.2. Thực trạng hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng .............. 43
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO
CÁN BỘ, CHIẾN SỸ CỦA TỔNG CỤC AN NINH ................................. 64
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho cán bộ, chiến sỹ của Tổng cục An ninh ................................... 64
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức
cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ của Tổng cục An ninh ........................... 68
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 1
PHỤ LỤC


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

An ninh, trật tự :

ANTT

An ninh nhân dân :

ANND

Ban Chấp hành Trung ương :


BCHTW

Bộ Chính trị :

BCT

Cán bộ, chiến sỹ :

CBCS

Công an nhân dân :

CAND

Chủ nghĩa xã hội khoa học :

CNXHKH

Chủ nghĩa xã hội :

CNXH

Kinh tế thị trường :

KTTT

Tổng cục An ninh :

TCAN


Xã hội chủ nghĩa :

XHCN


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đạo đức là một trong những yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu đối với mỗi
người cán bộ, đảng viên nói chung, của CBCS CAND nói riêng. Theo Hồ Chí
Minh, đạo đức là cái gốc của người cách mạng, có tài mà không có đức là người vô
dụng. Đạo đức là một nhân tố mang tính quyết định đối với mục đích, diễn biến, kết
quả hành động của mỗi cá nhân nói riêng và của xã hội nói chung.
Đối với CBCS CAND, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn nhấn mạnh
đến tầm quan trọng của vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng. Bởi vì CAND là thanh
bảo kiếm bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân nên mang bản chất chính trị sâu sắc;
phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, có lối sống trong sạch, lành mạnh. Những
nhiệm vụ chính trị đặc biệt mà Đảng và nhân dân giao phó cho các CBCS CAND
có được thực hiện hay không và thực hiện ở mức độ nào, kết quả như thế nào chịu
ảnh hưởng rất lớn từ phẩm chất đạo đức của người đó. Giáo dục đạo đức cách mạng
cho người CBCS CAND giúp nâng cao ý thức đạo đức, bồi dưỡng niềm tin, tình
cảm đạo đức, hình thành lối sống chuẩn mực, thanh cao, trong sáng, tận tâm với
nghề, tận tuỵ với nhân dân. Do đó, công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS
CAND có tầm quan trọng đặc biệt.
Với sự nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức
cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng nhiều và đề ra nhiệm vụ xây dựng
Đảng, chính quyền về đạo đức, đặc biệt đối với lực lượng CAND. Tuy nhiên, trong
thời gian gần đây, ta đã phát hiện nhiều những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức cách mạng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên với những
diễn biến ngày càng phức tạp. Sự phai nhạt về niềm tin, lý tưởng, dao động lập
trường chính trị, quan điểm không đúng đắn về tiến trình xây dựng CNXH, về nền

tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh xuất hiện ở một bộ
phận cán bộ, đảng viên dẫn đến sự vi phạm về đạo đức, pháp luật; biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá”, âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù
địch... Trong lực lượng CAND đã xuất hiện một bộ phận cán bộ, kể cả ở cán bộ cấp

1


cao, vi phạm về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phải chịu trách nhiệm trước
Đảng, Nhà nước và nhân dân. Thực tế này đã làm cho uy tín Đảng, của lực lượng
CAND phần nào bị sút giảm, niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước đang có
dấu hiệu bị ảnh hưởng. Do đó, công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS
CAND, đấu tranh chống lại những biểu hiện tiêu cực, tha hoá đạo đức – đứng trước
những chuyển biến mạnh mẽ, những khó khăn, thử thách của thời đại mới, được đặt
lên hàng đầu trong tình hình hiện nay.
Trong những năm qua, lãnh đạo TCAN đã chỉ đạo sát sao, chú trọng đúng
mức đến việc thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho
CBCS Tổng cục. Việc giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS TCAN được tiến
hành thường xuyên, là một nhiệm vụ chính trị của đơn vị, của các cấp lãnh đạo và
mỗi cá nhân. Đại bộ phận CBCS Tổng cục An ninh đã có những nhận thức đúng
đắn về vai trò của đạo đức, của việc tự rèn luyện, tự bồi dưỡng để hoàn thiện bản
thân, đồng thời đem lại hiệu quả cao cho công việc của mình. Tuy nhiên, trong thực
tế công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS TCAN có lúc, có nơi vẫn còn
tồn tại những hạn chế nhất định, tồn tại một bộ phận CBCS vi phạm kỷ luật, đạo
đức, chưa thực hành lối sống trong sạch, lành mạnh. Điều này xuất phát từ cả
nguyên nhân chủ quan và khách quan, những mặt còn hạn chế của công tác giáo dục
đạo đức cách mạng, từ phía người thực hiện công tác giáo dục đạo đức cách mạng
đến CBCS là đối tượng của công tác giáo dục; của tình hình thực tế công tác của
đơn vị TCAN; sự tác động từ phía môi trường xã hội… Tình hình trên đòi hỏi phải
tiến hành nghiên cứu, khảo sát, nắm bắt những mặt thuận lợi để phát huy, những

khó khăn, hạn chế để khắc phục nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong công tác giáo
dục đạo đức cách mạng của CBCS TCAN.
Nhằm tiến hành nghiên cứu một cách khách quan, khoa học, nghiêm túc,
khảo sát bao quát từ lý luận đến thực tiễn để có thể nắm bắt, phân tích vấn đề một
cách toàn diện, mang lại hiệu quả tối ưu trong công tác giáo dục đạo đức cách mạng
của CBCS TCAN nói riêng, của CBCS CAND nói chung trong tình hình hiện nay,
chúng tôi chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng

2


cho cán bộ, chiến sỹ của Tổng cục An ninh – Bộ Công an trong tình hình hiện
nay” để nghiên cứu chuyên sâu, làm rõ vấn đề.
2. Tình hình nghiên cứu
Nhận thức tầm quan trọng của đạo đức cách mạng trong việc xây dựng xã
hội mới tốt đẹp hơn, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội trong thời đại mới, từng
bước thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, những năm gần đây đã có nhiều
công trình nghiên cứu trong và ngoài nước bàn về vấn đề đạo đức cách mạng và
giáo dục đạo đức cách mạng nói chung, cụ thể như:
- Thành Duy (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề đạo đức cách mạng, Nxb. Thông tin lý
luận, Hà Nội, 1996.
- Nguyễn Chí Mỳ (1999), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền
kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện
nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Thanh Lê (2004), Giáo dục lối sống nếp sống mới, Nxb. Tổng hợp thành
phố Hồ Chí Minh.
- Trịnh Duy Huy (2009), Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

- Nguyễn Ngọc Long (1982), Sự hình thành đạo đức xã hội chủ nghĩa trong
điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa,
Luận án tiến sỹ Triết học, Mátxcơva.
- Phạm Huy Kỳ (1999), “Suy nghĩ về giải pháp khắc phục sự suy thoái đạo
đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay”, Tạp chí Báo chí Tuyên truyền, số
3/1999.
- Nguyễn Trọng Chuẩn (2001), “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay và những biến động trong lĩnh vực đạo đức”, in trong Tạp
chí Triết học, số 9/2001.
- Đỗ Lan Hiền (2002), “Vấn đề xây dựng đạo đức trong bối cảnh phát triển

3


kinh tế thị trường”, in trong Tạp chí Triết học, số 4/2002.
- Đỗ Huy (2002), “Cơ chế, chuẩn mực đạo đức xã hội và những hành vi đạo
đức cá nhân”, in trong Tạp chí Triết học, số 2/2002.
- Phạm Mạnh Hà (2002), “Những nguyên nhân chủ quan chủ yếu của tình
trạng suy thoái đạo đức ở nước ta hiện nay”, in trong Tạp chí Triết học, số 3/2002.
- Nguyễn Trọng Chuẩn – Nguyễn Văn Phóc (2003), “Mấy vấn đề đạo đức
trong điều kiện kinh tế thị trường”, in trong Tạp chí Triết học, số 1/2003.
- Vũ Khiêu (2003), “Sự suy thoái đạo đức và giải pháp của chúng ta”, in
trong Tạp chí Tâm lý học, số 9/2003.
- Thiếu tướng, GS, TS. Trương Giang Long (2013), Bàn về giải pháp ngăn
chặn, đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống hiện nay, Nxb. Chính
trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
- Thiếu tướng, GS, TS. Trương Giang Long (2014), Tư diễn biến, tự chuyển
hóa về vấn đề đặt ra đối với thanh niên hiện nay, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
- Thiếu tướng, GS, TS. Trương Giang Long (2015), Công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng trong lực lượng Công an nhân dân hiện nay, Nxb. Công an nhân dân,

Hà Nội.
Các công trình trên, ở mức độ nhất định, đã đề cập những vấn đề lý luận và
thực tiễn cơ bản về đạo đức cách mạng, đặc biệt là việc xây dựng, hoàn thiện những
giá trị đạo đức mới trong điều kiện xã hội chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền
KTTT định hướng XHCN; những giá trị đạo đức mới - đạo đức XHCN, đạo đức
cách mạng, lối sống mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh; những mặt tích cực và những
mặt tiêu cực, những biểu hiện tha hoá về đạo đức, “tự diễn biến, tự chuyển hóa”,
đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên ta cùng những nguyên nhân khách
quan, chủ quan chủ yếu; bước đầu đưa ra những phương hướng, giải pháp để nâng
cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên nói riêng,
cho toàn thể nhân dân Việt Nam nói chung.
Bàn về nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho
CBCS CAND cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan, làm rõ được

4


một số mặt về lý luận và thực tiễn nhằm củng cố, nâng cao chất lượng công tác, cụ
thể như:
- Thiếu tướng, GS, TS. Trương Giang Long (2015), “Định hướng giá trị
trong giáo dục thanh niên, sinh viên Công an nhân dân hiện nay”, Tạp chí Lý luận
Chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 6/2015.
- Thiếu tướng, GS, TS. Trương Giang Long (2017), “Xây dựng đội ngũ cán
bộ, chiến sỹ Công an nhân dân vững vàng về bản lĩnh chính trị - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn”, Tạp chí Cộng sản, tháng 9/2017.
- Giáp Văn Thông (2004), Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ,
chiến sỹ CAND trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Triết học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền,
Hà Nội.
- Phạm Bá Lượng (2009), Giá trị đạo đức truyền thống trong việc giáo dục

đạo đức cho sinh viên Công an nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận văn Tiến sỹ Triết
học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
- Phan Thuý Quỳnh (2012), Hiệu quả giáo dục 6 điều Bác Hồ dạy Công an
nhân dân trong sinh viên học viện An ninh nhân dân, Luận văn Thạc sỹ, Học viện
Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
- Phạm Thị Nguyệt (2012), Vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho học
sinh hệ đào tạo trung cấp an ninh ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Triết học,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
- Phạm Thị Tâm (2013), Công tác giáo dục tư tưởng chính trị của Đảng đối
với cán bộ, chiến sỹ Công an Huyện Từ Liêm, Thành phố Hà Nội hiện nay, Luận
văn Thạc sỹ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
- Y Quyết B’Krông (2015), Đảng uỷ Công an Tỉnh Đắk Lắk lãnh đạo công
tác giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân tỉnh hiện
nay, Luận văn Thạc sỹ Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước, Học viện Báo
chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
- Đặng Thái Giáp (1997), “Suy nghĩ về đức và tài của người Công an cách

5


mạng”, in trong Tạp chí Công an nhân dân, số 6/1997.
- Đặng Thái Giáp (1998), “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công an trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, in trong Tạp chí Công an nhân dân, số
7/1998.
- Tô Lâm (2018), Xây dựng đạo đức người Công an nhân dân trong tình
hình mới, đăng trên www.tapchicongsan.org.vn, truy cập ngày 15/3/2018.
- Phạm Thái Bình (2009), “Nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức trong các
trường Công an nhân dân trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh”, in trong Tạp chí
Công an nhân dân, số 1/2009.
Những công trình trên đã phần nào nghiên cứu, làm rõ những mặt của công

tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND nói chung: Các công trình đã
hướng tới xây dựng hệ giá trị đạo đức cách mạng mới của CBCS CAND; phân tích
những quan điểm Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục đạo
đức cách mạng cho CBCS CAND; phân tích những vấn đề về lý luận và khảo sát
thực tiễn xã hội Việt Nam những yếu tố tác động đến công tác giáo dục đạo đức
cách mạng cho CBCS CAND, đặc biệt trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở
Việt Nam hiện nay; những nguyên nhân dẫn đến hạn chế của công tác giáo dục đạo
đức cách mạng của CBCS CAND để khắc phục, nâng cao hiệu quả công tác. Tuy
nhiên, chưa có công trình nào khảo sát, đưa ra hệ các tiêu chí và đánh giá hiệu quả
công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND nói chung, của CBCS
TCAN nói riêng. Do đó, đề tài mà học viên lựa chọn không trùng với các công trình
khoa học đã được công bố, có giá trị đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận về chung về hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho CBCS CAND, luận văn đi sâu phân tích, làm rõ thực trạng hiệu quả công
tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS TCAN, qua đó đề xuất những phương
hướng và một số giải pháp để nâng cao chất lượng mặt công tác trên trong thời gian
tới.

6


3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Một số vấn đề lý luận về hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng
cho CBCS CAND.
- Thực trạng hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS
TCAN.
- Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức

cách mạng cho CBCS TCAN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS
TCAN.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS
TCAN từ năm 2014 đến 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa MácLênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
về đạo đức cách mạng của người CBCS CAND trong quá trình thực hiện mục tiêu
của luận văn.
Luận văn còn được thực hiện dựa trên việc vận dụng những phương pháp
chung như phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp điều tra xã
hội học, phương pháp logic, phương pháp lịch sử…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc hoàn thiện các căn cứ
khoa học và thực tiễn để đánh giá và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức
cách mạng cho CBCS CAND nói chung, của CBCS TCAN nói riêng trong thời gian
tới.

7


Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, nghiên
cứu, giảng dạy chuyên đề, ứng dụng của các nhà nghiên cứu về chính trị, các nhà
hoạt động chính trị trong lực lượng vũ trang, lực lượng CAND và ứng dụng trong
công tác lãnh đạo của Đảng uỷ các đơn vị CAND.
7. Kết của của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho
cán bộ, chiến sỹ của Tổng cục An ninh.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục
đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ của Tổng cục An ninh.

8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, CHIẾN SỸ CÔNG AN NHÂN DÂN
1.1. Nhận thức chung về công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán
bộ, chiến sỹ Công an nhân dân
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức cách mạng
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội. Ý thức về đạo đức xuất hiện tương
đối sớm trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau kể từ khi có sự xuất hiện của
loài người. Đạo đức đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội; sự phát
triển về trình độ nhận thức về đạo đức là một trong những thước đo cho sự phát
triển của loài người. Trong công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS
CAND, đạo đức ở đây là đạo đức cộng sản, đạo đức Mác – Lênin hình thành nên cơ
sở lý luận về đạo đức cách mạng. Các nhà sáng lập, phát triển CNXHKH từ C. Mác,
Ph. Ăngghen, Lênin đến Hồ Chí Minh luôn chú ý đến vấn đề đạo đức.
Các nhà triết học, nhà tư tưởng trước C. Mác và Ph. Ăngghen, do những hạn
chế về mặt lịch sử, hệ tư tưởng về cơ bản đã không đưa ra được một quan niệm
đúng đắn về đạo đức, họ thường quy bản chất đạo đức về một bản nguyên, cội

nguồn phi lịch sử nào đó.
Với việc phát hiện ra chủ nghĩa duy vật biện chứng hình thành quan niệm
duy vật lịch sử, C. Mác đã lý giải một cách khoa học các mặt trong đời sống xã hội
con người. Trong tác phẩm kinh điển Góp phần phê phán khoa kinh tế - chính trị,
C.Mác khẳng định: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định quá trình
sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người
quyết định sự tồn tại của họ; trái lại, sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của
họ” [65, tr.15]. Hay nói cách khác, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, hệ thống
các quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực, niềm tin, lý tưởng đạo đức…hợp thành hình
thái ý thức đạo đức được quy định bởi trình độ phát triển của đời sống vật chất

9


trong xã hội.
Ph. Ăngghen khi tiến hành phê phán nhận thức về đạo đức của Đuyrinh (ông
Đuyrinh cho rằng đạo đức có tính chân lý vĩnh cữu) đã chỉ rõ và phân tích một cách
thấu đáu về các học thuyết đạo đức đang tồn tại trong xã hội Châu Âu. Đó là sự tồn
tại của các học thuyết đạo đức trong xã hội phong kiến, đạo đức trong xã hội tư sản
cận đại và đạo đức vô sản của tương lai. Ph. Ăngghen nhận định: “không có đạo
đức nào là chân chính cả, nếu nói theo ý nghĩa tuyệt đối cuối cùng; nhưng tất nhiên,
thứ đạo đức hiện nay đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại, biểu hiện cho lợi ích
tương lai, tức là đạo đức vô sản, - là thứ đạo đức có một số lượng nhiều nhất những
nhân tố hứa hẹn một sự tồn tại lâu dài” [66, tr.136]. Như vậy, Ph. Ăngghen cho rằng
đạo đức của giai cấp vô sản là đạo đức của tương lai loài người, là đạo đức phát
triển ở mức độ cao nhất với ý nghĩa là một hình thái ý thức xã hội. Sau này, các học
trò của C. Mác, Ph. Ăngghen, đặc biệt là lãnh tụ V.I.Lênin, đã khẳng định đạo đức
của giai cấp vô sản trong thời kỳ mới là đạo đức cộng sản, đạo đức mới, đạo đức
XHCN.
V.I. Lênin cho rằng đạo đức của chủ nghĩa duy tâm, siêu hình là đạo đức

phản động không phải là đại diện cho sự tiến bộ, văn minh của xã hội con người
tương lai, thậm chí là trở lực cho sự phát triển; đạo đức của xã hội tương lai phải là
đạo đức cộng sản. V.I.Lênin đã luận giải một cách sâu sắc về lĩnh vực đạo đức mới
của những người cộng sản và có vai trò quan trọng trong việc cụ thể hóa tư tưởng
về đạo đức mới - đạo đức cộng sản - trên thực tiễn xây dựng nhà nước XHCN Liên
Xô. Theo V.I.Lênin: “Đạo đức đó là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn
bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô
sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản” [106, tr.369].
Với việc học tập, nghiên cứu, tiếp thu một cách sâu sắc những quan điểm
mang tính chất phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin vận dụng vào điều
kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam, đạo đức truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Hồ Chí Minh cùng Đảng ta đã chủ trương xây dựng nền đạo đức mới, đạo
đức của những người cộng sản, đạo đức cách mạng ở nước ta. Cụm từ “đạo đức

10


cách mạng” do Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên nêu ra chính là nền đạo đức của
những người cộng sản, đạo đức của CNXH, chủ nghĩa cộng sản mà C. Mác, Ph.
Ăngghen, V.I.Lênin đã phát triển trong quá trình đấu tranh cho nhân loại tiến bộ
toàn thế giới. Tiếp nối các nhà sáng lập CNXHKH, Hồ Chí Minh nhận định: “Đạo
đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như
người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” [43, tr. 220]. Như
vậy, Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức mới hay đạo đức cách mạng, đạo đức cộng sản
nó vượt qua trình độ của đạo đức phong kiến lạc hậu, cũ kỹ và cũng khác biệt, thậm
chí trái ngược hẳn với đạo đức tư sản vốn nhấn mạnh nhiều đến chủ nghĩa cá nhân,
chủ nghĩa vụ lợi... Đồng thời, Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức cách mạng chính là
cái gốc, cái nền của người làm cách mạng, “Cũng như sông thì có nguồn mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng

không lãnh đạo được nhân dân” [42, tr. 292]. Chính đạo đức mới, đạo đức cách
mạng giúp cho mỗi người cán bộ cách mạng có sức mạnh to lớn, lòng kiên trì trong
việc thực hiện các mục tiêu cách mạng đề ra.
Tóm lại, dựa trên sự phân tích các quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, có thể hiểu: Đạo đức là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc,
chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong
quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi
truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội; là một hình thái ý thức xã hội chịu sự
quy định của tồn tại xã hội và có sự tác động trở lại một cách tương đối.
Đạo đức mà các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng
ta nêu lên là đạo đức mới, đạo đức cộng sản, đạo đức cách mạng – đó là thành tố mà
công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND đề cập. Với sự quan niệm
về khái niệm đạo đức như trên, ta có thể hiểu: Đạo đức cách mạng là đạo đức mới
do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đặt nền móng xây dựng; là
sản phẩm của sự kết hợp những quan điểm đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin với
tinh hoa đạo đức dân tộc và nhân loại; là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực, giá

11


trị đạo đức tiên tiến, biểu hiện tư tưởng, tình cảm, hành vi đạo đức của người làm
cách mạng, nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1.1.1.2. Khái niệm giáo dục
Giáo dục là một quá trình quan trọng của đời sống xã hội loài người. Nhờ có
giáo dục, con người được truyền thụ những tri thức, những hiểu biết được tích lũy
qua quá trình phát triển của lịch sử nhân loại. Giáo dục là một quá trình hai mặt:
giáo dục tạo ra sự tác động từ bên ngoài hướng đến đối tượng giáo dục (Nhà giáo
dục tạo nên sự tác động của tri thức, văn hóa vào trong tư tưởng, hành động của
người học), từ đó, đối tượng tự biến đổi bản thân mình, tự hoàn thiện, tự phát triển

thông qua giáo dục.
Theo C. Mác, con người chính là một thực thể có sự thống nhất của mặt sinh
học và mặt xã hội. Đó là sự đúc kết khoa học của C. Mác thông qua một quá trình
nghiên cứu sự hình thành, phát triển của con người. Mác cho rằng đứa trẻ khi vừa
được sinh ra chính là một “con người dự bị”; “con người dự bị” sẽ không thể thực
sự trở thành con người nếu bị cô lập, bị tách biệt khỏi đời sống xã hội (chỉ có mặt tự
nhiên mà không có mặt xã hội). Khi trình bày trong tác phẩm Bản thảo kinh tế triết học năm 1844, C.Mác đã khẳng định: “Cá nhân là thực thể xã hội, cho nên
mọi biểu hiện sinh hoạt của nó, ngay cả nếu nó không biểu hiện sinh hoạt tập thể,
được biểu hiện cùng với những người khác - là biểu hiện và khẳng định của sinh
hoạt tập thể” [69, tr. 171]. Hay nói cách khác, Mác khẳng định một con người thực
sự là con người đầy đủ khi “con người dự bị” được tham gia vào môi trường xã hội,
được đắm mình trong các hoạt động xã hội trong quá trình tồn tại, phát triển của
mình. Khi tham gia vào các hoạt động xã hội, thông qua những thiết chế xã hội (đặc
biệt là thông qua quá trình được giáo dục), con người hòa nhập vào xã hội, phát
triển mặt xã hội của mình để trở thành một con người toàn vẹn. Giáo dục chính là
một hoạt động cần thiết để con người truyền thụ lại những kinh nghiệm cần thiết
cho các thế hệ tiếp nối, nhằm phục vụ cho quá trình sống, thích ứng và phát triển
trong môi trường xã hội. Đặc biệt, quá trình giáo dục truyền thụ lại trong các thế hệ

12


con người những giá trị tri thức và văn hóa. Các nhà sáng lập CNXHKH đã nhấn
mạnh mối quan hệ biện chứng giữa môi trường xã hội và hoạt động giáo dục – nhân
tố xã hội có tác dụng quy định những yếu tố của hoạt động giáo dục, có tác dụng
định hướng cho sự phát triển của giáo dục, còn giáo dục lại đóng vai trò tích cực,
quan trọng đối với sự phát triển của môi trường xã hội và sự tồn tại của con người.
Khi tìm tòi, đúc kết những quy luật của sự phát triển xã hội loài người, các
nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: Lịch sử, khi nhìn nhận ở
góc độ khoa học, khách quan, chính là sự phát triển và thay thế lẫn nhau của các

hình thái kinh tế - xã hội (từ thời kỳ Cộng sản nguyên thủy - Chiếm hữu nô lệ Phong kiến - Tư bản chủ nghĩa - XHCN - Cộng sản chủ nghĩa). Mỗi hình thái kinh
tế - xã hội lại có tương ứng các nền giáo dục khác nhau một cách phù hợp với mỗi
hình thái kinh tế - xã hội đó. Sự xuất hiện của hình thái kinh tế - xã hội mới thay
cho hình thái kinh tế - xã hội cũ sẽ tương ứng với sự thay đổi của nền giáo dục mới
thay cho nền giáo dục cũ. Nền giáo dục mới sẽ chứa đựng những yếu tố tiến bộ, tích
cực hơn so với nền giáo dục cũ bởi lẽ sự thay thế, phát triển các hình thái kinh tế xã hội là sự phát triển về chất – hình thái kinh tế - xã hội mới bao giờ cũng tiến bộ
hơn, trước hết là sự tiến bộ về trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất
phát triển hơn kéo theo sự biến đổi trong mối quan hệ giữa con người với con người
trong sản xuất, từ đó dẫn đến sự biến đổi các mối quan hệ xã hội và đến mỗi cá
nhân. Trước thực tại này, Ph.Ăngghen phân tích rõ: “giống như trong thế kỷ trước,
người nông dân và người công nhân công trường thủ công, sau khi được thu hút vào
đại công nghiệp, đã thay đổi toàn bộ lối sống của họ và bản thân họ đã trở thành
những con người hoàn toàn khác hẳn” [67, tr. 474]. Bởi vì sự phát triển của lực
lượng sản xuất (mà trước hết là trình độ của trí tuệ con người và công cụ sản xuất)
thể hiện trình độ phát triển của con người trong việc chinh phục và chiếm lĩnh các
lực lượng trong tự nhiên với tư cách là yếu tố cơ sở vật chất cho hoạt động sống của
chính con người. Điều này, C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng: “sẽ cần những con
người hoàn toàn mới” và “cũng cần có những con người có năng lực phát triển toàn
diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất”; do đó, “công tác giáo dục sẽ làm

13


cho những người trẻ tuổi có khả năng nắm vững nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản
xuất trong thực tiễn…” và làm cho những thành viên trong xã hội “có khả năng sử
dụng một cách toàn diện năng lực phát triển toàn diện của mình” [69, tr. 475].
Đồng thời, C. Mác và Ph. Ăngghen còn đưa ra những dự báo thiên tài của
mình rằng: “Theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực tế trở
nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và vào số lượng lao động đã chi phí hơn là
vào sức mạnh của những tác nhân được khơi động trong thời gian lao động, và bản

thân những tác nhân, đến lượt chúng (hiệu quả to lớn của chúng), tuyệt đối không
tương ứng với thời gian lao động trực tiếp cần thiết để sản xuất ra chúng, mà đúng
ra, chúng phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và vào sự tiến bộ của kỹ thuật,
hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy vào sản xuất… Thiên nhiên không
chế tạo ra máy móc, đầu máy xe lửa, đường sắt, điện báo, máy sợi con dọc di động,
v.v.. Tất cả những cái đó đều là sản phẩm lao động của con người, là vật liệu tự
nhiên được chuyển hoá thành những cơ quan của ý chí con người chế ngự giới tự
nhiên, hoặc của hoạt động của con người trong giới tự nhiên. Tất cả những cái đó
đều là những cơ quan của bộ óc con người do bàn tay con người tạo ra, đều là sức
mạnh đã được vật hoá của tri thức. Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho
thấy tri thức xã hội phổ biến đã chuyển hoá đến mức độ nào thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, do đó nó cũng là chỉ số cho thấy những điều kiện của chính quá trình
sống của xã hội đã phục tùng đến mức độ nào sự kiểm soát của trí tuệ phổ biến và
đã được cải tạo đến mức độ nào cho phù hợp với quá trình ấy; những lực lượng sản
xuất xã hội đã được tạo ra đến mức độ nào không những dưới hình thức tri thức, mà
cả như là những cơ quan thực hành xã hội trực tiếp, những cơ quan trực tiếp của quá
trình sống hiện thực” [70, tr. 368-369, 372-373]. Chính vì vậy, các nhà lý luận kinh
điển của Chủ nghĩa Mác – Lênin đã kết luận: “bộ phận giác ngộ nhất của giai cấp công
nhân hiểu rất rõ rằng, tương lai của giai cấp công nhân tức là tương lai của loài người,
hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên” [71, tr. 7].
Nhìn nhận xuyên suốt quá trình phát triển các quan niệm về giáo dục, tư
tưởng giáo dục, triết lý giáo dục, các nhà tư tưởng đều nhìn nhận giáo dục chính là

14


một cách thức để truyền thụ những tri thức của nhân loại, giá trị của xã hội đến
người học; thông qua quá trình giáo dục, con người được truyền thụ về các giá trị xã
hội, học cách để gia nhập vào xã hội và phục vụ cho một chế độ xã hội thể hiện
trong một giai đoạn xác định. Giáo dục ở đây được hiểu là có mục đích lấy xã hội

làm trung tâm, xã hội trang bị cho đối tượng học tập các kiến thức cơ bản về kinh
tế, kỹ thuật... nhằm phục vụ xã hội. Tuy nhiên, có một sự khác biệt trong quan niệm
của C. Mác và các nhà tư tưởng trước C. Mác về giáo dục: nếu như các quan niệm
trước C. Mác đều xem giáo dục chính là cách thức để đào tạo nên con người trở
thành những cỗ máy thực sự để phục vụ cho xã hội đương thời thì C. Mác lại xem
giáo dục không chỉ làm cho con người thích nghi với xã hội, nhằm phục vụ cho xã
hội, mà quan trọng hơn, giáo dục làm cho người người được phát triển toàn diện các
năng lực của mình. Ở điểm này, C.Mác quan niệm nền giáo dục sau này sẽ là nền
giáo dục làm cho mỗi một trẻ em, khi đến lứa tuổi nhất định, đều biết “kết hợp trí
dục và thể dục với lao động chân tay và do đó, kết hợp lao động chân tay với trí dục
và thể dục”, “kết hợp lao động sản xuất với trí dục và thể dục” và coi đó không phải
chỉ là một phương pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội mà còn là một
phương pháp duy nhất để sản xuất ra những con người phát triển toàn diện…” [68,
tr. 687, 688].
Nhìn lại lịch sử nhân loại, có thể khẳng định: Quan niệm của Chủ nghĩa Mác
– Lênin về giáo dục có mục đích chính là vì sự phát triển của con người là một quan
niệm đúng đắn, tiến bộ, phù hợp với nhân tính của con người, vì sự tiến bộ của nhân
loại. Như vậy, giáo dục hướng tới sự phát triển của chính bản thân con người.
Về mặt định nghĩa, có thể hiểu theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê làm
chủ biên: Giáo dục là “hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát
triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có
được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra” [104, tr. 394]. Giáo trình
Giáo dục học đã đưa ra định nghĩa: “Giáo dục là quá trình thống nhất của sự hình
thành tinh thần và thể chất của mỗi các nhân trong xã hội. Giáo dục là một mặt
không thể tách rời của cuộc sống con người, của xã hội, nó là một hiện tượng đặc

15


trưng của xã hội loài người. Trong quá trình tiến hoá của nhân loại, giáo dục xuất

hiện cùng với sự xuất hiện của loài người, khi con người có quan hệ với tự nhiên
bằng công cụ và phương tiện lao động thì nhu cầu về sự truyền đạt và lĩnh hội kinh
nghiệm của thế hệ trước cho thế hệ sau mới xuất hiện. Giáo dục như là một phương
thức của xã hội đảm bảo việc kế thừa văn hoá, phát triển nhân cách” [35, tr. 14]...
Tóm lại, có thể hiểu giáo dục là một trong những loại hình hoạt động của
các tổ chức và cá nhân nhằm tác động vào đối tượng dưới các phương pháp, cách
thức khác nhau nhằm làm thay đổi sự phát triển của đối tượng tác động theo chiều
hướng tốt hơn, tích cực hơn theo mong muốn của chủ thể giáo dục.
Giáo dục mà công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND đề cập
là nền giáo dục của những người cộng sản, hướng tới xây dựng những con người
mới XHCN nói chung, người CBCS CAND nói riêng.
1.1.1.3. Khái niệm giáo dục đạo đức cách mạng
Qua việc tìm hiểu về khái niệm đạo đức, ta có thể hiểu giáo dục đạo đức
chính là quá trình chủ thể giáo dục tạo nên sự tác động vào đối tượng giáo dục, cốt
yếu nhằm hình thành ở đối tượng giáo dục những nội dung về ý thức, tình cảm,
niềm tin, lý tưởng, hành vi đạo đức hay những phẩm chất đạo đức cần thiết trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định, phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Thông qua giáo dục đạo đức cách mạng, những phẩm chất đạo đức cần thiết,
phù hợp với chuẩn mực của xã hội - được xem là yêu cầu của xã hội - sẽ được
chuyển hóa trở thành sự thúc đẩy của nội tâm trong đối tượng giáo dục. Đó chính là
con đường, cách thức cơ bản để góp phần điều chỉnh nhận thức và hành vi của đối
tượng giáo dục một cách đầy đủ, đúng đắn, chủ động, phù hợp với yêu cầu mà xã
hội đặt ra.
Bên cạnh mục đích nâng cao trình độ nhận thức của đối tượng giáo dục về
những chuẩn mực, giá trị đạo đức của xã hội, công tác giáo dục đạo đức cách mạng
còn là một phương thức để xây dựng được những quan điểm, phẩm chất đạo đức
mới, quan niệm và lẽ sống tích cực ở đối tượng nhận tác động. Giáo dục đạo đức
cách mạng giúp cho đối tượng giáo dục hiểu biết và nhận diện một cách rõ ràng

16



những hành vi nào vi phạm đạo đức, những quan niệm nào lệch lạc, sai lầm hoặc
lạc hậu so với tình hình mới.
Đặc điểm to lớn nhất của công tác giáo dục đạo đức cách mạng là đưa những
chuẩn mực đạo đức cách mạng từ đòi hỏi bên ngoài thuộc về của chung của xã hội
chuyển thành sự hối thúc bên trong của mỗi cá nhân trong xã hội, thành tình cảm,
giá trị sống, niềm tin, nhu cầu, thói quen của đối tượng được giáo dục. Nội dung của
công tác giáo dục đạo đức cách mạng có thể bao gồm những nội dung cơ bản như:
thế giới quan, nhân sinh quan, chính trị quan, các phẩm chất đạo đức cao đẹp của
con người... Những nội dung giáo dục đạo đức cách mạng định hướng mỗi con
người nâng cao được trình độ nhận thức về các giá trị đạo đức cách mạng, góp phần
tạo nên cơ chế điều chỉnh hành vi ở mỗi người phù hợp với những chuẩn mực đạo
đức cách mạng theo yêu cầu xã hội đặt ra. Giáo dục đạo đức cách mạng cũng là cơ
sở để mỗi cộng đồng xã hội (hay mở rộng ra cả loài người) có thể bảo tồn, kế thừa,
phát triển những giá trị đạo đức cách mạng tốt đẹp mà các thế hệ trước đã sáng tạo
nên, xóa bỏ và khắc phục những giá trị đã lỗi thời, lệch chuẩn, những thói hư tật
xấu, những hiện tượng trái đạo đức cần được xóa bỏ...
Công tác giáo dục đạo đức cách mạng có vai trò to lớn trong việc hình thành
nên ở mỗi người nhận thức, tình cảm, những hành vi đạo đức cách mạng của con
người nói chung, của mỗi người CBCS CAND nói riêng. Đặc biệt trong bối cảnh
hiện nay, trước nhiều biến động phức tạp của đạo đức cách mạng trong xã hội, trước
những biểu hiện suy thoái về đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên thì công
tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND là một trong những nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu, góp phần xây dựng lực lượng CAND chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu công tác trong thời đại mới.
1.1.2. Công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ Công an
nhân dân
1.1.2.1. Sự cần thiết phải tiến hành công tác giáo dục đạo đức cách mạng
cho cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân

Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ của toàn

17


Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị; trong đó, lực lượng CAND là
lực lượng làm nòng cốt. Đó là công tác liên quan đến một lĩnh vực đặc biệt, có tầm
quan trọng hàng đầu đến sự tồn vong và phát triển của một đất nước, đến cuộc sống
bình yên của nhân dân. Trách nhiệm mà lực lượng CAND được giao là bảo vệ an
ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; thực hiện những biện pháp nhằm
thống nhất quản lý về bảo vệ ANTT; kiên quyết đấu tranh để phòng, chống mọi âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, các loại tội phạm và các hành vi
vi phạm pháp luật, xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Về phạm vi
hoạt động, địa bàn công tác của lực lượng CAND được trải khắp các lĩnh vực, các
mối quan hệ của đời sống xã hội; lực lượng CAND trực tiếp tiếp xúc với các đối
tượng là con người hiện thực, con người cụ thể đang sinh sống, làm việc, hoạt động
trong xã hội hiện thực.
Với những nhiệm vụ ấy, lực lượng CAND phải nêu cao vai trò của mình
trong việc bám sát địa bàn, bám sát các đối tượng, phát hiện và ngăn chặn kịp thời
những mặt trái, những tiêu cực tồn tại trong xã hội; lực lượng CAND phải sử dụng
các biện pháp, sức mạnh từ pháp luật và nghiệp vụ, sự vững vàng về chính trị, bản
lĩnh chính trị, sự kiên quyết, khôn khéo qua quá trình đào tạo và kinh nghiệm đúc
kết được để đấu tranh với những mặt tiêu cực, mặt xấu của xã hội;... Chính vì vậy,
nghề nghiệp của lực lượng CAND quy định sự hy sinh thầm lặng, bí mật do yêu cầu
nghiệp vụ đặt ra, sự tuân thủ một cách chặt chẽ và vận dụng linh hoạt các biện pháp
nghiệp vụ theo pháp luật, đảm bảo những định hướng phát triển đất nước mà Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta lựa chọn.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất của
CNXH, công tác bảo vệ ANTT đặt ra ngày càng nặng nề hơn, phức tạp hơn; các loại tội
phạm và thế lực thù địch, phản động ngày càng tinh vi hơn trong phương thức, thủ đoạn

hoạt động phạm tội, sử dụng những thành tựu khoa học, công nghệ... Những diễn biến đó
của tình hình tội phạm gây nên những khó khăn, thử thách ngày càng tăng đối với lực
lượng CAND, đòi hỏi lực lượng CAND phải không ngừng học tập, nghiên cứu, nâng cao
trình độ về mọi mặt để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới.

18


Trong những năm qua, lực lượng CAND đã phấn đấu hoàn thành xuất sắc
mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, đạt được nhiều thành tích
đáng ghi nhận, giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những
chiến công đã đạt được, không ít CBCS CAND trong quá trình công tác đã không
giữ được những phẩm chất đạo đức cách mạng trong sạch, lành mạnh như bản chất
của người công an cách mạng. Đối mặt với những cám dỗ xã hội, ghi nhận không ít
CBCS trong lực lượng CAND, kể cả cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo có biểu hiện suy
thoái về đạo đức, lối sống đến mức phải xử lý kỷ luật, thậm chí bị truy tố trước pháp
luật. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (Khóa XI), Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 4 (Khóa XII) đã chỉ ra tình hình vi phạm về đạo đức, lối sống của một bộ phận
cán bộ, đảng viên nói chung, của CBCS CAND trong thời gian vừa qua. Những
nguyên nhân được chỉ ra đó là: những hệ lụy từ sự khủng hoảng và sụp đổ của hệ
thống các nước XHCN ở Liên Xô và Đông Âu; những tác động tiêu cực từ mặt trái
của cơ chế phát triển nền KTTT; những hoạt động lợi dụng sự phát triển của khoa
học công nghệ thông tin, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; sự khó khăn, thử thách
trong công cuộc xây dựng CNXH của các quốc gia lựa chọn đi theo định hướng của
Chủ nghĩa Mác – Lênin vạch ra trong thời đại ngày nay; những vấn đề mới, phức
tạp phát sinh từ thực tiễn chưa có hướng lý giải và xử lý kịp thời, hiệu quả; chiến
lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động, thủ đoạn lợi dụng
“dân chủ”, “nhân quyền”, chính sách dân tộc, tôn giáo cùng những yếu kém, mất
cảnh giác, sơ hở của cơ quan chính quyền nhằm xuyên tạc, bóp méo tình hình ngày
càng tinh vi, phức tạp hơn; hiện tượng cổ súy theo lối sống hưởng thụ, thực dụng,

chủ nghĩa cá nhân vị kỷ.... Về chủ quan, đó là những nguyên nhân sâu xa gây nên
tình trạng suy thoái về đạo đức của cán bộ, đảng viên mà Đảng ta đã chỉ ra. Tuy
nhiên, Đảng ta nhấn mạnh nguyên nhân trực tiếp hàng đầu dẫn đến tình trạng suy
thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên lại chính là do sự thiếu tự giác tu dưỡng, rèn
luyện, ham hưởng thụ của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; do những yếu
tố chủ quan như lập trường không vững vàng, tư tưởng còn hoang mang, dao động
trước những yếu tố tác động của môi trường bên ngoài; cán bộ, đảng viên sa vào

19


những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, hẹp hòi, ham hưởng thụ vật chất,
không xem trọng nhiệm vụ trước Đảng và nhân dân, Một nguyên nhân khác cần
nhận diện là về công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
có lúc, có nơi còn chưa được thực hiện tốt; các nội dung cơ bản về Chủ nghĩa Mác –
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các Nghị quyết của Đảng đôi khi còn được giảng
dạy và học tập dưới hình thức kém hiệu quả, phương pháp kém sức thuyết phục,
chậm đổi mới cho phù hợp với điều kiện mới; chưa tạo được sự thống nhất cao độ
về nhận thức của toàn thể cán bộ, đảng viên về tình trạng suy thoái, những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và những hậu quả do nó gây ra; trong quá trình tổ
chức sinh hoạt đảng ở một số chi bộ ở nhiều nơi còn mang tính hình thức, đơn điệu;
công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa có chiều sâu, không theo kịp
tình hình thực tế; công tác xây dựng, tuyên truyền, nhân rộng những mô hình mới,
những tấm gương điển hình tiên tiến còn có lúc chưa được thực hiện hiệu quả,
nghiêm túc. Một số nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nội dung chưa sát
thực tiễn, thiếu tính khả thi và thiếu chế tài xử lý. Không ít cấp ủy, tổ chức đảng,
người đứng đầu các cấp chưa có quyết tâm chính trị cao; các chủ trương, đường lối
của Đảng (đặc biệt là những nội dung thể hiện trong Nghị quyết, Chỉ thị, Kết luận
của BCHTW, BCT, Ban Bí thư) chưa được cụ thể hóa một cách nghiêm túc, bám
sát tình hình thực tiễn ở một số địa phương, đơn vị, nội dung còn mang tính chung

chung, thiếu tính chỉ đạo quyết liệt, thiếu cách thức kiểm tra, kiểm soát mà trông
chờ, ỷ lại vào sự chỉ đạo của cấp trên; một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp,
trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tiên phong, gương mẫu; việc xử lý cán bộ, đảng
viên vi phạm còn nương nhẹ, nể nang, thiếu cương quyết. Chưa có cơ chế khen
thưởng những tập thể, cá nhân tổ chức thực hiện nghị quyết sáng tạo, có hiệu quả và
xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân không thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm
túc; việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, luật pháp thích ứng với
nền KTTT định hướng XHCN chưa kịp thời; tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, chồng
chéo, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả cùng với cơ chế kiểm soát quyền lực chậm
được hoàn thiện, còn nhiều sơ hở; thiếu cơ chế để xử lý, thay thế kịp thời những cán

20


×