Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

SKKN MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 1 QUA CÁC MÔN HỌC VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.06 KB, 12 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP
1 THÔNG QUA CÁC MÔN HỌC
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, nền giáo dục của nước ta đang có nhiều sự thay đổi, nhưng Đảng
và Nhà nước vẫn coi trọng giáo là quốc sách hàng đầu. Vì vậy, vai trò của người
giáo viên không chỉ vừa dạy chữ vừa dạy cách làm người mà còn trang bị, cung
cấp kiến thức về kỹ năng sống cho học sinh. Hơn nữa, giáo dục kĩ năng sống cũng
là một trong năm nội dung của phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” do Bộ Giáo dục phát động theo chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT, ban
hành ngày 22 tháng 07 năm 2008. Trên tinh thần đó tôi nhận thấy rằng chính ở
dưới mái trường các em sẽ học được nhiều điều hay, lẽ phải. Và nhà trường phải là
ngôi nhà thân thiện, học sinh tích cực học tập, để các em thành người tài xây dựng
đất nước, có khả năng hội nhập cao, từng bước trở thành công dân toàn cầu. Đây
cũng là một nhiệm vụ quan trọng đối với các thầy cô giáo. Với học sinh lớp một,
đây là giai đoạn đầu tiên hình thành nhân cách cho các em, giúp các em có một kĩ
năng sống tốt cho tương lai sau này và đây cũng là một vấn đề mà xã hội và cha
mẹ học sinh hết sức quan tâm.
Đã một thời gian dài trong các nhà trường, kỹ năng sống còn bị xem nhẹ, gần
như lãng quên và hệ quả tất yếu của nó là cho ra đời một thế hệ học sinh thụ động,
chỉ quen với những cái hay, cái đẹp có trong sách vở, còn khi đứng trước những
tình huống thực tế thì rụt rè, sợ hãi. Chính vì lo lắng trước những cảnh báo về một
thế hệ trẻ thiếu kỹ năng sống, năm học 2010 – 2011 Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết
định lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống vào chương trình chính khoá từ
Tiểu học đến Trung học phổ thông. Đây là một chủ trương lớn rất cần thiết và đúng
đắn. Dạy lồng ghép kỹ năng sống làm cho tiết học sinh động và học sinh dễ tiếp
thu kiến thức hơn, bảo đảm sự liên tục và bền vững của việc hình thành kỹ năng
cho học sinh.
Tuy nhiên làm thế nào để việc dạy lồng ghép kỹ năng sống cho học sinh đạt
hiệu quả cao là vấn đề còn nhiều trăn trở đối với mỗi thầy cô giáo. Thiết nghĩ: dạy
kỹ năng sống cho học sinh chỉ bó hẹp trong những bài học cụ thể và chỉ dừng lại
sau khi kết thúc tiết học thì chưa đủ để hình thành “kỹ năng” cho các em mà phải


được rèn luyện, bồi dưỡng và thực hành thường xuyên.
Đối với học sinh tiểu học – bậc học nền tảng càng cần thiết giáo dục kỹ năng
sống. Bởi đây là lứa tuổi bắt đầu hình thành nhân cách. Giáo dục nhân cách là việc
làm rất quan trọng trong công tác giáo dục. Cuộc sống con người thành công hay
thất bại, hạnh phúc hay khổ đau là phần lớn do nhân cách quyết định. Giáo dục kỹ
năng sống nhằm xây dựng cho các em nền tảng đạo đức chân chính, một lối sống
văn minh, lành mạnh để trở thành “Người”. Bộ môn kỹ năng sống vẫn còn mới
mẻ, chúng ta không chỉ nên quan tâm đã xây dựng được chương trình học như thế
nào, đã giảng dạy được bao nhiêu tiết học, mà vấn đề là các em học sinh của chúng
1


ta đã thực hiện kỹ năng sống ở mọi nơi, mọi lúc chưa? Đã lan tỏa ra diện rộng toàn
lớp, toàn trường và xã hội chưa? Đó mới là mục đích mà giáo dục cần phải đạt tới.
Vì vậy, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là một việc làm rất quan trọng và cần
thiết. Nhất là đối với học sinh lớp 1, các con còn rất bé, mọi kỹ năng đều mới mẻ.
Nhưng ở lứa tuổi này, nếu các con được rèn luyện thường xuyên thì các con hoàn
toàn có thể tiếp thu và thực hiện tốt. Xuất phát từ những yêu cầu thực tế nói trên
nên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm:
“ Một số giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 1 thông qua các môn
học”
PHẦN II: NỘI DUNG
A. Thực trạng:
1. Thuận lợi:
- Là giáo viên chủ nhiệm nên tôi nắm được tình hình, tâm lí, tính cách của
từng học sinh trong lớp.
- Giáo viên chủ nhiệm dạy nhiều bộ môn nên dễ dàng dạy tích hợp qua các
môn học, mỗi môn học lại thực hiện theo hình thức, phương pháp khác nhau sẽ
không gây nhàm chán cho học sinh.
- Tập thể học sinh khá ngoan và biết vâng lời, các em gần gũi với cô giáo.

Ngoài ra Ban lãnh đạo nhà trường luôn quan tâm, hỗ trợ cho giáo viên trong công
tác giảng dạy cũng như giáo dục.
- Bên cạnh đó tôi có được sự ủng hộ của cha mẹ học sinh trong việc cùng nhà
trường giáo dục các em
2. Khó khăn:
- Do đặc thù ở Mầm non, các em vui chơi là chính nên khi bước vào ngưỡng
cửa lớp 1, nhiều em chưa có ý thức học tập đúng đắn, các em còn mải chơi, chưa
chú trọng vào việc học. Nhiều em khá rụt rè chưa quen với cách học cũng như
mạnh dạn bày tỏ ý kiến. Khi phát biểu các em nói không rõ ràng, trả lời trống
không, không tròn câu và không nói lời cảm ơn, xin lỗi với cô, bạn bè.
- Cha mẹ học sinh trong lớp có một số bố mẹ thì quá nuông chiều, ngược lại
một số phụ huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các
hoạt động cần thiết.
- Hầu như học sinh trong lớp rất ít có hoài bão, ước mơ. Phụ huynh vì bận
nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết,
thậm chí để yên tâm làm việc, nhiều bậc cha mẹ giao điện thoại, máy tính cho các
em, dẫn đến các em bị cuốn hút theo các trò chơi điện tử và hệ thống ảo trên mạng
Internet. Đây là lí do làm cho các em xa lánh với môi trường sống thực tế và thiếu
sự tương tác giữa con người với con người, kĩ năng xã hội của học sinh ngày càng
2


kém. Điều này dẫn đến tình trạng học sinh trở nên ích kỉ, không quan tâm đến cộng
đồng.
Câu hỏi làm tôi suy nghĩ là ngoài những kiến thức phổ thông về toán, khoa
học và nhân văn, học sinh cần học điều gì để giúp các em hội nhập với xã hội, trở
thành công dân có ích cho cộng đồng. Vì thế đây cũng là nỗi lo lắng, đặt ra cho
giáo viên lớp một những suy nghĩ, trăn trở. Vì lo lắng trên, khi nhận lớp tôi đã rất
quan tâm đến mọi vấn đề tâm sinh lí cũng như kỹ năng sống của từng em, qua 2
tuần đầu quan sát, tôi thấy kết quả như sau

Bảng đánh giá kỹ năng sống của 29 học sinh lớp 1A (Đầu năm học 20182019).
Đánh giá kỹ năng
STT

Lĩnh vực thể hiện kỹ
năng

Có thái độ
tốt, tự giác

Có sự nhắc
Nhắc nhở
nhở
thường xuyên

SL

%

SL

%

SL

%

1

Biết cách giao tiếp với

người lớn

7

24,1

12

41,4

10

34,5

2

Biết ứng xử với bạn bè

7

24,1

11

38

11

38,0


3

Ứng xử với những tình
huống hàng ngày

7

24,1

8

27,6

14

48,3

4

Chấp hành nội quy của nhà
trường, lớp học

7

24,1

12

41,4


10

34,5

5

Biết hợp tác nhóm

7

24,1

12

41,4

10

34,5

Qua bảng đánh giá kỹ năng sống của 29 học sinh lớp 1A ( Đầu năm học 20182019) cho thấy các kỹ năng của các em chưa ổn định, nhiều em thực hiện các kỹ
năng chưa tích cực, chưa tự giác, còn thụ động (số em phải nhắc nhở và nhắc nhở
thường xuyên chiếm trên 70%)
3. Nguyên nhân
- Đa số học sinh sống trong hai môi trường có hoàn cảnh khác nhau: một là
được sự quan tâm chăm sóc quá sức chu đáo của phụ huynh vì sống trong gia đình
ít con, hoàn cảnh kinh tế ổn định lại cưng chiều con. Cái gì cha mẹ cũng muốn làm
thay cho trẻ dẫn đến sự thụ động của các em trong mọi tình huống của cuộc sống;
hai là những đứa con sống trong gia đình không hạnh phúc, như: bố rượu chè, cờ
bạc…bố mẹ phải vất vả lo toan cho cuộc sống mưu sinh, bỏ mặc con cái cho nhà

3


trường. Hai môi trường, hai hoàn cảnh khác nhau ấy lại thường mang đến cho các
em một thiếu sót lớn trong từng bước trưởng thành - Đó là kỹ năng sống.
- Sự phối hợp giữa cha mẹ học sinh và giáo viên chủ nhiệm chưa thường
xuyên. Vì thế việc rèn luyện kỹ năng sống chưa được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi.
B. Các giải pháp:
Từ tình hình thực tiễn trên, tôi đã cố gắng tìm nhiều biện pháp rèn luyện kĩ
năng sống cho học sinh thông qua các tiết dạy của các môn học, những giờ sinh
hoạt nhằm đem lại hiệu quả cao. Để thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng sống,
đem lại kết quả cao tôi nhận thấy cần phải áp dụng một số biện pháp sau:
Giải pháp 1: Gần gũi và tạo mối thân thiện với học sinh để giáo dục kỹ
năng giao tiếp.
Đầu tiên, sau khi tôi nhận lớp, tôi cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của
mình để qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn hay
nhút nhát, thụ động, thích thể hiện hay thu mình...Và tiếp tục qua những tuần học
sau, tôi chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học tập, những cử chỉ, hành vi
tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh phù hợp.
Để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và giáo viên chủ nhiệm, tôi tận
dụng 2 tuần 0 dành nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về bản thân, động
viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước mơ tương lai
cũng như mong muốn của các em với nhau. Đây là hoạt động giúp các em làm
quen với nhau cũng như giúp giáo viên nắm được tâm lí từng em. Có em không
mạnh dạn giới thiệu như các bạn mặc dù được giáo viên và các bạn cổ vũ, vào giờ
ra chơi tôi đã tìm hiểu và biết được do em mới ở xã khác chuyển đến không quen
bạn nào nên cảm thấy sợ, có em do tính tình hiền lành, ở nhà cũng ít nói nên khi
đứng trước tập thể rất nhút nhát. Tôi tâm sự với những em đó nhiều hơn, quan tâm
các em mọi lúc mọi nơi tạo cảm giác tin cậy với các em, khơi gợi các em nói về
mình thật nhiều. Tiết THCHD sau, tôi tổ chức cho các em thi giới thiệu về bản thân

(theo các tiêu chí: Nói chính xác về bản thân, nói to rõ ràng, cách thể hiện tự tin,
…), thật bất ngờ bởi những em hôm trước tỏ ra nhút nhát lại tham gia thi rất tích
cực. Đây, đối với tôi là một sự thành công nho nhỏ mà tôi cảm thấy rất vui và hài
lòng.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện trong bất cứ lúc nào,
giờ học nào.
Giải pháp 2: Rèn kỹ năng sống hiệu quả qua việc tích hợp vào các môn
học để giáo dục các kỹ năng đạo đức, lối sống, cách ứng xử,…
4


Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có hiệu quả tôi vận dụng vào các môn
học, tiết học, nhất là các môn như: Tiếng Việt, Đạo đức; Tự nhiên và xã hội; Giáo
dục giá trị sống và kỹ năng sống ....
Trong chương trình lớp 1, ở môn Tiếng Việt Giáo dục Công nghệ tập 2 và
tập 3, sau mỗi bài đọc có các câu tục ngữ, thành ngữ và câu hỏi tìm hiểu bài. Để
rèn kỹ năng nghe – nói và bày tỏ cảm xúc. Tôi nêu câu hỏi gợi ý học sinh trả lời.
Đối với những câu khó hiểu, tôi giảng trước sau đó hỏi những câu hỏi thực tiễn có
liên quan để học sinh trả lời.
Ví dụ: Bài vần /uy/, Tiếng việt lớp 1, tập 2 trang 14. cuối bài trang 14 có câu
“Dĩ hòa vi quý”. Đối với học sinh lớp 1, các em chưa thể hiểu được thế nào là Dĩ
hòa vi quý nên tôi giải thích trước cho các em: Ta hiểu đơn giản, “Dĩ” được dịch
hiểu là sự lấy, còn “hòa” là sự hòa nhã, khiêm tốn, “vi” ở đây có nghĩa là làm,
“quý” ở đây muốn nói đến là thứ quan trọng nhất. Trong câu tục ngữ, ta thấy có sự
xoay quanh những câu chuyện trong cuộc sống, những điều gần gũi với ta, cách
ứng xử của người - người với nhau. Toàn câu “Dĩ hòa vi quý” có nghĩa là nên biết
lấy sự hòa hợp với nhau làm trọng.
Sau đó, tôi đưa ra câu hỏi: 1. Trong lớp có bạn vô ý làm em bị ngã, bị đau, em
sẽ làm gì?
2. Có bạn đã nói những lời không hay không đẹp về em, em sẽ ứng xử với bạn

như thế nào? (Thực tế trong lớp đã có một số trường hợp xảy ra)
Sau khi đưa ra câu hỏi, tôi để học sinh trả lời. Tôi không áp đặt mà cho học
sinh nói theo cách nghĩ, cách mà các em sẽ ứng xử nếu tình huống đó xẩy ra. Sau
đó điều chỉnh suy nghĩ, cách ứng xử chưa phù hợp của các em.
Ngoài ra còn rất nhiều bài học khác rất quý giá để giáo dục tình cảm, kỹ năng
ứng xử cho các em xuyên suốt trong chương trình của bộ môn Tiếng việt 1.
Bên cạnh môn Tiếng việt thì Đạo đức là môn không thể thiếu để giáo dục các
kỹ năng sống cho học sinh. Để giá dục kỹ năng chào hỏi cho các em. Khi dạy bài
“Lễ phép, vâng lời thầy giáo, cô giáo”, (Vở bài tập đạo đức trang 33, bài 9) tôi
cho học sinh đóng vai: “Em gặp, thầy, cô trong trường”, “Em đưa sách, vở cho cô
giáo”. Lúc đầu các em rất ái ngại không tự tin thể hiện, nhưng được sự hỗ trợ của
giáo viên, cộng thêm một môi trường hoà đồng thân thiện các em thực hiện rất tốt
“khi gặp thầy cô thì lễ phép chào hỏi, Khi đưa sách vở cho cô thì đưa bằng hai tay
và lễ phép: Thưa cô sách đây ạ”. Không bó hẹp không gian, tôi mở rộng thêm “Thể
hiện lễ phép vâng lời thầy, cô khi ở nhà em cần làm gì?”, ngoài ra “cần vâng lời, lễ
phép với những ai”, để các em thực hiện vâng lời, lễ phép mọi lúc mọi nơi, với
nhiều đối tượng lớn tuổi hơn.
Để hình thành hói quen cảm ơn, xin lỗi. Khi dạy bài: "Cảm ơn, xin lỗi " (Vở
bài tập đạo đức trang 44, bài 12), tôi cho học sinh chuẩn bị những hộp thư: Cảm
5


ơn, xin lỗi và tổng kết lại vào cuối tiết. Em nào nhận được nhiều lời cảm ơn nhất sẽ
được tuyên dương. Không những vậy tôi tổ chức cho các em trao đổi:
- Em nói lời cảm ơn, xin lỗi khi nào?
- Bạn đã cảm ơn em về điều gì? Em cảm thấy như thế nào khi được bạn cảm
ơn, xin lỗi?... qua đó các em sẽ bộc lộ những suy nghĩ của mình.
Rèn kĩ năng sống có hiệu quả còn được tôi vận dụng khá nhiều trong trong
các môn học thông qua xử lí tình huống hay các trò chơi học tập có nội dung gần
gũi với cuộc sống hằng ngày của các em. Như trong môn Tự nhiên và xã hội. Để

giáo dục kỹ năng ăn uống khoa học, đầy đủ chất dinh dưỡng. Ở bài: "Ăn uống
hằng ngày" tôi cho học sinh thảo luận nhóm và lên thực đơn cho các bữa ăn trong
một ngày: Sáng, trưa, tối dưới sự trợ giúp của giáo viên. Sau khi học sinh nhận xét
thực đơn của nhau, học sinh sẽ khắc sâu kiến thức về một bữa ăn đầy đủ cần đảm
bảo các chất dinh dưỡng...
Các em làm việc tích cực, vui vẻ, tự mỗi em nói được tiếng nói, suy nghĩ của
mình với bạn bè, với thầy cô một cách tự tin mạnh dạn. Việc rèn luyện các kĩ năng
này đã tạo ra được thói quen tốt cho bản thân mỗi em, các em tham gia một cách
chủ động tích cực vào quá trình học tập, tạo điều kiện cho các em chia sẻ những
kinh nghiệm, ý kiến hay để giải quyết vấn đề.
Ngoài ra tôi chú ý Rèn luyện sức khoẻ và ý thức bảo vệ sức khoẻ, kĩ năng bảo
vệ bản thân qua các bài: “Vệ sinh thân thể; Hoạt động và nghỉ ngơi; Ôn tập con
người và sức khoẻ; Trời nắng, trời mưa...” giáo dục các em hiểu rằng thân thể sạch
sẽ giúp cho chúng ta khoẻ mạnh, biết những việc nên làm và không nên làm để cơ
thể luôn sạch sẽ, có ý thức tự giác làm vệ sinh cá nhân hằng ngày, tự giác thực hiện
nếp sống vệ sinh, khắc phục những hành vi có hại cho sức khoẻ. Biết tham gia các
hoạt động và nghỉ ngơi một cách hợp lí để có sức khoẻ tốt. Có ý thức bảo vệ sức
khoẻ khi đi dưới trời nắng, trời mưa.
Ngoài ra để các em có kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông, đuối nước và
các thương tích khác tôi đã giáo dục các em thông qua các tiết: Giáo dục giá trị
sống và kỹ năng sống (trong đó có Văn hóa giao thông), hướng dẫn các em phòng
chống tai nạn giao thông và các thương tích khác bằng cách đưa ra những tình
huống cho các em xử lí.
Ví dụ: Bài 1. Đội mũ bảo hiểm (Sách Văn hóa giao thông trang 4)
- Khi ngồi trên xe máy em phải như thế nào? Em hãy nêu cách đội mũ bảo
hiểm? Nêu sự cần thiết phải đội mũ bảo hiểm?
- Các em đã nhìn thấy tai nạn trên đường chưa? Theo các em vì sao tai nạn
xảy ra?
Ví dụ: Bài 7. Không đùa nghịch trên đường (Sách Văn hóa giao thông trang
27)

6


- Các em có nên chơi đùa trên đường không? Tại sao?
- Nếu bạn rủ em chơi đá bóng trên đường đi học về em sẽ trả lời bạn như thế
nào?
Ở bài: "Văn minh lịch sự khi đi bộ " (bài 4, trang 16) các em sẽ học được:
Khi đi bộ trên đường, cần đi vào lề đường bên phải, không dàn hàng, không hò hét,
ném đá gây mất trật tự trên đường, làm ảnh hưởng giao thông qua lại đặc biệt
những chỗ đông người như trước cổng trường, chợ,…
Để phát triển kỹ năng hợp tác nhóm, tôi vận dụng trong nhiều môn học, đặc
biệt là môn Toán. Đối với những bài khó, tôi sẽ gợi ý và cho cả lớp thực hiện;
những bài đã học, vừa tầm các em, tôi sẽ cho làm việc theo nhóm (tùy số lượng bài
để phân nhóm đôi, nhóm bốn hay nhóm lớn). Việc học theo nhóm tạo môi trường
làm việc thân thiện, giúp các em cải thiện hành vi giao tiếp thông qua các hoạt
động trao đổi diễn ra thường xuyên. Các em trở nên thân thiện, từ đó giúp bầu
không khí học tập, lao động trở nên sôi động hơn. Tham gia hoạt động theo nhóm
giúp các em học sinh hưng phấn hơn trong học tập và tạo nên cách ứng xử hợp lý
trong mọi tình huống. Đó cũng là cách tạo sự gần gũi giữa các em với nhau.
Hiệu quả đào tạo kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con số chính
xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: các em có ý thức, thái độ
khác với mọi người trong gia đình; luôn hoà đồng với bạn bè; tự tin khi nói
năng ... đó chính là hiệu quả từ rèn kỹ năng sống.
Giải pháp 3: Rèn kỹ năng ứng xử có văn hóa qua các tiết giáo dục tập
thể, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp:
Ngay những ngày đầu tiên khi các em vào lớp học, tôi đã phát động các
phong trào: "Nói lời hay làm việc tốt" qua cách ứng xử lễ phép như biết đi thưa về
trình, chào hỏi những người lớn tuổi, biết xin lỗi khi có khuyết điểm, cám ơn khi
được tặng quà, vui vẻ hoà nhã với bạn bè ... và tổng kết vào các tiết sinh hoạt lớp.
Tôi học cách lắng nghe, tìm hiểu nguyên nhân, và dùng lời lẽ mềm mỏng bằng

những tình cảm, cử chỉ yêu thương của mình khi yêu cầu điều gì đó với học sinh.
Tránh nói nặng lời để các em bớt đi tính hung hăng đối với những học sinh nghịch
ngợm, mắc lỗi.
Để rèn kĩ năng sống có hiệu quả tôi còn vận dụng thông qua các hoạt động
ngoài giờ học. Đó là các buổi sinh hoạt chủ đề, giao lưu, tôi cho các em tham gia
và phân nhiệm vụ cụ thể để các em phát huy vai trò bản thân.
Ngoài ra những buổi chào cờ, tôi kết hợp với cô Tổng phụ trách Đội khuyến
khích các em xung phong trả lời những câu hỏi mà cô Tổng phụ trách hay hỏi ... để
rèn sự mạnh dạn, tự tin trước đám đông cho học sinh.
Không những thế, tôi còn khuyến khích các em cùng chia sẻ những cảm nhận,
những suy nghĩ, những quan sát của mình với cô với bạn một cách thoải mái, tự
7


nhiên không gò bó, áp đặt. Hoặc ở những giờ sinh hoạt lớp cuối tuần, giờ ra chơi
tôi cùng các em tham gia những trò chơi dân gian hay cùng chia sẻ với nhau những
cuốn sách hay.
Như vậy bằng nhiều hình thức khác nhau, tôi luôn cố gắng rèn cho học sinh
những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh trong
nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí trong
mọi trường hợp.
Giải pháp 4: Động viên khen thưởng
Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng,
ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học tôi đưa ra kế hoạch rèn luyện cho các em
lớp tôi phụ trách. Trao đổi với cha mẹ học sinh cùng phối hợp và dành một khoản
riêng để khen thưởng kịp thời động viên các em để tạo cho các em có một động cơ
tốt trong việc duy trì thực hiện. Tôi theo dõi hằng ngày các em có biểu hiện tốt tôi
ghi vào sổ, trong tiết sinh hoạt cuối tuần cho các em bình chọn những bạn thực
hiện tốt sẽ được một bông hoa màu đỏ.
Mỗi học kỳ tôi tổng kết 1 lần (năm 4 kì) để khen thưởng những em đã đạt

nhiều hoa màu đỏ bằng những phần quà nhỏ. Các em rất vui và hãnh diện khi được
tặng những bông hoa điểm tốt và những món quà của cô giáo tặng. Vì thế các em
không ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được nhận những bông mà cô giáo
thưởng. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các em
sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn
trong cuộc sống.
C. Kết quả đạt được
Khó có thể cân đong đo đếm kết quả rèn luyện kỹ năng sống của các em
nhưng sau một thời gian áp dụng các giải pháp trên, lớp tôi chủ nhiệm đã có nhiều
chuyển biến, thể hiện trên các mặt:
- Hành vi thái độ của học sinh thay đổi rõ rệt: những học sinh dễ bị kích động,
nghịch ngợm, hay chọc ghẹo các bạn trong lớp nay ham học hơn, rất chăm chú
nghe cô giảng bài, có những cử chỉ, hành vi cao thượng giúp đỡ bạn bè, tự giác lao
động và thực hiện tốt nề nếp lớp, biết vì tập thể hơn.
- Các em có ý thức tự quản tốt hơn thể hiện rõ qua việc điều hành sinh hoạt
lớp và tổ chức sinh hoạt 15 phút đầu giờ, có ý thức tự giác trong học tập và lao
động.
- Tham gia các hoạt động ngoại khoá một cách tích cực và áp dụng những
điều hay, những việc làm tốt vào trong học tập và cuộc sống.
- Học sinh mạnh dạn và tự tin hơn, không còn e dè, rụt rè và sợ sệt như trước
kia. nữa.
8


- Trong giao tiếp ứng xử với mọi người có nhiều tiến bộ. Biết chào hỏi lễ phép
đối với người lớn tuổi, biết cảm ơn khi được giúp đỡ, biết xin lỗi khi mắc lỗi…Vệ
sinh cá nhân sạch sẽ, gọn gàng. Biết suy nghĩ và cảm thông trước những hoàn cảnh
khó khăn. Tự giác trong lao động bảo vệ môi trường như làm vệ sinh lớp học, hành
lang, biết tiết kiệm giấy để làm vở nháp sau đó gom lại làm kế hoạch nhỏ. Đặc biệt
là sau buổi học, các em tự giác nhắc nhở nhau tắt các công tắc điện trong lớp.

Những học sinh chậm, lười học nay tiến bộ rõ rệt như em Sầm Khánh Duy, em
Sầm Thị Yến Nhi, em Lương Tuấn Khanh…Các em rất tích cực hưởng ứng các
cuộc vận động từ thiện do Liên đội phát động, trong mỗi đợt phát động, lớp tôi bao
giờ cũng hoàn thành đầu tiên và được cô Tổng phụ trách tuyên dương trước toàn
Liên đội.
Bảng đánh giá kỹ năng sống của 29 học sinh lớp 1A Tại thời điểm tuần 28
năm học 2018 - 2019).
Đánh giá kỹ năng
STT

Lĩnh vực thể hiện kỹ
năng

Có thái độ
tốt, tự giác

Có sự nhắc
Nhắc nhở
nhở
thường xuyên

SL

%

SL

%

SL


%

1

Biết cách giao tiếp với
người lớn

15

51,7

10

34,5

4

13,8

2

Biết ứng xử với bạn bè

14

48,3

12


41,4

3

10,3

3

Ứng xử với những tình
huống hàng ngày

13

44,8

12

41,4

4

13,8

4

Chấp hành nội quy của nhà
trường, lớp học

15


51,7

10

34,5

4

13,8

5

Biết hợp tác nhóm

13

44,8

12

41,4

4

13,8

Qua bảng so sánh trước và sau thực nghiệm cho thấy các kỹ năng sống của
các em học sinh lớp 1A có sự tiến bộ rõ rệt. Các em có thái độ tốt hơn, tự giác hơn,
số em phải nhắc nhở và nhắc nhở thường xuyên giảm. Từ đó chất lượng giáo dục
cũng được nâng lên. Cụ thể:

* Tại thời điểm giữa học kì 2, năm học 2018 – 2019:
Đánh giá về năng lực và phẩm chất:
9


Đánh giá
Năng lực

Phẩm chất

T

TL

Đ

TL

C

TL

Tự phục vụ, tự quản

10

43,5 18 62,1

1


3,4

Hợp tác

10

43,5 18 62,1

1

3,4

Tự học và giải quyết vấn đề

8

27,6 20 69,0

1

3,4

Chăm học, chăm làm

14

48,3 14 48,3

1


3,4

Tự tin, trách nhiệm

12

41,4 17 58,6

0

Trung thực, kỷ luật

12

41,4 17 58,6

0

Đoàn kết, yêu thương

14

41,4 15 58,6

0

PHẦN III: KẾT LUẬN
1. Bài học kinh nghiệm
- Giáo dục kỹ năng sống chỉ thực sự có hiệu quả khi người giáo viên có tâm
huyết, có trách nhiệm và lòng kiên nhẫn.

- Giáo dục kỹ năng sống phải có những giải pháp phù hợp với tâm sinh lí lứa
tuổi.
- Giáo viên luôn có ý thức tôn trọng nhân cách và ý kiến của học sinh. Vận
dụng hợp lí các hình thức khen thưởng kịp thời, nhằm khuyến khích học sinh mạnh
dạn, tự tin, chủ động, sáng tạo trong học tập và rèn luyện. Thường xuyên theo dõi
để kiểm tra xem học sinh đã vận dụng kiến thức đã học ở mức độ nào để có biện
pháp điều chỉnh phù hợp.
- Cần chú ý liên hệ thực tế trong bài dạy, luôn tìm tòi, cập nhật những thông
tin liên quan.
- Giáo viên cần nắm vững và sử dụng thành thạo các phương pháp dạy học
tích cực để dạy lồng ghép nâng cao hiệu quả tiết dạy.
- Cần tạo một môi trường học tập thân thiện để các em coi "Trường học thật
sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người
thân trong gia đình". Đây cũng là một điều kiện theo tôi là rất quan trọng để phát
triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin
trong một môi trường mà giáo viên luôn gò bó và áp đặt.
2. Kết luận và kiến nghị
2.1. Kết luận:
Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của xã
hội, các em không chỉ biết học giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện những
10


kĩ năng sống qua đó tạo cho các em một môi trường lành mạnh, an toàn, tích cực,
vui vẻ. Việc giáo dục kĩ năng sống ngay từ lớp nhỏ sẽ rút ngắn thời gian để trang bị
cho các em vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để làm hành trang bước vào đời.
Chính vì vậy, các thầy cô giáo tiểu học luôn giữ vai trò vô cùng quan trọng. Vì thế
theo tôi để làm tốt việc rèn kĩ năng sống cho học sinh, mỗi thầy cô giáo cần phải:
- Xác định rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng sống cho học
sinh.

- Nắm vững những đặc trưng về phương pháp và hình thức tổ chức dạy các kĩ
năng giao tiếp, ứng xử vào các môn học và các hoạt động khác.
- Tập trung vào việc đầu tư soạn giảng, lồng ghép kĩ năng sống vào các môn
học.
- Luôn tạo mọi điều kiện để các em có thể bày tỏ, thể hiện mình, tham gia tốt
các buổi hoạt động ngoại khóa của trường, lớp.
- Điều quan trọng là mỗi thầy cô giáo phải rèn cho mình tác phong sinh hoạt
chuẩn mực, phải hết lòng thương yêu, gần gũi với học sinh.
Sống, học tập, lao động là những vấn đề thiết yếu mà tôi luôn cố gắng để ươm
mầm cho thế hệ trẻ. Bởi trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai của đất nước,
là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, là nhân tố để cây đời
mãi mãi xanh tươi. Việc chăm sóc và giáo dục trẻ em, bồi dưỡng trẻ em trở thành
công dân tốt của đất nước là một công việc vô cùng quan trọng mà mỗi giáo viên
chúng tôi phải cùng có trách nhiệm.
2. Kiến nghị:
a. Về phía nhà trường
- Đội ngũ giáo viên cần được bồi dưỡng về phương pháp, thường xuyên tổ
chức các chuyên đề lồng ghép giáo dục kỹ năng sống để giáo viên có điều kiện học
hỏi, rút kinh nghiệm và chia sẻ với nhau trong quá trình giảng dạy.
- Tạo điều kiện để học sinh có thời gian thực hành những kiến thức đã học để
áp dụng vào thực tế. Thư viện trường cần trang bị và giới thiệu với học sinh nhiều
sách giáo dục về kỹ năng sống để học sinh tìm đọc và tự rèn luyện, áp dụng thêm.
- Tổ chức nhiều hoạt động ngoài giờ lên lớp để các em được tham gia học tập,
rèn luyện. Hằng năm, vào dịp hè nhà trường có thể tạo điều kiện cho học sinh được
đi tham quan các di tích lịch sử văn hóa, các danh lam thắng cảnh địa phương …
Để các em được mở rộng kiến thức, thực hành kỹ năng…
b. Về phía cha mẹ học sinh
Cùng phối hợp với nhà trường trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Không nên bỏ mặc con em, khoán trắng cho nhà trường hay làm thay tất cả mọi
việc của trẻ. Tạo mọi điều kiện để các em tự bộc lộ khả năng và tự làm mọi việc

11


phù hợp với lứa tuổi. Thường xuyên hướng dẫn trẻ thực hành kỹ năng sống tại gia
đình, uốn nắn kịp thời những hành vi giao tiếp chưa đúng chuẩn mực.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng trong việc giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh của lớp mình. Trong phạm vi bài viết không tránh khỏi những
hạn chế, thiếu sót, vậy rất mong nhận được sự góp ý chân thành của Hội đồng khoa
học để tôi thực hiện tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

12



×