Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CÔNG NGHỆ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.46 MB, 66 trang )

KÝ HIỆU CỤM TỪ VIẾT TẮT

SGK

: Sách giáo khoa

GV

: Giáo viên

HS

: Học sinh

PPDH

: Phương pháp dạy học

THPT

: Trung Học Phổ Thông

TNKQ

: Trắc nghiệm khách quan

TNTL

: Trắc nghiệm tự luận

TL



: Tự luận

KT, KN

: Kiến thức, kĩ năng

Ch

: Chuẩn

5


PHẦN I: MỞ ĐẦU
Kiểm tra, đánh giá kết quả hoc tập của học sinh là một khâu quan trọng
trong quá trình dạy học. Cùng với việc đổi mới chương trình SGK và PPDH thì
kiểm tra, đánh giá cũng phải đổi mới cho phù hợp với những thay đổi trong dạy
học hiện nay.
Để thực hiện mục tiêu đề ra, việc đánh giá kết quả giáo dục phổ thông là
rất cần thiết nhằm đánh giá kết quả giáo dục của học sinh ở các môn học và các
hoạt động giáo dục ở mỗi lớp, cấp học. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của
học sinh cần đảm bảo tính khách quan; toàn diện, khoa học và trung thực; phải
căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng và yêu cầu về thái độ của học sinh đối với
môn Công nghệ nói riêng; phối hợp đánh giá thường xuyên, định kì, đánh giá
của giáo viên và tự đánh giá của học sinh, đánh giá của nhà trường, cộng đồng
và toàn xã hội nhằm xác định căn cứ để điều chỉnh trong quá trình giáo dục, góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Về phương pháp đánh giá, cần
phải thừa kế những ưu điểm của các phương pháp đánh giá trước đây, phối hợp
các hình thức đánh giá tự luận và trắc nghiệm khách quan trên cơ sở tính đến

đặc thù của từng môn học, đặc biệt cần sử dụng phương pháp cho phù hợp.
Trong đổi mới chương trình dạy học hiện nay, SGK Công nghệ được biên
soạn theo hướng mở. Cách tiếp cận các kiến thức, khái niệm, nguyên lý kĩ thuật
trong nội dung của mỗi bài được dẫn dắt gợi ý dưới dạng các câu hỏi mở hoặc
các nội dung mang tính định hướng để GV tìm hiểu và hướng dẫn học sinh học.
Cùng với sự thay đổi về nội dung SGK thì yêu cầu về đổi mới kiểm tra,
đánh giá đối với các môn học nói chung, với môn Công nghệ nói riêng là bắt
buộc phải thực hiện cho phù hợp. Vì vậy, qua đợt tập huấn hè 2012 về việc chỉ
đạo hướng dẫn biên soạn đề kiểm tra môn Công nghệ cấp THPT áp dụng từ năm
học 2012 - 2013, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu nội dung chương trình SGK, tài
liệu hướng dẫn chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Công nghệ 11 và rút ra được MỘT
SỐ KINH NGHIỆM RA ĐỀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP
MÔN CÔNG NGHỆ 11 CỦA HỌC SINH THPT THEO CHUẨN KIẾN
THỨC, KĨ NĂNG.
6


PHẦN II: NỘI DUNG
I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU:
1. Cơ sở lí luận:
"Kiểm tra","đánh giá" theo chuẩn kiến thức, kĩ năng để nhận định đúng
năng lực học tập của từng đối tượng học sinh là một khâu quan trọng không thể
thiếu được trong quá trình dạy học nói chung và dạy học môn Công nghệ THPT
nói riêng. Trước yêu cầu của việc đổi mới chương trình SGK và đổi mới PPDH
môn Công nghệ hiện nay thì đổi mới hình thức kiểm tra, đánh giá là một vấn đề
rất cần thiết nhằm loại bỏ kiểu học tủ, học vẹt của HS vẫn thường diễn ra từ
trước.
Mục đích của kiểm tra, đánh giá là xác định được mức độ tiếp thu kiến
thức, rèn luyện các kĩ năng và khả năng tư duy: phân tích, tổng hợp, nhận định,
hệ thống hóa, khái quát hóa,…của HS. Qua kiểm tra, đánh giá, học sinh tự nhận

biết được khả năng học tập của mình và giáo viên thấy được khả năng nhận
thức, mức độ kĩ năng của HS để có những điều chỉnh phù hợp trong quá trình
dạy - học.
Kiểm tra, đánh giá là hai công việc có nội dung và tính chất khác nhau
nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Kiểm tra để đánh giá, đánh giá để có
những điều chỉnh thích hợp đối với từng bộ môn. Riêng đối với môn Công nghệ
thường là kiểm tra rồi mới đánh giá tình hình học tập của học sinh.
Yêu cầu đổi mới kiểm tra, đánh giá: Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
môn Công nghệ 11 cần tập trung vào các vấn đề sau:
+ Nội dung kiểm tra, đánh giá phải sát với chương trình, đáp ứng được
mục tiêu của môn học, từng phần và trình độ chuẩn của học sinh.
+ Phải phát huy được tính tích cực, tư duy sáng tạo.
+ Câu hỏi kiểm tra phải đảm bảo vừa sức đối với HS, đồng thời phân loại
được học sinh để GV có biện pháp thích hợp nhằm nâng cao chất lượng dạy học;
bồi dưỡng nhận thức về nghề nghiệp tương lai cho HS.

7


+ Kết quả kiểm tra phải phản ánh đúng khả năng tư duy nhận thức, mức
độ phát triển về kiến thức, kĩ năng, thái độ học tập của mỗi HS. Chỉ ra hướng
học tập, phát triển về lĩnh vực nghề nghiệp cho những năm học tiếp theo.
2. Cơ sở thực tiễn:
Từ những cơ sở lí luận trên, bắt đầu từ những năm học trước, Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã định hướng việc đổi mới cách kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập của HS ở các môn học nói chung, từ năm học 2012 -2013 chỉ đạo thực hiện
đối với môn Công nghệ THPT nói riêng với mục tiêu là giúp giáo viên có thể
thấy được mức độ tiếp nhận, lĩnh hội kiến thức của HS đến đâu để từ đó điều
chỉnh cách dạy học sao cho HS có thể đạt được kết quả cao hơn trong học tập và
rèn luyện. Tuy nhiên trên thực tế vấn đề này vẫn còn gặp nhiều khó khăn từ

trong nhận thức, quan niệm của giáo viên và cả học sinh.
2.1. Đối với giáo viên:
+ Việc ra đề kiểm tra vẫn còn mang tính chủ quan. Trước đây, các tiết
kiểm tra một tiết hoặc 15 phút giáo viên dạy lớp nào ra đề lớp đó dẫn đến việc
kiểm tra, đánh giá HS giữa các giáo viên bộ môn cùng khối lớp chưa thật sự
công bằng và khách quan, ảnh hưởng đến kết quả học tập của học sinh (do nội
dung, yêu cầu, hình thức ra đề, cách thức tổ chức kiểm tra giữa các giáo viên có
sự khác nhau).
+ Cách ra đề cũng chưa thực sự có những đổi mới, chưa bám vào Chuẩn
kiến thức, kĩ năng để thực hiện. Các dạng đề ra còn lặp lại khá nhiều giữa các
lớp và qua các năm, dễ gây sự nhàm chán và việc học tủ trong học sinh, không
phát huy được khả năng tư duy và sáng tạo của các em.
+ Việc chấm chữa cũng còn nhiều hạn chế, chưa có quy trình chặt chẽ và
thống nhất.
2.2. Đối với học sinh:
+ Một bộ phận học sinh ý thức học tập còn thấp, còn học theo kiểu đối
phó. Việc học sinh sử dụng tài liệu, quay cóp, trao đổi nội dung bài làm trong
kiểm tra, thi cử đang có chiều hướng gia tăng và hình thức ngày càng tinh vi
hơn.
8


+ Đối với môn Công nghệ, học sinh thường không chú trọng mà coi đó là
một môn học phụ nên việc kiểm tra, đánh giá còn mang nặng tính sao chép, học
thuộc vẹt chưa có sự sáng tạo và liên hệ mật thiết với thực tế môn học.
Trên cơ sở thực tiễn của việc dạy học bộ môn Công nghệ và việc tiếp thu
phương pháp dạy học đổi mới trong đó có đổi mới việc kiểm tra, đánh giá, nhóm
Công nghệ trong trường THPT nơi tôi đang trực tiếp giảng dạy đã thực hiện
được một số hoạt động nhằm nâng cao chất lượng kiểm tra, đánh giá học sinh
qua các bài kiểm tra.

II. NHỮNG GIẢI PHÁP CHÍNH:
1. Nhận thức: Mỗi một GV cần xác định đúng mục đích, yêu cầu và quy
trình của kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến thức, kĩ năng để thực hiện.
1.1. Kiểm tra:
Kiểm tra là cách thức hoạt động của giáo viên nhằm thu thập thông tin về
biểu hiện kiến thức, kĩ năng, thái độ của HS trong học tập nhằm cung cấp dữ
kiện làm cơ sở cho việc đánh giá. Đây là giai đoạn kết thúc của quá trình giảng
dạy, học tập một chương, một phần, một quá trình dạy- học của thầy và trò.
Kiểm tra là một chức năng cơ bản, quan trọng trong quá trình dạy học nhằm
những mục đích sau:
a. Đánh giá: Việc kiểm tra giúp giáo viên đánh giá được kết quả học tập
của HS, HS cũng xác định được mức độ đạt được của mình so với yêu cầu
chung.
b. Phát hiện: Việc kiểm tra giúp giáo viên và học sinh phát hiện những
mặt đạt được và chưa đạt được của mình trong quá trình dạy của GV và quá
trình học của HS so với yêu cầu chung của môn học.
c. Điều chỉnh: Việc kiểm tra giúp giáo viên và học sinh tìm được những
điều chỉnh cần thiết trong quá trình dạy và học, loại trừ những lệch lạc, tháo gỡ
những khó khăn, tìm ra những giải pháp tối ưu giúp HS tiếp thu được tri thức, kĩ
năng tốt hơn.

9


1.2. Đánh giá:
Đánh giá kết quả học tập của HS là quá trình thu thập và xử lí thông tin về
trình độ, khả năng đạt được mục tiêu học tập của HS cùng với tác động và
nguyên nhân của tình hình đó, nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm
của giáo viên và nhà trường để HS học tập ngày một tiến bộ hơn. Trong thực tế,
việc đánh giá đạt độ chính xác và khách quan càng cao bao nhiêu thì sự tiếp cận

yêu cầu về Chuẩn kiến thức, kĩ năng của HS càng cao bấy nhiêu. Việc đánh giá
có tác dụng tích cực cho cả học sinh, giáo viên và nhà trường:
a. Đối với học sinh:
+ Làm rõ được quá trình lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng, phát triển
tư duy theo yêu cầu chung của bộ môn.
+ Học sinh tự nhận thức và đánh giá được khả năng học tập của mình.
+ Mục đích quan trọng nhất của việc kiểm tra, đánh giá đối với HS là giúp
các em phát hiện những thiếu sót, lệch lạc của mình trong quá trình học tập, rèn
luyện để có những điều chỉnh về phương pháp học tập cho phù hợp.
b. Đối với giáo viên:
+ Thông qua kết quả kiểm tra, đánh giá để tự đánh giá việc giảng dạy của
mình.
+ Qua kết quả đánh giá, giáo viên thấy được những ưu điểm để phát huy
và quan trọng là phát hiện được những tồn tại, thiếu sót để tìm ra nguyên nhân,
biện pháp khắc phục và tự điều chỉnh phương pháp giảng dạy, kiểm tra, đánh giá
cho phù hợp.
c. Đối với nhà trường:
Đối chiếu kết quả kiểm tra, đánh giá của từng bộ môn với mục tiêu đã đề
ra, đặc biệt là những tồn tại, thiếu sót để tìm ra nguyên nhân và có kế hoạch chỉ
đạo sát hợp.
Như vậy kiểm tra, đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu trong
qua trình dạy và học. Để quá trình dạy học của GV và quá trình học của HS đạt
kết quả tối ưu thì người dạy và người học phải xác định đúng đắn mục tiêu cũng

10


như yêu cầu của kiểm tra, đánh giá và xem đây như là một mắt xích không thể
thiếu trong quá trình đổi mới phương pháp dạy - học.
2. Quá trình thực hiện việc kiểm tra, đánh giá tại cơ sở:

Trong phương hướng hoạt động của nhóm chuyên môn Công nghệ năm
học 2012 - 2013, nhóm đã quán triệt cho giáo viên tinh thần đổi mới phương
pháp giảng dạy trong đó có đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá. Ở học kì I,
nhóm đã tổ chức cho GV học tập, nghiên cứu chuẩn kiến thức, kĩ năng và triển
khai chuyên đề Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá theo hướng dẫn của
Bộ GD&ĐT để áp dụng trong dạy và học ở học kì II, giáo viên tiếp tục học tập,
triển khai thực hiện chuyên đề Biên soạn đề kiểm tra và đã thực hiện được một
số phương diện đổi mới trong kiểm tra, đánh giá.
2.1. Đổi mới hình thức đánh giá:
a. Kiểm tra miệng:
+ Thời gian kiểm tra: GV không nhất thiết phải kiểm tra đầu tiết học mà
có thể kiểm tra trong cả quá trình dạy học ở trên lớp. Tuy nhiên nói như thế
không có nghĩa là bỏ bước kiểm tra bài cũ ở phần đầu tiết học. Bước này có
những tác dụng tích cực trong quá trình dạy học.
+ Nội dung kiểm tra: Không nhất thiết là kiểm tra kiến thức cũ của bài
học trước mà cần có sự tích hợp với nội dung bài mới. Cần chú ý đa dạng hóa
các loại câu hỏi với nhiều cấp độ khác nhau (nhận biết, thông hiểu, vận dụng)
b. Kiểm tra viết:
Kiểm tra viết thường dùng hai hình thức là trắc nghiệm khách quan và tự
luận. Hình thức trắc nghiệm khách quan có những ưu điểm và những hạn chế
nhất định nên nhóm chỉ đạo giáo viên chỉ dùng hình thức này để kiểm tra khi đã
bảo đảm những yêu cầu cơ bản nhằm khắc phục những nhược điểm của hình
thức này. Khi đánh giá HS qua kiểu bài tự luận đặc biệt là đối với nội dung Vẽ
kĩ thuật, nguyên lí làm việc của động cơ hoặc hệ thống..., giáo viên cần chú ý
các kĩ năng: Đọc được bản vẽ hình chiếu vuông góc của vật thể đơn giản; Vẽ
được các hình chiếu vuông góc và hình cắt, mặt cắt; hình chiếu trục đo của vật
thể đơn giản...; Đọc được sơ đồ nguyên lí của động cơ đốt trong và các cơ cấu,
11



hệ thống của động cơ đốt trong; Nhận dạng được một số chi tiết và bộ phận của
động cơ... chú ý đến cách ra đề để HS làm bài bằng chính năng lực của mình,
đánh giá đúng thực chất bài làm của các em.
2.2. Đổi mới nội dung đánh giá:
a. Chú ý kiểm tra một cách toàn diện các kiến thức, kĩ năng được học tập
và rèn luyện trong chương trình Công nghệ 11.
b. Khuyến khích tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong câu trả lời
hoặc bài làm của mình. Chú ý cách diễn đạt khi nói cũng như khi viết, tránh học
thuộc lòng một cách máy móc. Các câu hỏi đánh giá trình độ của HS chủ yếu là
ở khả năng nhận diện và vận dụng tri thức vào thực tế cuộc sống hơn là trình
bày khái niệm lí thuyết. Phải xây dựng nhiều dạng câu hỏi khác nhau, ví dụ:
+ Câu hỏi nhớ biết (cấp độ nhận biết);
+ Câu hỏi hiểu biết (cấp độ thông hiểu);
+ Câu hỏi vận dụng (cấp độ vận dụng thấp);
+ Câu hỏi đánh giá tổng hợp (cấp độ vận dụng cao);
2.3. Đổi mới cách thức đánh giá:
Kiểm tra tổng kết kết hợp với kiểm tra định kì, kiểm tra thực hành và
kiểm tra đột xuất:
* Kiểm tra tổng kết: là các bài kiểm tra học kì I và học kì II, được thực
hiện sau khi HS đã học hết một học kì, một năm học nhằm đánh giá kết quả
chung của một học kì hoặc cả năm học để chuẩn bị cho học kì tiếp sau, cho năm
học mới.
* Kiểm tra định kì: thường là kiểm tra thời gian là 45 phút, được tiến hành
sau mỗi chương hoặc phần, nhằm củng cố những kiến thức trọng tâm. Kết quả
kiểm tra định kì giúp GV nhìn nhận, đánh giá lại kết quả giảng dạy của GV, học
tập của HS qua mỗi chương, phần nội dung của SGK.Thông qua kiểm tra định
kì GVđánh giá kết quả về PPDH của mình, những ưu điểm và tồn tại trong cách
dạy sau một khối lượng kiến thức nhất định, có phương án điều chỉnh cần thiết
để nâng cao chất lượng hiệu quả dạy học trước khi chuyển sang chương, phần
mới.

12


* Kiểm tra thực hành: Kiểm tra thực hành nhằm xác nhận mức độ thông
hiểu về lí thuyết để vận dụng những kiến thức đã học và vốn kiến thức thực tế để
thực hành. Khi kiểm tra thực hành, GV thường thực hiện kiểm tra kĩ năng, kĩ
xảo thực hành đối với bài học.
* Kiểm tra đột xuất bao gồm kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phút:
- Khi kiểm tra miệng giáo viên có thể kiểm tra đầu tiết học và trong quá
trình học. Câu hỏi kiểm tra kiến thức bài học cũ cũng cần chú ý đến cấp độ: câu
hỏi nhận biết, thông hiểu đối với HS yếu - trung bình và câu hỏi vận dụng, phân
tích, tổng hợp dành cho HS khá giỏi. Việc kiểm tra miệng kiến thức bài học cũ
vào đầu mỗi tiết học một cách thường xuyên cũng có những hiệu quả nhất định.
Đó là thói quen học bài cũ. Nếu ít kiểm tra vào đầu tiết học thì HS thuộc loại
yếu kém, chây lười sẽ chủ quan, ỷ lại làm cho kết quả học tập sa sút. Trong quá
trình dạy học, giáo viên cũng có thể kiểm tra bài học cũ nhưng cũng cần chú ý
thời điểm và nội dung câu hỏi. Chỉ nên hỏi khi cần phải nhắc lại kiến thức cũ để
mở rộng kiến thức mới sắp học.
- Kiểm tra 15 phút có thể sử dụng hình thức trắc nghiệm hoặc tự luận.
Nếu sử dụng hình thức trắc nghiệm khách quan thì cần chú ý những hạn chế của
hình thức này để khắc phục. Cũng có thể sử dụng hình thức tự luận bằng những
câu hỏi nhỏ với nhiều cấp độ khác nhau.
2.4. Đổi mới khâu ra đề kiểm tra:
Như đã nói ở trên, trước đây việc ra đề chủ yếu là do giáo viên bộ môn
trực tiếp đứng lớp chịu trách nhiệm nên chất lượng đề không cao, chưa có tính
đồng đều nên khó có thể tránh khỏi những sai sót và chưa thật sự công bằng,
khách quan trong đánh giá HS. Có khi giáo viên bộ môn thường sử dụng một đề
cho nhiều năm học nên HS có thể đoán được đề dẫn dến việc các em học tủ, học
lệch. Từ học kì I năm học 2012-2013, nhóm Công nghệ trường tôi đã tiến hành
quản lí và chỉ đạo việc ra đề kiểm tra nói chung và đặc biệt là các đề kiểm tra

thường xuyên theo phân phối chương trình đã thống nhất.
Trong đổi mới phương pháp dạy học, đề kiểm tra nói chung, đề kiểm tra
Công nghệ nói riêng thường bao gồm hai loại: phần trắc nghiệm và phần tự luận.
13


Tùy theo tính chất đặc trưng của từng bộ môn mà tỉ lệ giữa hai phần này có sự
khác nhau. Đối với bộ môn Công nghệ, phần trắc nghiệm khách quan chiếm tỉ lệ
khoảng 30-40% là vừa. Tuy nhiên mỗi hình thức ra đề có những ưu điểm và tồn
tại riêng nên nhóm đã có những định hướng nhất định để hạn chế tối đa những
tồn tại đó.
a. Đề ra theo hình thức trắc nghiệm:
* Ưu điểm: Là phương pháp được sử dụng khá phổ biến hiện nay nhằm
kiểm tra, đánh giá HS về mức độ hiểu, biết và vận dụng kiến thức đã học để
phân tích, giải thích có cơ sở khoa học các nguyên lí kĩ thuật, quy trình công
nghệ trong sản xuất, đời sống. Trong quá trình thực hiện thí điểm đổi mới giáo
dục phổ thông, thí điểm SGK mới ở THPT, phương pháp này được sử dụng
nhiều vì đã thể hiện tính khách quan, hiệu quả đánh giá cao hơn các phương
pháp khác. Phương pháp trắc nghiệm bao gồm các phương pháp trắc nghiệm tự
luận và trắc nghiệm khách quan.
* Nhược điểm: Đề ra thường là quá dễ hoặc quá khó, thời gian làm bài
khá nhiều và thường là chỉ có 1-2 đề nên tình trạng HS xem bài nhau là phổ
biến, có trường hợp HS đánh “hú họa” làm cho việc đánh giá HS qua kiểm tra
không đúng thực chất hoặc dẫn đến việc học sinh chây lười, ỷ lại.
* Nguyên nhân:
- Giáo viên chưa hiểu, hoặc không quan tâm về việc xây dựng ma trận đề.
- Giáo viên chưa có điều kiện in sao nhiều mã đề cho HS.
- Tinh thần tự học của HS chưa cao, những em lười học hoặc còn yếu kém
thường trông chờ, ỷ lại những HS khá, giỏi.
b. Đề ra theo hình thức tự luận:

* Ưu điểm: Đối với bộ môn Ngữ văn thì kiểm tra theo hình thức tự luận là
một hình thức phổ biến và không thể thiếu. Kiểm tra theo hình thức tự luận giúp
người dạy đánh giá được một cách chính xác năng lực tạo lập văn bản của HS,
đánh giá được khả năng diễn đạt, tư duy sáng tạo, cách cảm nhận riêng của từng
HS.

14


* Nhược điểm:
- Thường là chỉ kiểm tra được một phần của nội dung kiến thức, kĩ năng
được học.
- Phần kiểm tra lí thuyết HS còn mang nặng thói quen sao chép nên việc
đánh giá về tính sáng tạo, khả năng cảm nhận của HS còn hạn chế.
- GV mất khá nhiều thời gian trong việc chấm bài, nhận xét, sửa chữa, …
* Để khắc phục những nhược điểm nói trên nhóm Công nghệ trường tôi
đã triển khai, thực hiện:
- Kiểm tra theo phương pháp trắc nghiệm khách quan:
+ Khi kiểm tra theo hình thức trắc nghiệm khách quan nhất thiết phải xây
dựng ma trận theo quy trình đã tiếp thu qua các đợt tập huấn.
+ Phải có nhiều mã đề trong một lần kiểm tra. Mức độ khó và phạm vi nội
dung kiểm tra giữa các mã đề phải tương đương.
+ Chỉ tổ chức kiểm tra trắc nghiệm khách quan trong thời gian ngắn (từ
15 ph trở xuống).
Tuy nhiên khi tiến hành kiểm tra GV cần chú ý:
+ Số lượng câu hỏi tương xứng với thời gian làm bài.
+ Giám sát chặt chẽ việc HS làm bài, hạn chế đến mức tối đa việc HS
quay cóp, trao đổi bài bằng nhiều hình thức tinh vi mà ngay cả giáo viên có
kinh nghiệm cũng khó phát hiện (ra dấu, qua máy tính, …)
- Kiểm tra theo phương pháp tự luận:

+ Ra nhiều câu hỏi hơn với nhiều cấp độ tư duy khác nhau.
+ Ra nhiều đề (2 - 3 đề) với nội dung và những câu hỏi có cấp độ tương
đương.
+ Ra theo hướng đề mở. Hướng các em đến những nội dung kiến thức liên
quan mật thiết với thực tế.
2.5. Đổi mới khâu chấm bài:
a. Xây dựng đáp án:
+ Đáp án cho đề đổi mới cần có tính chính xác cao, xây dựng chi tiết, cụ
thể hướng dẫn chấm và có sự thống nhất cho từng loại bài nhưng không áp đặt.
15


Chỉ nêu những ý cơ bản nhất, diễn đạt ngắn gọn. Đề trắc nghiệm cần chú ý
phương án nhiễu, hạn chế câu trả lời “Tất cả đều đúng/sai”
+ Cần tạo hướng mở cho người làm bài và cả người chấm.
b. Chấm, chữa bài:
+ Sắp xếp thời gian để chấm các bài kiểm tra cùng loại trong cùng một
thời điểm, tránh chấm “lắt nhắt” mỗi lần chỉ vài bài. Không nên có thành kiến
đối với những bài chữ viết chưa được tốt và chấm bài trong trạng thái tâm lí
không ổn định.
+ Các bài thi học kì cần có sự thống nhất cao về đề, đáp án, biểu điểm.
+ Chấm bài của HS không chỉ cho HS thấy được kết quả làm bài của
mình mà còn cho các em thấy được những ưu điểm để các em phát huy và đặc
biệt là giúp HS thấy được những tồn tại, thiếu sót, lệch lạc trong nhận thức, kĩ
năng để hướng các em sửa chữa, khắc phục.
+ Chú ý cách nhận xét, chữa và phê trong bài làm của các em, nhất là đối
với việc sử dụng các từ ngữ kĩ thuật cần phải đảm bảo độ chính xác cao, hình vẽ
phải rõ ràng. Lời phê cần rõ ràng, mang tính động viên, tránh dùng những lời lẽ
khiếm nhã, ảnh hưởng đến niềm tin của các em đối với việc học tập bộ môn.
+ Cách cho điểm cũng dựa trên tinh thần khuyến khích, động viên nhưng

phải bám vào hướng đẫn chấm. Cần chú ý và trân trọng những bài làm có sự
sáng tạo hoặc suy nghĩ trái chiều nhưng hợp lí.
2.6. Kĩ thuật xây dựng đề bài kiểm tra:
a. Xác định các cấp độ tư duy
* Cấp độ nhận biết: HS cần nhớ các khái niệm cơ bản, có thể nêu lên hoặc
nhận ra chúng khi được yêu cầu.
- Các hoạt động tương ứng: Nhận dạng, đối chiếu, chỉ ra...
- Các động từ tương ứng có thể là: Xác định, đặt tên, liệt kê, đối chiếu
hoặc gọi tên, giới thiệu, chỉ ra...
Ví dụ: Các nét liền đậm, liền mảnh biểu diễn các đường gì của vật thể?

16


* Cấp độ thông hiểu: HS hiểu các khái niệm cơ bản và có thể vận dụng
khi chúng được thể hiện theo các cách tương tự như cách GV đã giảng hoặc như
các ví dụ tiêu biểu về chúng trên lớp học
- Các hoạt động tương ứng: Diễn giải, tổng kết, kể lại, viết lại, lấy được ví
dụ theo cách hiểu của mình...
- Các động từ tương ứng: Tóm tắt, giải thích, diễn dịch, mô tả, so sánh
(đơn giản), phân biệt, đối chiếu, trình bày lại, viết lại, minh họa, hình dung,
chứng tỏ, chuyển đổi...
Ví dụ: Mặt cắt chập và mắt cắt rời khác nhau như thế nào? Quy ước vẽ ra
sao? Chúng được dùng trong trường hợp nào?
* Vận dụng ở cấp độ thấp: HS có thể hiểu được khái niệm ở một cấp độ
cao hơn "thông hiểu", tạo ra được sự liên kết loogic giữa các khái niệm cơ bản
và có thể vận dụng chúng để tổ chức lại các thông tin đã được trình bày giống
với bài giảng của GV hoặc trong SGK.
- Các hoạt động tương ứng: Xây dựng mô hình, trình bày, tiến hành thí
nghiệm, phân loại, áp dụng...

- Các động từ tương ứng: Thực hiện, giải quyết, minh họa, tính toán, diễn
dịch, bày tỏ, áp dụng, phân loại, sửa đổi, đưa vào thực tế, chứng minh, ước tính,
vận hành...
Ví dụ: Nếu ghi kích thước trên bản vẽ sai hoặc gây nhầm lẫn cho người
đọc thì đưa đến hậu quả như thế nào?
* Vận dụng ở cấp độ cao: HS có thể sử dụng các khái niệm của môn học,
chủ đề để giải quyết, giải thích các vấn đề mới, không giống với những điều đa
được học hoặc trình bày trong SGK nhưng phù hợp khi được giải quyết, với kỹ
năng và kiến thức được giảng dạy ở mức độ nhận thức này. Đây là những vấn đề
giống với các tình huống HS sẽ gặp phải ngoài xã hội.
Ở cấp độ này có thể hiểu nó là tổng hòa của cả ba cấp độ nhận thức là
phân tích, tổng hợp và đánh giá theo bảng phân loại các cấp độ nhận thức.
- Các hoạt động tương ứng: Thiết kế, tạo ra sản phẩm mới...
- Các động từ tương ứng: Lập kế hoạch, thiết kế, tạo ra...
17


Ví dụ: Yêu cầu học sinh vẽ hình chiếu trục đo để thể hiện được cả ba
chiều của một vật thể.
b. Quy trình biên soạn đề kiểm tra
- Xác định mục đích, yêu cầu đề kiểm tra: Là phương tiện để xác định
mức độ đạt được hệ thống mục tiêu môn học cần đạt của HS, qua đó đánh giá
kết quả học tập của HS đã học xong một phần, chương, một học kì hay toàn bộ
chương trình một lớp, một cấp học nào đó.
- Xác định các mục tiêu cần đo: Người biên soan đề kiểm tra cần liệt kê
đủ các mục tiêu giảng dạy để làm căn cứ so sánh, đánh giá kết quả học tập của
HS.
- Thiết lập ma trận hai chiều (một chiều thường là nội dung hay mạch kiến
thức chính cần đánh giá, một chiều là mức độ nhận thức của HS. Việc quyết
định số lượng câu hỏi cho từng mục tiêu tùy thuộc vào mức độ quan trọng của

mục tiêu đó, thời gian làm bài kiểm tra và số điểm quy định cho từng mạch kiến
thức, từng mức độ nhận thức. Cụ thể như sau:
+ Xác định số điểm cho từng mạch kiến thức được căn cứ vào số tiết quy
định trong phân phối chương trình, mức độ quan trọng của mỗi mạch kiến thức
trong chương trình mà xác định số điểm tương ứng cho từng mạch nội dung.
+ Xác định số điểm cho từng hình thức câu hỏi, tỉ lệ giữa câu hỏi tự luận
với câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
+ Xác định trọng số điểm cho từng mức độ nhận thức sao cho phù hợp.
+ Xác định số lượng câu hỏi cho từng ô trong ma trận trên cơ sở căn cứ
vào các trọng số điểm đã xác định mà có số câu hỏi tương ứng.

18


Khung ma trận đề kiểm tra trắc nghiệm khách quan (TNKQ) hoặc tự luận
(TL):
Cấp độ

Vận dụng

Cộng

Nhận

Thông

biết

hiểu


Cấp độ thấp

Cấp độ cao

(Ch)

(Ch)

(Ch)

Tên chủ đề
(nội dung,chương)

Chuẩn
KT, KN
Chủ đề 1

cần
kiểm tra

Số câu

(Ch)
Số câu

Số câu

Số câu

Số câu


Số câu

Số điểm

Số điểm

Số điểm

Số điểm

Số điểm

Số điểm

Tỉ lệ %
Chủ đề 2
Số câu

%

%

%

%

%

(Ch)

Số câu

(Ch)
Số câu

(Ch)
Số câu

(Ch)
Số câu

Số câu

Số điểm

Số điểm

Số điểm

Số điểm

Số điểm

Số điểm

Tỉ lệ %
.............
Chủ đề n
Số câu


%
.............
(Ch)
Số câu

%
.............
(Ch)
Số câu

%
.............
(Ch)
Số câu

%
.............
(Ch)
Số câu

%
.............

Số điểm

Số điểm

Số điểm

Số điểm


Số điểm

Số điểm

Tỉ lệ %
Tổng số câu

%
Số câu

%
Số câu

%
Số câu

%

%
Số câu

Tổng số điểm

Số điểm Số điểm

Số điểm

Số điểm


Tỉ lệ %

%

%

%

%

Số câu

Khung ma trận đề kiểm tra kết hợp trắc nghiệm khách quan với tự luận (TNKQ
và TL):
Nhận biết

Thông hiểu

19

Vận dụng

Cộng


Cấp độ
TNKQ

TL


TNKQ

TL

(Ch)

(Ch)

(Ch)

Số câu

Số câu

Số câu

Số điểm

Số điểm

%

%

Vận dụng thấp
TNKQ
TL

Vận dụng cao
TNKQ

TL

Chủ đề
Chuẩn
KT, KN
Chủ đề 1

(Ch)

(Ch)

(Ch)

(Ch)

Số câu

Số câu

Số câu

Số câu

Số câu

Số điểm

Số điểm

Số điểm


Số điểm

Số

Số điểm

%

%

%

%

điểm

%

cần
kiểmtra
(Ch)

Số câu
Số điểm
Tỉ lệ %

Số câu
Số điểm
%


Chủ đề 2
Số câu
Số điểm
Tỉ lệ %

%

(Ch)
Số câu
Số điểm
%

..........

Chủ đề n

(Ch)

Số điểm
Tỉ lệ %

(Ch)

(Ch)

(Ch)

(Ch)


(Ch)

Số câu

Số câu

Số câu

(Ch)

Số câu

Số câu

Số câu

Số câu

Số điểm

Số điểm

Số điểm

Số điểm

Số điểm

Số điểm


Số

Số điểm

%

%

%

%

%

%

điểm

%

%

.................
Số câu

(Ch)
Số câu

Số câu
Số điểm

%

........

.......... ......

.........
(Ch)

......

.........

......

...........

(Ch)

(Ch)

(Ch)

(Ch)

(Ch)

(Ch)

Số câu


Số câu

Số câu

Số câu

Số câu

Số câu

Số câu

Số câu

Số điểm

Số điểm

Số điểm

Số điểm

Số điểm

Số điểm

Số

Số điểm


%

%

%

%

%

%

điểm

%

%

Số câu

Số câu

Số câu

Tổng số điểm Số điểm

Số điểm

Số điểm


Số điểm

Tỉ lệ %

%

%

%

Tổng số câu

Số câu
%

Trong ma trận trên mức độ nhận biết, thông hiểu, vận dụng được xác định
trọng số điểm, từ đó GV có thể suy ra được số câu hỏi trong từng ô và trọng số
điểm trong từng ô tương ứng.
- Thiết kế câu hỏi theo ma trận: căn cứ vào mục tiêu đã được xác định và
ma trận đã thiết kế nội dung, hình thức, lĩnh vực kiến thức và mức độ nhận thức
cần đo ở HS qua từng câu hỏi và toàn bộ bài kiểm tra.
- Xây dựng đáp án và biểu điểm: Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào
tạo khi xây dựng biểu điểm cho thang điểm 10, gồm 11 bậc, từ điểm 0 đến điểm
10, có thể cho điểm lẻ 0,5. Khi xây dựng biểu điểm cần chú ý:
+ Biểu điểm với hình thức tự luận: Xây dựng theo thang điểm trên, theo
nguyên tắc chung đang thực hiện. Cách tính điểm và thiết lập ma trận đề kiểm
tra cần tuân thủ chặt chẽ các bước.
20



+ Biểu điểm với hình thức trắc nghiệm khách quan: Điểm toàn bài (10
điểm) chia cho các câu hỏi hoặc điểm toàn bài bằng số lượng câu hỏi (mỗi câu
hỏi 1 điểm), sau đó quy về thang điểm 10.
Cách 1: Lấy điểm toàn bài là 10 điểm và chia đều cho tổng số câu hỏi.
Ví dụ: Nếu đề kiểm tra có 40 câu hỏi thì mỗi câu hỏi được 0,25 điểm.
Lưu ý: cách tính này không phân biệt vị thế câu hỏi ở các bậc tư duy khác
nhau.
Cách 2: Tổng số điểm của đề kiểm tra bằng tổng số câu hỏi. Mỗi câu trả
lời đúng được 1 điểm, mỗi câu trả lời sai được 0 điểm.
Sau đó qui điểm của học sinh về thang điểm 10 theo công thức: , trong đó:
+ X là số điểm đạt được của HS
+ Xmax là tổng số điểm của đề
Ví dụ: Nếu đề kiểm tra có 40 câu hỏi, mỗi câu trả lời đúng được 1 điểm,
một học sinh làm được 32 câu đúng thì qui về thang điểm 10 là:

= 8 điểm.

Lưu ý: Cách tính này không phân biệt vị thế câu hỏi ở các bậc tư duy
khác nhau. Để khắc phục hạn chế này thì có thể cho điểm theo bậc tư duy: mỗi
câu ở bậc nhận biết đạt 0,1 điểm; mỗi câu ở bậc thông hiểu đạt 0,15 điểm; mỗi
câu ở bậc vận dụng đạt 0,2 điểm.
+ Biểu điểm cho hình thức kết hợp kiểm tra TNKQ với TL: phân phối
điểm cho từng phần (TNTL và TNKQ) theo mức độ quan trọng của nội dung và
thời gian HS làm bài.
Cách 1: Điểm toàn bài là 10 điểm. Phân phối điểm cho mỗi phần TL,
TNKQ theo nguyên tắc: số điểm mỗi phần tỉ lệ thuận với thời gian dự kiến học
sinh hoàn thành từng phần và mỗi câu TNKQ có số điểm bằng nhau.
Ví dụ: Nếu đề dành 30% thời gian cho TNKQ và 70% thời gian dành cho
TL thì điểm cho từng phần lần lượt là 3 điểm và 7 điểm. Nếu có 12 câu TNKQ

thì mỗi câu trả lời đúng sẽ được 0,25 điểm.
Cách 2: Điểm toàn bài bằng tổng điểm của hai phần. Phân phối điểm cho
mỗi phần theo nguyên tắc: Số điểm mỗi phần tỉ lệ thuận với thời gian dự kiến

21


học sinh hoàn thành từng phần và mỗi câu TNKQ trả lời đúng được 1 điểm, sai
được 0 điểm.
Khi đó cho điểm của phần TNKQ trước rồi tính điểm của phần TL theo
công thức sau: X = , trong đó:
+ XTN là điểm của phần TNKQ;
+ XTL là điểm của phần TL;
+ TTL là số thời gian dành cho việc trả lời phần TL.
+ TTN là số thời gian dành cho việc trả lời phần TNKQ.
Điểm toàn bài: X = X + X
Chuyển đổi điểm của học sinh về thang điểm 10 theo công thức: , trong
đó:
+ X là số điểm đạt được của HS;
+ Xmax là tổng số điểm của đề.
Ví dụ: Nếu ma trận đề dành 30% thời gian cho TNKQ và 70% thời gian
dành cho TL và có 12 câu TNKQ thì điểm của phần TNKQ là 12; điểm của phần
TL là: = 28 điểm. Điểm của toàn bài là: 12 + 28 = 40. Nếu một học sinh đạt
được 27 điểm thì qui về thang điểm 10 là: 6,75 điểm.
- Xem xét lại việc biên soạn đề kiểm tra:
Sau khi biên soạn xong đề kiểm tra cần xem xét lại việc biên soạn đề kiểm
tra, gồm các bước sau:
+ Đối chiếu từng câu hỏi với hướng dẫn chấm và thang điểm, phát hiện
những sai sót hoặc thiếu chính xác của đề và đáp án. Sửa các từ ngữ, nội dung
nếu thấy cần thiết để đảm bảo tính khoa học và chính xác.

+ Đối chiếu từng câu hỏi với ma trận đề, xem xét câu hỏi có phù hợp với
chuẩn cần đánh giá không? Có phù hợp với cấp độ nhận thức cần đánh giá
không? Số điểm có thích hợp không? Thời gian dự kiến có phù hợp không?
+ Thử đề kiểm tra để tiếp tục điều chỉnh đề cho phù hợp với mục tiêu,
chuẩn chương trình và đối tượng học sinh (nếu có điều kiện).
+ Hoàn thiện đề, hướng dẫn chấm và thang điểm.
c. Kĩ thuật xây dựng các câu hỏi trắc nghiệm khách quan
* Câu hỏi nhiều lựa chọn:
22


Trong đó có câu dẫn (nêu các vẫn đề kĩ thuật có nội dung xác định) và cho
sẵn các phương án trả lời (ngắn gọn; thường là 3, 4 phương án; trong đó có một
phương án đúng hoặc tốt nhất, còn lại là các câu nhiễu), HS phải lựa chọn (bằng
cách đánh dấu theo kí hiệu quy ước) phương án trả lời đúng theo hiểu biết và
trình độ của mình.
Yêu cầu đối với việc xây dựng câu hỏi loại này là: câu trả lời đúng phải
chính xác, không được gần đúng hoặc suy ra là đúng; câu nhiễu phải hợp lý,
lôgic đối với người không am hiểu hoặc hiểu chưa đúng về vấn đề được hỏi; về
hình thức câu nhiễu phải giống với câu đúng (về cấu trúc lôgic câu, độ dài...);
giữa câu đúng và câu nhiễu phải không có nhân tố phát hiện (loại trừ nhau); số
lượng câu nhiễu không nên ít hơn 3; sắp xếp phương án đúng trong các câu hỏi
theo thứ tự ngẫu nhiên;... Không đưa ra phương án “Tất cả các đáp án trên đều
đúng” hoặc “không có phương án nào đúng”.
* Câu hỏi đúng - sai:
Nghĩa là đưa ra một nhận định, yêu cầu HS phải lựa chọn một trong hai
phương án trả lời để khẳng định nhận định đó là đúng hay sai. Như vậy, câu hỏi
đúng sai thực chất là trường hợp riêng của loại nhiều lựa chọn.
Yêu cầu của loại câu hỏi này là: câu phát biểu phải hoàn toàn đúng hoặc
sai, không có ngoại lệ; câu phát biểu phải đơn giản, xác định; tránh dùng câu

phủ định nhất là phủ định hai lần.
* Câu hỏi điền khuyết:
GV nêu một mệnh đề khuyết một bộ phận, yêu cầu HS phải nghĩ ra một
nội dung thích hợp để điền vào chỗ trống. Yêu cầu cơ bản khi xây dựng loại câu
hỏi này là: Mỗi một câu điền khuyết chỉ nên để một chỗ trống để HS có thể điền
một từ hoặc một cụm từ mang tính đặc trưng kỹ thuật.
d. Kĩ thuật xây dựng các câu hỏi tự luận
- Câu hỏi phải đánh giá nội dung quan trọng của chương trình.
- Câu hỏi phải phù hợp với các mục tiêu kiến thức.
- Câu hỏi yêu cầu HS phải vận dụng kiến thức vào các tình huống mới.
- Câu hỏi thể hiện rõ nội dung và cấp độ tư duy cần đo.
23


- Yêu cầu của câu hỏi phù hợp với trình độ và nhận thức của học sinh.
- Yêu cầu học sinh phải hiểu nhiều hơn là ghi nhớ những khái niệmnội
dung kiến thức.
- Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu.
- Khi soạn câu hỏi nên chú ý các vấn đề: Độ dài của câu trả lời; Mục đích
bài kiểm tra; Thời gian để làm bài kiểm tra; Các tiêu chí cần đạt theo chuẩn kiến
thức, kĩ năng.
e. Yêu cầu đối với câu hỏi kiểm tra
Cũng giống như các môn học khác khi ra đề kiểm tra cần đảm bảo những
nguyên tắc sau:
- Bám sát mục tiêu, đáp ứng được mục tiêu của môn học theo chuẩn kiến
thức, kĩ năng.
- Nội dung kiểm tra phải sát nội dung chương trình, câu hỏi kiểm tra phải
đảm bảo vừa sức với HS, đồng thời phân loại, phát hiện được HS khá, giỏi để
GV có biện pháp thích hợp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học; bồi dưỡng
định hướng nhận thức về nghề nghiệp tương lai cho HS.

- Phải phát huy được tính tích cực, chủ động, tư duy sáng tạo của HS.
- Kết quả kiểm tra phải phản ánh đúng trình độ, khả năng tư duy nhận
thức, mức độ phát triển về kiến thức, kĩ năng, thái độ học tập của mỗi HS. Chỉ ra
hướng học tập, phát triển về lĩnh vực nghề nghiệp cho những năm học tiếp theo.
- Coi trọng đánh giá toàn diện các mặt kiến thức, kĩ năng, thái độ, đánh
giá dựa vào kết quả thực hành.
- Đảm bảo tính khách quan, công bằng trong đánh giá thông qua việc cụ
thể hóa các chỉ số đánh giá của mỗi câu hỏi trong các đề kiểm tra, đáp án chính
xác, khoa học, thực hiện công khai hóa đáp án để HS tự đánh giá.
- Nội dung câu hỏi trong đề kiểm tra phải thể hiện được đặc thù của môn
học Công nghệ.
2.7. Một số đề kiểm tra
* Đề kiểm tra 15 phút:
Câu 1: (5 điểm)
24


Vẽ hình chiếu cạnh của vật thể. Biết hình chiếu đứng và hình chiếu bằng.
Câu 2: (5 điểm)
Ghi các kích thước của chi tiết trên hình chiếu cạnh

* Đề kiểm tra 45 phút
A. Mục tiêu
- Hệ thống hoá và tổng kết một số kiến thức cơ bản về phần vẽ kĩ thuật.
- Nắm được cách đọc bản vẽ hình chiếu vuông góc và vẽ được hình chiếu
trục đo.
B. Chuẩn bị bài kiểm tra
- GV ra đề hệ thống hoá toàn bộ kiến thức phần vẽ kĩ thuật.
- HS ôn tập toàn bộ kiến thức đã học.
C. Tiến trình kiểm tra

1. Ổn định lớp
2. Phát đề kiểm tra: Thời gian làm bài 45 phút
3. Nội dung đề kiểm tra

25


Cấp độ
Tên
chủ đề
Chủ đề 1:
Hình chiếu
vuông góc

Số câu:
Số điểm:
TL%
Chủ đề 2:
Hình cắt –
Mặt cắt

KHUNG MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA (TL + TNKQ)
Vận dụng
Nhận biết
Thông hiểu
Cấp độ thấp
Cấp độ cao
TN
(Ch)
- Biết

được vị
trí của
các hình
chiếu ở
trên bản
vẽ đối với
PPCGI
1
0,5đ
5%
(Ch)
Biết
được mặt
cắt, hình

TL

TN
(Ch)
- Xác
định
được
hình
chiếu
của khối
đa diện
cơ bản
1
0,5đ
5%


TL

TN
(Ch)
- Xác
định
được
hình
chiếu
của vật
thể đơn
giản
1
1,5đ
15%

26

TL

TN

Cộng

TL

3
2,5đ
25%



Số câu:
Số điểm:
TL%
Chủ đề 3:
Hình chiếu
trục đo

Số câu:
Số điểm:
TL%
TS câu:
TS điểm:
TL%

cắt là gì?
1
0,5đ
5%

2

10%

1
0,5đ
5%

1

0,5đ
5%

1
1,5đ
15%

(Ch)
- Đọc được bản vẽ
hình chiếu vuông góc
của vật thể đơn giản
- Vẽ được HCTĐ của
vật thể từ hai hình
chiếu
1

70%
1

70%

1

70%
5
10đ
100%

BÀI KIỂM TRA MÔN CÔNG NGHỆ - KHỐI 11
Thời gian : 45 phút

-----Họ và tên:………………………………………………Lớp:………………..
Phần I: Trắc nghiệm (3 điểm)
Câu hỏi:
1
2
3
Trả lời
Câu 1 (0,5 đ): Theo PPCGI, trên bản vẽ các hình chiếu được bố trí như thế nào?
a. Hình chiếu bằng ở trên hình chiếu đứng.
b. Cả ba hình chiếu nằm thẳng hàng.
c. Hình chiếu cạnh ở bên trái hình chiếu đứng.
d. Hình chiếu bằng ở dưới hình chiếu đứng, hình chiếu cạnh ở bên phải hình
chiếu đứng.
Câu 2 (0,5 đ): Một hình chóp đều có đáy là hình vuông, nếu đặt đáy của hình
chóp song song với mặt phẳng hình chiếu đứng thì hình chiếu đứng có đặc điểm
gì?
a. Tam giác vuông.
b. Tam giác đều có một đường cao.
c. Hình vuông có hai đường chéo.
d. Hình vuông có một đường chéo.
Câu 3 (0,5 đ): Mặt cắt là:
a. Hình biểu diễn phần vật thể ở trước mặt phẳng cắt.

27


b. Hình biểu diễn phần vật thể ở phía sau mặt phẳng cắt.
c. Hình biểu diễn phần vật thể tiếp xúc với mặt phẳng cắt.
d. Cả a và c.
Câu 4 (1,5 điểm): Hãy tìm các hình chiếu đứng, bằng và cạnh của vật thể A trong

loạt các hình chiếu dưới đây bằng cách ghi số tương ứng vào bảng 1 với hướng
nhìn từ trước tới theo chiều mũi tên.

Bảng 1
Hình chiếu

A

Đứng
Bằng
Cạnh

A

3

2

1

7

8

4

5

6


9

Phần II: Tự luận (7 điểm)
Câu 5 (7 điểm): Cho hai hình chiếu của vật thể đơn giản, hãy vẽ hình chiếu trục
đo của vật thể theo tỉ lệ 1:1.

28


-----------*****-----------

ĐÁP ÁN VÀ HƯỚNG DẪN CHẤM
Phần I: Trắc nghiệm (3 điểm)
- 3 câu đầu mỗi câu đúng được 0,5đ
29


×