Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (811.81 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN NGỌC ÁI VI

THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BÌNH CHÁNH,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN NGỌC ÁI VI

THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BÌNH CHÁNH,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Thi hành các hình phạt không tước tự do từ
thực tiễn huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh” là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có
nguồn gốc rõ ràng, trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phan Ngọc Ái Vi


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC HÌNH PHẠT
KHÔNG TƯỚC TỰ DO VÀ THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG
TƯỚC TỰ DO ......................................................................................................8
1.1. Những vấn đề lý luận về các hình phạt không tước tự do..................... 8
1.2. Khái niệm, đặc điểm thi hành các hình phạt không tước tự do ........... 14
1.3. Ý nghĩa của thi hành các hình phạt không tước tự do ........................ 20
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH CÁC HÌNH
PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO VÀ THỰC TRẠNG THI HÀNH TẠI
HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ............................22
2.1. Quy định của pháp luật về thi hành các hình phạt không tước tự do .. 22
2.2. Quy định của pháp luật về thi hành các hình phạt không tước tự do cụ
thể. ........................................................................................................... 27
2.3. Thực trạng thi hành các hình phạt không tước tự do tại huyện Bình
Chánh, thành phố Hồ Chí Minh ................................................................ 36
CHƯƠNG 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ ÁP DỤNG

ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH CÁC HÌNH
PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO .......................................................................56
3.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện và áp dụng đúng các quy định của
pháp luật về thi hành các hình phạt không tước tự do ............................... 56
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật về thi
hành các hình phạt không tước tự do ........................................................ 62
KẾT LUẬN .........................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

Nxb

: Nhà xuất bản

TAND

: Toà án nhân dân

TANDTC


: Toà án nhân dân tối cao

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tình hình áp dụng các hình phạt chính không tước tự do tại huyện
Bình Chánh, Thành Phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2014-2018 ..............................38
Bảng 2.2. Tình hình ra quyết định thi hành án phạt không tước tự do của TAND
huyện Bình Chánh, Thành Phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2014 - 2018 .................42


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống hình phạt của nước ta cũng như các nước trên thế giới,
các hình phạt không tước tự có vị trí, vai trò không kém phần quan trọng đối
với công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Các hình phạt không
tước tự do được quy định trong BLHS hiện hành và áp dụng trong thực tiễn
xét xử không chỉ bảo đảm nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự, cá thể
hóa hình phạt mà còn thể hiện rõ chính sách hình sự nhân đạo, tôn trọng và
bảo vệ quyền con người của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện trong Hiến
pháp năm 2013 cũng như Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó nhấn mạnh:
"Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tư pháp, đề cao hiệu

quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm
hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam
giữ đối với một số tội phạm,... " [3].
Trên cơ sở định hướng trên, TAND huyện Bình Chánh thành phố (TP)
Hồ Chí Minh đã chú trọng áp dụng các hình phạt không tước tự do, chủ động
phối hợp với VKSND, Cơ quan Công an, chính quyền địa phương tổ chức thi
hành án và quản lý chặt chẽ các đối tượng phải thi hành các hình phạt không
nước tự do, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm tại địa
bàn huyện. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, thì công tác thi hành các
hình phạt không tự do tại huyện Bình Chánh TP Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều
hạn chế, thiếu sót nhất định. Thực tế cho thấy, các cơ quan có thẩm quyền chủ
yếu chú trọng đến việc thi hành hình phạt tước tự do của người bị kết án, ít
chú trọng đến công tác thi hành các hình phạt không tước tự do. Các cơ quan
có thẩm quyền của huyện chưa thật sự phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm
trong chỉ đạo, phối hợp, quản lý, giám sát việc thi hành các hình phạt không
1


tước tự do của người phải chấp hành án, nhất là trong việc giám sát, cảm hóa,
giáo dục, giúp đỡ những đối tượng chấp hành án tại cộng đồng dân cư. Do
vậy, trong nhiều trường hợp, việc chấp hành các hình phạt không tước tự do
chưa thật sự nghiêm túc, các vi phạm phát sinh trong quá trình thi hành án
không được phát hiện, xử lý kịp thời nhằm đáp ứng yêu cầu phòng ngừa tái
phạm... Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót này trước hết là do các quy
định của pháp luật về thi hành án, nhất là Luật Thi hành án hình sự năm 2010
sau một thời gian áp dụng đã bộc lộ một số bất cập không còn phù hợp với
những quy định mới của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và
BLTTHS năm 2015 về các hình phạt không trước tự do, cũng như việc thi
hành các hình phạt này trên thực tế.
Trong khoa học pháp lý, những vấn đề lý luận về thi hành các hình phạt

không tước tự do vẫn chưa được làm rõ một cách hệ thống, toàn diện nên vẫn
còn những quan điểm khác nhau về thi hành các hình phạt này.
Như vậy, xét trên cả bình diện lý luận, thực tiễn và pháp lý đòi hỏi phải
tiếp tục nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, chuyên sâu về thi hành các
hình phạt không tước tự do nhằm làm sâu sắc thêm về mặt lý luận, cung cấp
những luận cứ khoa học để sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án hình sự năm
2010 cũng như bảo đảm áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật về thi
hành các hình phạt không tước tự do trên thực tế, nhất là ở địa bàn quận,
huyện, qua đó góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận.
Vì lý do trên, học viên lựa chọn đề tài: "Thi hành các hình phạt không
tước tự do từ thực tiễn huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh" để
nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng
hình sự là hết sức cần thiết và cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, đáp ứng yêu
cầu nâng cao hiệu quả thi hành các hình phạt không tước tự do hiện nay.
2


2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Thi hành án hình sự nói chung, thi hành các hình phạt không tước tự do
nói riêng là một trong những chủ đề đã được một số tác giả quan tâm nghiên
cứu ở nhiều phương diện, cấp độ khác nhau. Điển hình là các công trình
nghiên cứu sau đây:
+ Các công trình nghiên cứu lý luận: Giáo trình Luật Thi hành án hình
sự của tác giả Võ Khánh Vinh và Cao Thị Oanh, Nxb Khoa học Xã hội năm
2013; Tập bài giảng - Một số vấn đề lý luận về thi hành án hình sự của tác giả
Nguyễn Văn Hiển năm 2014; Bình luận khoa học Luật Thi hành án hình sự
năm 2010 của tác giả Nguyễn Ngọc Anh, Nxb Chính trị quốc gia năm 2012
v.v... Trong các công trình này chủ yếu đề cập đến những vấn đề lý luận về
thi hành án hình sự, trong đó có thi hành án không tước tự do ở mức độ cơ

bản, khái quát nhất hoặc bình luận làm rõ nội dung pháp lý của Luật Thi hành
án hình sự năm 2010. Đây là cơ sở lý luận để học viên tham khảo trong việc
triển khai thực hiện đề tài của mình.
Ngoài hệ thống giáo trình còn có các cuốn sách chuyên khảo về thi
hành án hình sự như: cuốn "Pháp luật về thi hành án hình sự Việt Nam những
vấn đề lý luận và thực tiễn" của các tác giả Võ Khánh Vinh và Nguyễn Mạnh
Khánh, Nxb Tư pháp năm 2006; cuốn "Hoàn thiện quản lý nhà nước trong
lĩnh vực thi hành án hình sự ở Việt Nam" của tác giả Vũ Trọng Hách, Nxb Tư
pháp năm 2006; cuốn "Một số vấn đề về thi hành án hình sự" của tác giả Trần
Quang Tiệp, Nxb Công an nhân dân năm 2002.
Trong những cuốn sách chuyên khảo này, các tác giả chủ yếu đề cập đến
những vấn đề lý luận liên quan đến thi hành án hình sự nói chung như: pháp
luật về thi hành án hình sự; quản lý nhà nước về thi hành án hình sự, trong đó
có nội dung đề cập đến thi hành án không tước tự do. Đây cũng là những tài
liệu bổ ích để học viên tham khảo trong quá trình thực hiện luận văn.
3


Nghiên cứu chuyên sâu về thi hành các hình phạt không tước tự do còn
có một số luận án, luận văn như: Luận án tiến sỹ "Các hình phạt chính không
tước tự do trong Luật Hình sự Việt Nam" của tác giả Nguyễn Minh Khuê,
Học viện Khoa học xã hội năm 2016; luận văn thạc sĩ: "Thi hành các hình
phạt không tước tự do từ thực tiễn quận Gò Vấp thành phố Hồ Chí Minh" của
tác giả Nguyễn Khắc Lan Chi, Học viện Khoa học xã hội năm 2018; luận văn
thạc sĩ "Thi hành các hình phạt không tước tự do từ thực tiễn huyện Củ Chi
thành phố Hồ Chí Minh" của tác giả Phan Văn Phước, Học viện Khoa học xã
hội năm 2018; luận văn thạc sĩ "Thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ,
án treo từ thực tiễn tỉnh Cà Mau" của tác giả Nguyễn Thị Hiền, Học viện
Khoa học xã hội năm 2016; luận văn thạc sĩ "Áp dụng các hình phạt chính
nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Phú Yên", Học viện Khoa

học xã hội năm 2019; luận văn thạc sĩ "Thi hành án treo từ thực tiễn thành
phố Hồ Chí Minh" của tác giả Nguyễn Thị Kim Nga, Học viện Khoa học xã
hội năm 2018 v.v... Đây là các công trình nghiên cứu chuyên sâu về thi hành
các hình phạt không tước tự do nên có ý nghĩa rất lớn đối với việc định hướng
nghiên cứu đề tài luận văn của học viên.
Ngoài các công trình nêu trên còn có nhiều bài báo khoa học được đăng
tải trên các tạp chí chuyên ngành bàn về các hình phạt không tước tự do và
việc thi hành các hình phạt này.
Như vậy, mặc dù có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề
thi hành án hình sự nói chung, thi hành các hình phạt không tước tự do nói
riêng nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về thi hành các hình phạt
không tước tự do từ thực tiễn huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh. Do
vậy, có thể xác định đề tài luận văn của học viên không trùng lặp với các công
trình nghiên cứu khoa học, luận án, luận văn đã được công bố.

4


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về các hình phạt không
tước tự do, về thi hành các hình phạt này, cũng như thực tiễn thi hành các
hình phạt không tước tự do tại huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh,
luận văn hướng tới mục đích đưa ra những luận cứ khoa học cho việc hoàn
thiện pháp luật về thi hành các hình phạt không tước tự do, cũng như đề xuất
các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật về thi hành
các hình phạt này trên địa bàn huyện Bình Chánh nói riêng, trong phạm vi cả
nước nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm

vụ nghiên cứu cụ thể sau đây:
+ Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về các hình phạt không tước tự
do cũng như về thi hành các hình phạt này.
+ Bình luận, đánh giá các quy định của pháp luật về thi hành các hình
phạt không tước tự do, chỉ ra mặt tích cực cũng như những hạn chế bất cập
trong các quy định đó cần tiếp tục hoàn thiện.
+ Khảo sát, đánh giá thực tiễn thi hành các hình phạt không tước tự do
tại huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh, chỉ ra những kết quả đạt được
cũng như hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân cần khắc phục;
+ Đưa ra yêu cầu và giải pháp hoàn thiện cũng như bảo đảm áp dụng
đúng các quy định của pháp luật về thi hành các hình phạt không tước tự do
trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn gồm những vấn đề lý luận, quy
định của pháp luật và thực tiễn thi hành các hình phạt không tước tự do tại
một địa bàn cấp huyện.
5


4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về lý luận: luận văn nghiên cứu vấn đề thi hành các hình phạt chính
không tước tự do (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ trong phạm vi
chuyên ngành Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự và Luật Thi hành án.
+ Về thực tiễn: luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn quy định và thi
hành các hình phạt không tước tự do của cơ quan có thẩm quyền.
+ Về không gian, thời gian: Luận văn nghiên cứu việc thi hành các hình
phạt không tước tự do tại huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh từ năm
2014 đến năm 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về pháp luật, các
thành tựu của lý luận về thi hành án hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp áp dụng để nghiên cứu của luận văn là phương pháp phân
tích, tổng hợp; phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp
chuyên gia…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ và phong phú thêm
lý luận chuyên ngành thi hành án hình sự nói chung, thi hành các hình phạt
không tước tự do nói riêng
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
+ Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo về sửa đổi, bổ sung
Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và các văn bản pháp luật có liên quan.
6


+ Ngoài ra, luận văn có thể tham khảo để triển khai các giải pháp bảo
đảm chất lượng, hiệu quả thi hành các hình phạt không tước tự do trên thực tế.
+ Luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên
cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo ngành luật, chuyên ngành thi hành án
hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương, gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về các hình phạt không tước tự do và
thi hành các hình phạt không tước tự do.

Chương 2: Quy định của pháp luật về thi hành các hình phạt không
tước tự do và thực trạng thi hành tại huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí
Minh.
Chương 3: Yêu cầu, giải pháp hoàn thiện và áp dụng đúng các quy
định của pháp luật về thi hành án hình phạt không tước tự do trong thời
gian tới.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC
TỰ DO VÀ THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO
1.1. Những vấn đề lý luận về các hình phạt không tước tự do
1.1.1. Khái niệm các hình phạt không tước tự do
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước,
không có chế tài nào nghiêm khắc hơn hình phạt, dù chỉ là hình phạt cảnh cáo
hay phạt tiền cũng được coi là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc hơn các chế
tài hành chính, dân sự. Tính nghiêm khắc của hình phạt thể hiện ở chỗ người
bị kết án sẽ bị tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích và bị coi là có án tích; hậu
quả pháp lý của hình phạt nặng hơn các chế tài hình chính và dân sự.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, hình phạt thường được chia
thành hai loại (nhóm) hình phạt: các hình phạt chính, các hình phạt bổ sung.
Cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa hình phạt chính và hình phạt bổ sung là
khả năng áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Về nguyên tắc, hình phạt
chính là hình phạt được tuyên độc lập và có tính chất bắt buộc, mỗi tội phạm
chỉ áp dụng một hình phạt chính; Hình phạt bổ sung ít nghiêm khắc hơn so
với hình phạt chính, vì không được tuyên độc lập mà chỉ tuyên kèm theo với
hình phạt chính.
Đối với một tội phạm chỉ được áp dụng một hình phạt chính nhưng có

thể áp dụng một hoặc nhiều hình phạt bổ sung.
Hình phạt chính gồm có: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ,
trục xuất, tù chung thân, tử hình (đối với cá nhân phạm tội), phạt tiền, đình
chỉ hoạt động có thời hạn, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn (đối với pháp nhân
thương mại phạm tội).
Phạm vi nghiên cứu của đề tài này chỉ giới hạn nghiên cứu ba hình phạt
chính không tước tự do, gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ.
8


Trong khoa học hình sự chưa có một thuật ngữ thống nhất để chỉ các hình
phạt này, do vậy còn có nhiều cách gọi khác nhau như: "Các hình phạt nhẹ
hơn hình phạt tù" hoặc "Các hình phạt không tước tự do" v.v...
Theo chúng tôi, việc dùng thuật ngữ "các hình phạt không tước tự do"
để chỉ các hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, phạt tiền, trục xuất là
có cơ sở khoa học, thể hiện được bản chất, nội dung của các hình phạt này là
"không tước tự do của người bị kết án". Như vậy, khác với các hình phạt như:
tử hình, tù chung thân, tù có thời hạn, nhóm các hình phạt không tước tự do
có tính chất, nội dung trừng trị ít nghiêm khắc hơn. Nhóm các hình phạt này
chỉ hạn chế một số quyền và tài sản, quyền cư trú hoặc chỉ tác động đến tinh
thần của người phạm tội (cảnh cáo) mà không tước đi quyền sống, quyền tự
do thân thể của người bị kết án. Người bị kết án phạt không tước tự do vẫn
được sinh sống, làm việc tại cộng đồng mà không bị cách ly khỏi xã hội. Do
đó, có thể thấy tiêu chí cơ bản để phân loại các hình phạt như cảnh cáo, phạt
tiền, cải tạo không giam giữ thành một nhóm là "mức độ tước đoạt hoặc hạn
chế quyền tự chủ và quyết định về cuộc sống của con người - biểu hiện cơ
bản về tự do". Với nhận thức như vậy, có thể hiểu: "Các hình phạt không
tước tự do là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước được quy
định trong BLHS do Tòa án quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp
luật, nhằm buộc người bị kết án phải chịu một số hậu quả pháp lý bất lợi

nhưng không tước bỏ, hạn chế các quyền tự do thân thể của người bị kết án,
nhằm tạo điều kiện cho họ họ tự cải tạo, giáo dục tại cộng đồng xã hội".
1.1.2. Đặc điểm của các hình phạt không tước tự do
Với tính chất là một trong những hình phạt nói chung, nên các hình
phạt không tước tự do cũng mang đầy đủ các đặc điểm chung của hình phạt
như là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước; được quy định
trong BLHS; do Tòa án quyết định trong bản án kết tội đối với người bị kết
9


án hoặc pháp nhân thương mại bị kết án... Ngoài những đặc điểm chung này,
các hình phạt không tước tự do còn mang những đặc điểm riêng và cơ bản
sau:
- Người bị kết án không bị cách ly khỏi xã hội: Đây là điểm cơ bản
quan trọng nhất của hình phạt không tước tự do. Khi áp dụng các hình phạt
này, người bị kết án được tự cải tạo, giáo dục tại cộng đồng, không phải cách
ly khỏi xã hội; người bị kết án chấp hành hình phạt tại nơi họ sinh sống, làm
việc; họ chịu sự giám sát, giúp đỡ, giáo dục của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã
hội, chính quyền địa phương, gia đình.
- Tính trừng trị của các hình phạt không tước tự do thấp hơn các hình
phạt tù: Đối với hình phạt tù (tù chung thân, tù có thời hạn), tính chất trừng trị
hết sức nghiêm khắc, bởi khi được áp dụng, người bị kết án phạt tù bị tước bỏ
hoặc hạn chế quyền tự do thân thể. Nhà nước áp dụng biện pháp giam giữ,
giám sát chặt chẽ và kỷ luật nghiêm khắc để giáo dục, cải tạo người phạm tội;
còn đối với hình phạt không tước tự do tính trừng trị thấp hơn các hình phạt
tù, bởi người bị kết án phạt không tước tự do thì không bị tước bỏ, hạn chế
quyền tự do thân thể mà chỉ bị hạn chế một số quyền và lợi ích về tài sản, cư
trú hoặc chỉ bị tác động về tinh thần. Họ không phải cách ly khỏi xã hội mà
được sống, sinh hoạt, làm việc trong môi trường cộng đồng xã hội và gia đình
như bình thường. Đồng thời, Nhà nước không thực hiện sự giám sát thường

xuyên, liên tục, chặt chẽ đối với người bị kết án không tước tự do, mà để cho
họ tự nguyện chấp hành hình phạt tại cộng đồng, tự giáo dục, cải tạo trở thành
người có ích cho xã hội. Việc cưỡng chế chỉ được thực hiện khi người bị kết
án không tự do vi phạm nghĩa vụ chấp hành án hoặc có hành vi vi phạm pháp
luật.
- Phạm vi, điều kiện áp dụng các hình phạt không tước tự do hẹp hơn
hình phạt tước tự do (tù có thời hạn, tù chung thân)
10


Theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành thì: “Cảnh cáo được áp
dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ,
chưa đến mức miễn hình phạt” (Điều 35); hình phạt tiền được áp dụng đối với
người phạm tội, "người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng…” (Điều 36); hình
phạt cải tạo không giam giữ được “áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm
trọng, phạm tội nghiêm trọng mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư
trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã
hội” (Điều 36. Trong khi đó, hình phạt tù (hình phạt tước tự do của người bị
kết án) được áp dụng với hầu hết các loại tội phạm.
- Đối tượng bị áp dụng một số hình phạt không tước tự do (phạt tiền)
rộng hơn so với hình phạt tù.
Theo quy định của Điều 35 BLHS hiện hành thì hình phạt tiền là hình
phạt chính được áp dụng không chỉ đối với cá nhân người phạm tội bị kết án
mà còn đối với pháp nhân thương mại bị kết án. Trong khi đó, hình phạt tù
chỉ được áp dụng đối với cá nhân người phạm tội bị kết án (thể nhân).
1.1.3. Nội dung, phạm vi, điều kiện áp dụng các hình phạt không tước
tự do cụ thể
- Hình phạt cảnh cáo: Cảnh cáo là hình phạt được áp dụng đối với
người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa

đến mức miễn hình phạt.
Hình phạt cảnh cáo được áp dụng không nhằm trực tiếp hạn chế hoặc
tước bỏ những quyền và lợi ích thiết thân của người bị kết án mà chỉ là sự
khiển trách (lên án) công khai của Nhà nước do Tòa án quyết định áp dụng
đối với người bị kết án. Như vậy, hình phạt cảnh cáo chỉ gây cho người bị kết
án những tổn thất về tinh thần, người bị kết án phải chịu sự lên án của Nhà
nước về hành vi phạm tội đã thực hiện.
11


Theo quy định của Điều 34 BLHS, hình phạt cảnh cáo được áp dụng
khi có đủ các điều kiện sau:
(1) Tội phạm mà người phạm tội thực hiện phải là tội ít nghiêm trọng,
tức là tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt được quy định là phạt
tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
(2) Có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
(3) Người bị kết án chưa đến mức được miễn hình phạt theo quy định
tại Điều 59 BLHS.
Đây là những điều kiện cần và đủ để Tòa án áp dụng hình phạt cảnh
cáo đối với người bị kết án, thiếu một trong những điều kiện này Tòa án
không được áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với người bị kết án. Trong thực
tiễn xét xử, hình phạt cảnh cáo được Tòa án áp dụng rất hạn chế, thường chỉ
áp dụng đối với tội ít nghiêm trọng mà điều luật có quy định hình phạt này và
trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình
phạt.
- Phạt tiền: Phạt tiền là việc Tòa án buộc người bị kết án phải nộp một
số tiền nhất định theo quy định của pháp luật để sung quỹ nhà nước. Theo quy
định tại khoản 1 Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015 thì hình phạt tiền được áp
dụng là hình phạt chính trong hai trường hợp sau: 1)“Người phạm tội ít
nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng; 2) Người phạm tội rất nghiêm trọng

liên quan đến tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công
cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật hình sự quy
định”. Ngoài ra, phạt tiền còn được áp dụng là hình phạt bổ sung đối với
người phạm tội về tham nhũng, ma túy. Mức phạt tiền được quyết định căn cứ
vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến tình
hình tài sản của người phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng không thấp
hơn 1.000.000 đồng.
12


Hình phạt tiền không chỉ được áp dụng đối với cá nhân người bị kết án
(thể nhân) mà còn được áp dụng đối với cả pháp nhân thương mại bị kết án.
Trong hệ thống hình phạt, hình phạt tiền vừa được quy định là hình phạt
chính, vừa được quy định là hình phạt bổ sung. Đây là hình phạt có khả năng
tác động về mặt kinh tế đối với cá nhân, pháp nhân thương mại phạm tội.
- Hình phạt án cải tạo không giam giữ: Điều 36 Bộ luật Hình sự 2015
không quy định rõ bản chất, nội dung của hình phạt này, nhưng có thể hiểu
cải tạo không giam giữ là hình phạt không buộc người bị kết án phải cách ly
khỏi xã hội mà vẫn để họ sinh sống, lao động, học tập, làm việc tại môi
trường sống bình thường dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, đơn
vị quân đội hoặc UBND xã, phường, thị trấn nơi người bị kết cư trú và gia
đình họ nhằm giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật, tôn trọng quy tắc của
cuộc sống xã hội.
Theo quy định tại Điều 36, những điều kiện để áp dụng hình phạt cải
tạo không giam giữ là: (1) Chỉ áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm
trọng, phạm tội nghiêm trọng; (2) Người phạm tội phải có nơi làm việc ổn
định hoặc có nơi cư trú rõ ràng; Như vậy, điều kiện đầu tiên đề áp dụng hình
phạt này là điều kiện về loại tội phạm mà người phạm tội thực hiện. Theo
điều kiện này, hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ được áp dụng đối với
người phạm tội ít nghiêm trọng (tội phạm có mức cao nhất của khung hình

phạt được quy định là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03
năm) hoặc tội phạm nghiêm trọng (tội phạm có mức cao nhất của khung hình
phạt được quy định là hình phạt tù đến 07 năm) trong những trường hợp được
BLHS quy định. Tuy nhiên, đây chỉ là điều kiện cần, do vậy, để áp dụng hình
phạt này còn phải có điều kiện thứ hai là: "Người phạm tội phải có nơi làm
việc ổn định hoặc nơi cư trú rõ ràng và xét thấy không cần thiết phải cách ly
khỏi xã hội". Ngoài ra, khoản 1 Điều 36 còn quy định cụ thể là thời hạn của
13


hình phạt cải tạo không giam giữ là từ 06 tháng đến 03 năm. Nếu người phạm
tội bị tạm giữ, tạm giam, thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời
gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm
giam, bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ. Thêm vào đó, Điều 36 còn quy
định chủ thể và nghĩa vụ của các chủ thể trong thi hành hình phạt cải tạo
không giam giữ. Theo đó, Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ
cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục người phải chấp hành án.
Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ
theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập
từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Trường hợp người bị phạt cải tạo
không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp
hành hình phạt phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng
trong thời gian cải tạo không giam giữ.
1.2. Khái niệm, đặc điểm thi hành các hình phạt không tước tự do
1.2.1. Khái niệm thi hành các hình phạt không tước tự do
Trong khoa học pháp lý, thi hành án hình sự được xem là giai đoạn cuối
cùng của quá trình giải quyết vụ án; có mối quan hệ mật thiết với giai đoạn
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Giai đoạn thi hành án hình sự có vai trò hết sức
quan trọng, bởi các hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử sẽ trở nên vô

nghĩa, nếu Bản án, Quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không được thi
hành hoặc thi hành không đầy đủ. Chính vì vậy, tại Điều 106 Hiến pháp 2013
có quy định “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật
phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu
quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về bản chất của thi hành án
hình sự như: thi hành án hình sự là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử; là
14


một giai đoạn của quá trình tố tụng, được điều chỉnh bằng các quy phạm của
luật tố tụng hình sự; là một hoạt động hành chính - tư pháp hình sự, có những
nét đặc thù riêng với hoạt động tố tụng hình sự. Việc xác định thi hành án
hình sự nói chung, thi hành các hình phạt không tước tự do nói riêng là một
giai đoạn tố tụng hay là hoạt động hành chính - tư pháp hình sự có ý nghĩa
quan trọng của việc làm sáng tỏ bản chất thi hành án hình sự nói chung và thi
hành các hình phạt không tước tự do nói riêng. Chỉ khi xác định đúng bản
chất thi hành các hình phạt không tước tự do thì mới có thể tổ chức thi hành
các hình phạt này đạt được mục đích đặt ra.
Thi hành các hình phạt không tước tự do là một dạng thi hành án hình
sự nói chung, vì vậy, khái niệm thi hành các hình phạt không tước tự do được
xây dựng trên cơ sở khái niệm thi hành án hình sự nói chung. Nghiên cứu và
kế thừa những yếu tố hợp lý trong khái niệm thi hành án hình sự mà các nhà
khoa học pháp lý đưa ra, có thể hiểu: "Thi hành các hình phạt không tước tự
do là hoạt động áp dụng pháp luật mang tính quyền lực nhà nước, tính cưỡng
chế nghiêm khắc, tính mục đích, định hướng rõ ràng do cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật thực hiện dựa trên các nguyên tắc
nhất định và theo trình tự, thủ tục pháp lý chặt chẽ nhằm đưa các bản án
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế nhằm
cải tạo, giáo dục người bị kết án tại cộng đồng xã hội trở thành người lương

thiện, có ích cho xã hội, không phạm tội mới cũng như giáo dục người khác
có ý thức tôn trọng và bảo vệ pháp luật, ý thức đấu tranh phòng, chống tội
phạm".
1.2.2. Đặc điểm thi hành các hình phạt không tước tự do
- Thứ nhất, thi hành các hình phạt không tước tự do là hoạt động áp
dụng pháp luật mang tính quyền lực nhà nước, tính cưỡng chế nghiêm khắc

15


Thi hành các hình phạt không tước tự do thực chất là hoạt động áp
dụng pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án
hình sự, pháp luật thi hành án dân sự (hình phạt tiền). Những quy định của
những ngành luật này đều điều chỉnh hoạt động thi hành các hình phạt không
tước tự do.
Trong BLHS hiện hành, những quy định có liên quan đến thi hành các
hình phạt không tước tự do bao gồm: các quy định về hình phạt cảnh cáo
(Điều 34); phạt tiền (Điều 35); cải tạo không giam giữ (Điều 36); trục xuất
(Điều 37); quy định về thời hạn thi hành bản án (Điều 60); quy định về miễn
chấp hành hình phạt (Điều 62); quy định về giảm mức hình phạt đã tuyên
(Điều 63 và Điều 64) v.v....
Trong BLTTHS những quy định liên quan đến thi hành các hình phạt
không tước tự do gồm: quy định về bản án, quyết định được thi hành ngay
(Điều 363); quy định về thẩm quyền, thủ tục ra quyết định thi hành án (Điều
364); quy định về giải thích sửa chữa bản án, quyết định của Tòa án (Điều
365) và quy định về giải quyết kiến nghị đối với bản án quyết định của Tòa án
(Điều 366).
Trong Luật Thi hành án hình sự năm 2010, những quy định liên quan
đến thi hành các hình phạt không tước tự do gồm: những quy định chung về
thi hành án hình sự (Chương 1); quy định về thi hành án phạt cải tạo không

giam giữ (Điều 72 đến Điều 81).
Với tính chất là hoạt động áp dụng pháp luật, thi hành các hình phạt
không tước tự do được thực hiện bởi cơ quan nhà nước và người có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện nhiệm vụ thi hành các hình
phạt không tước tự do, cơ quan và người có thẩm quyền nhân danh Nhà nước,
sử dụng quyền lực nhà nước để buộc người bị kết án phạt không tước tự do
phải chấp hành hình phạt tại cộng đồng xã hội. Đối với người phải chấp hành
16


án nếu không chấp hành hình phạt có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
"tội không chấp hành bản án" theo quy định tại Điều 380 BLHS. Trong
trường hợp, người phải chấp hành án vi phạm các quy định về thi hành án
hoặc có hành vi vi phạm pháp luật khác thì sẽ bị áp dụng các biện pháp cưỡng
chế cần thiết để buộc họ phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về thi
hành án hoặc chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, mức độ cưỡng
chế trong thi hành các hình phạt không tước tự do thấp hơn so với thi hành
hình phạt tù.
- Thứ hai, thi hành các hình phạt không tước tự do luôn hướng tới mục
đích và thực hiện những nhiệm vụ nhất định.
Trước hết, thi hành các hình phạt không tước tự do là nhằm bảo đảm các
hình phạt mà Tòa án quyết định áp dụng với người bị kết án trong bản án đã có
hiệu lực pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh trên thực tế. Đây là mục
đích, nhiệm vụ hàng đầu và rất quan trọng, bởi nếu các hình phạt không tước tự
do đã được Tòa án tuyên trong bản án đã có hiệu lực pháp luật mà không được
chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ thì toàn bộ quá trình tố tụng trước đó
(như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử) khó mà có ý nghĩa.
Mặt khác, các hình phạt không tước tự do mà Tòa án tuyên phạt đối với
người bị kết án không được thi hành trên thực tế thì rất khó giáo dục được
người dân ý thức tôn trọng pháp luật, ý thức đấu tranh phòng chống tội phạm.

Ngoài ra, thi hành các hình phạt không tước tự do còn nhằm mục đích
quản lý, giáo dục, cải tạo người bị kết án trở thành người lương thiện, có ích
cho xã hội, không tái phạm, tạo điều kiện cho họ tự giác cải tạo tại cộng đồng
cũng như phát huy vai trò của các cơ quan, tổ chức, gia đình và mọi người
dân trong việc giáo dục, cải tạo người bị kết án.
- Thứ ba, việc thi hành các hình phạt không tước tự do được thực hiện
bởi nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau nơi người bị kết án cư trú, làm việc với
sự tham gia của gia đình người chấp hành án.
17


Nếu thi hành hình phạt tù được giao cho cơ quan chuyên trách thi hành
án hình sự thực hiện, thì việc thi hành các hình phạt không tước tự do được
thực hiện với nhiều cơ quan tổ chức khác nhau. Đây là những cơ quan được
giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự không phải là cơ quan chuyên trách.
Điều này thể hiện rõ tại các quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2010
và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan như: việc thi hành hình phạt
cảnh cáo do Tòa án thi hành ngay tại phiên tòa; việc thi hành hình phạt cải tạo
không giam giữ được giao cho UBND cấp xã giám sát, giáo dục; thi hành
hình phạt tiền do cơ quan thi hành án dân sự thực hiện. Có thể thấy, pháp luật
quy định nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau thi hành các hình phạt không tước
tự do là xuất phát từ tính chất đa dạng của các hình phạt không tước tự do;
đồng thời là để thực hiện chủ trương từng bước xã hội hóa công tác thi hành
án hình sự đã được đề cập trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp n chế, bất cập, không theo kịp những biến đổi trong đời sống xã hội.
Điều đó dẫn tới hệ thống pháp luật liên quan đến thi hành các hình phạt không
tước tự do còn chưa thật sự hoàn thiện, đồng bộ đáp ứng yêu cầu đấu tranh
phòng chống tội phạm trong tình hình mới, cần phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện. Các văn bản giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật trong thi
hành án phạt không tước tự do thì chưa được ban hành kịp thời, đầy đủ; nội

dung một số văn bản thì còn chung chung, chưa rõ ràng, cụ thể. Việc tổ chức
bộ máy, công tác cán bộ, cơ chế phối hợp của các cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền thi hành các hình phạt không tước tự do còn những bất hợp lý, chưa
thật sự phù hợp. Đội ngũ cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ thi hành các
hình phạt không tước tự do chưa được đào tạo bài bản, bố trí hợp lý, chưa thật
sự chuyên nghiệp...
Tất cả những hạn chế, bất cập, tồn tại nêu trên đã và đang là lực cản,
làm giảm hiệu lực, hiệu quả thi hành các hình phạt không tước tự do trên thực
tế. Vì vậy, trong thời gian tới, cần có những giải pháp hữu hiệu để khắc phục
những hạn chế, tồn tại gây khó khăn, vướng mắc cho hoạt động thi hành các
hình phạt không tước tự do.
3.1.5. Yêu cầu xã hội hóa công tác thi hành các hình phạt không tước
tự do
Các hình phạt không tước tự do, đặc biệt là việc thi hành các hình phạt
này luôn mang tính cộng đồng. Do vậy, hoạt động thi hành các hình phạt
không tước tự do không chỉ là nhiệm vụ riêng của cơ quan quản lý thi hành án
hình sự, cơ quan chuyên trách thi hành án hình sự hay cơ quan, tổ chức được
giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự mà còn là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội, của gia đình người bị kết án cũng như chính
bản thân người chấp hành án. Đây là hoạt động có tính xã hội hóa cao và trở

61


thành một trong những yêu cầu đối với quá trình thi hành án hình phạt không
tước tự do.
Để đáp ứng yêu cầu này, trong tổ chức thi hành các hình phạt không
tước tự do cần chú ý làm tốt một số vấn đề sau:
+ Quá trình thi hành các hình phạt không tước tự do luôn phải đặt dưới
sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của các cấp ủy Đảng, sự quản lý, điều hành

của chính quyền địa phương, phát huy vai trò nòng cốt của cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền thi hành các hình phạt không tước tự do;
+ Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, các cấp, các
ngành, các tổ chức chính trị- xã hội, đoàn thể quần chúng, gia đình của người
chấp hành án cũng như mọi người dân trong việc quản lý, giám sát, giáo dục,
giúp đỡ người chấp hành án tự cải tạo để trở thành người lương thiện, không
vi phạm pháp luật và tái phạm tội.
+ Thu hút toàn xã hội trong việc giúp đỡ người chấp hành án phạt
không tước tự do nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng, v.v...
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp
luật về thi hành các hình phạt không tước tự do
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành các
hình phạt không tước tự do
Thi hành án hình sự nói chung, thi hành các hình phạt không tước tự do
nói riêng với tính chất là một trong những hoạt động áp dụng pháp luật. Vì
vậy, hệ thống pháp luật về thi hành án hình sự là cơ sở pháp lý quan trọng để
các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tổ chức thi hành án.
Hiện nay, các quy định của pháp luật là cơ sở pháp lý để tổ chức thi
hành các hình phạt không tước tự do hết sức đa dạng, bao gồm: các quy định
của BLHS hiện hành về các hình phạt không tước tự do (cảnh cáo, phạt tiền,
cải tạo không giam giữ, trục xuất); các quy định của BLTTHS về năm 2015
62


×