Tải bản đầy đủ (.pdf) (215 trang)

Tín Ngưỡng Của Cư Dân Xã Đảo Nghi Sơn, Huyện Tĩnh Gia, Tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.13 MB, 215 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO & DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Nguyễn Thị Trúc Quỳnh

TÍN NGƯỠNG CỦA CƯ DÂN XÃ ĐẢO NGHI SƠN,
HUYỆN TĨNH GIA, TỈNH THANH HÓA

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Hà Nội - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO & DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Nguyễn Thị Trúc Quỳnh

TÍN NGƯỠNG CỦA CƯ DÂN XÃ ĐẢO NGHI SƠN,
HUYỆN TĨNH GIA, TỈNH THANH HÓA
Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 9229040
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Lan Oanh


TS. Phan Phương Anh

Hà Nội - 2019


i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, bản luận án tiến sĩ: Tín ngưỡng của cư dân xã
đảo Nghi Sơn, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa là công trình do tôi viết và
chưa công bố, các tư liệu sử dụng trong luận án là trung thực, có xuất xứ rõ
ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Hà Nội, ngày 22 tháng 10 năm 2019
Tác giả luận án

Nguyễn Thị Trúc Quỳnh


ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ....................................................................... iv
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ ................................................................. v
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU ....................................................................... 10
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .............................................................. 10
1.2. Cơ sở lý luận ............................................................................................ 23
1.3. Tổng quan địa bàn nghiên cứu ................................................................. 29
Tiểu kết ............................................................................................................ 43
Chương 2: DIỆN MẠO TÍN NGƯỠNG CỦA CƯ DÂN XÃ ĐẢO NGHI SƠN 44

2.1. Tín ngưỡng thờ các vị thần biển .............................................................. 44
2.2. Một số tín ngưỡng khác ........................................................................... 64
2.3. Vai trò tín ngưỡng trong đời sống tinh thần cư dân xã đảo Nghi Sơn ..... 69
Tiểu kết ............................................................................................................ 82
Chương 3: HIỆN TRẠNG TÍN NGƯỠNG CƯ DÂN XÃ ĐẢO NGHI SƠN
DƯỚI TÁC ĐỘNG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA 84
3.1. Khái quát quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở xã đảo Nghi Sơn . 84
3.2. Hiện trạng tín ngưỡng của cư dân xã đảo Nghi Sơn ................................ 98
Tiểu kết .......................................................................................................... 113
Chương 4: XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI TÍN NGƯỠNG CỦA CƯ DÂN



ĐẢO NGHI SƠN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LUẬN BÀN ............................. 114
4.1. Xu hướng biến đổi tín ngưỡng của cư dân xã đảo Nghi Sơn................. 114
4.2. Một số vấn đề luận bàn .......................................................................... 124
Tiểu kết .......................................................................................................... 135
KẾT LUẬN ................................................................................................... 137


iii
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ ......... 141
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 142
PHỤ LỤC ...................................................................................................... 157


iv
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt


Chữ viết đầy đủ

CNH-HĐH

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa

CTQG

Chính trị quốc gia

GS.TS

Giáo sư, tiến sĩ

HĐND

Hội đồng nhân dân

KHXH

Khoa học xã hội

KTT

Khu kinh tế

NCS

Nghiên cứu sinh


Nxb

Nhà xuất bản

PL

Phụ lục

Tp HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

tr

trang

UBND

Ủy ban nhân dân

VHTT

Văn hóa Thông tin


v
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ

Bảng 1.1: Dân số các thôn xã đảo Nghi Sơn năm 2018 ................................. 36

Bảng 1.2. Thống kê tình hình nuôi cá lồng đặc sản tại xã đảo Nghi Sơn
giai đoạn 2001 - 2010 ...................................................................................... 39
Bảng 1.3. GDP và thu nhập bình quân theo đầu người của xã đảo Nghi Sơn
(giai đoạn 2005 - 2018) ................................................................................... 40
Biểu đồ 2.1. Hình thức đi lễ của cộng đồng cư dân xã đảo Nghi Sơn ............ 76
Bảng 3.1: Cơ cấu kinh tế xã đảo Nghi Sơn những năm gần đây .................... 89
Bảng 3.2. Hệ thống cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng tại xã đảo Nghi Sơn
giai đoạn 2010-2018 ........................................................................................ 92
Biểu đồ 3.1: Số lần đến các cơ sở thờ tự trong tháng ................................... 108
Biểu đồ 3.2. So sánh mức độ đến từng cơ sở thờ tự của xã trước kia và
hiện nay ......................................................................................................... 109


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tín ngưỡng - một thành tố của văn hoá, giữ vai trò hết sức quan trọng
trong đời sống của con người. Nó là một hiện tượng văn hóa tinh thần phản
ánh ước vọng thiêng liêng của con người đối với cuộc sống, là sự thể hiện
ứng xử của con người trong các mối quan hệ với môi trường, môi sinh để sinh
tồn và phát triển. Do vậy, dù trong xã hội loài người có những tín ngưỡng
tương đồng trong các cộng đồng khác nhau nhưng mỗi cộng đồng lại có
nguồn gốc lịch sử khác nhau, có phương thức mưu sinh trong bối cảnh sinh
thái khác nhau, có trình độ phát triển vật chất khác nhau thì có tín ngưỡng
khác nhau với những đặc trưng riêng của cộng đồng cư dân đó.
Là một bộ phận quan trọng góp phần tạo nên cấu trúc, diện mạo tín
ngưỡng của Việt Nam, tín ngưỡng của cộng đồng cư dân ven biển bên cạnh
những đặc điểm chung của dân tộc, còn có những sắc thái riêng, mang tính
đặc thù do được hình thành và gắn bó chặt chẽ với những phương thức mưu
sinh và không gian sống của họ. Do đó, nghiên cứu tín ngưỡng của cư dân

ven biển nước ta sẽ không thể bỏ qua việc nghiên cứu từng địa bàn cụ thể.
Công việc này là cần thiết nhằm góp phần làm rõ sự tương đồng và khác biệt
trong sinh hoạt tín ngưỡng của cư dân tại mỗi vùng biển. Đồng thời, việc
nghiên cứu này giúp chúng ta thấy được sự biến đổi của các hình thức sinh
hoạt tín ngưỡng của cư dân ven biển, từ đó có những căn cứ để xây dựng
những chương trình khai thác và phát triển tiềm năng, phát huy văn hóa biển,
đảo một cách hợp lý trong bối cảnh hiện nay.
Xã đảo Nghi Sơn là một xã nằm ở vùng biển phía Nam của huyện Tĩnh
Gia, tỉnh Thanh Hóa. Xưa kia, xã đảo Nghi Sơn (hay còn được gọi là hòn Biện
Sơn hay Cù lao Biện) vốn là một đảo nhỏ gần bờ có cư dân từ nhiều nơi hội tụ
về đây cùng sinh sống, đoàn kết và bảo vệ vùng biển đảo phía Nam của Xứ
Thanh. Đây cũng là đảo duy nhất trong hệ thống các đảo của Thanh Hóa có cư


2
dân sinh sống và Nghi Sơn là một trong ba làng ngư nghiệp truyền thống điển
hình của tỉnh Thanh Hóa. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử và cùng với quá
trình mưu sinh, cộng đồng cư dân trên đảo đã tạo lập những định chế văn hóa,
các tín ngưỡng mang những sắc thái riêng của vùng biển đảo.
Năm 1974 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của làng đảo Nghi Sơn
với việc xây dựng một con đường nối đảo với đất liền và trở thành một vị trí
chiến lược trên vùng biển cực Nam của tỉnh Thanh Hóa. Để thuận lợi cho việc
phát triển kinh tế - xã hội, năm 1984 thôn Nghi Sơn được tách ra từ xã Hải
Thượng và trở thành xã Nghi Sơn, thuộc huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Kể
từ đây, xã Nghi Sơn ổn định về mặt hành chính, cộng đồng cư dân xã đảo
Nghi Sơn luôn đoàn kết, gắn bó cùng nhau xây dựng xã đảo, bảo tồn phát huy
những giá trị văn hóa của mình và tham gia bảo vệ an ninh, chủ quyền biên
giới quốc gia trên đảo.
Bước vào giai đoạn CNH-HĐH đất nước, Đảng và Nhà nước đã ban
hành nhiều chính sách phát triển kinh tế biển, ven biển và hải đảo đã tạo cho

các vùng biển trên cả nước có những biến chuyển mạnh mẽ trong thời gian
qua. Được nhận định là một trong những vùng biển có nhiều điều kiện thuận
lợi và có tiềm năng trong phát triển kinh tế biển, ngày 10/10/2007 Thủ tướng
Chính phủ ký quyết định số 1364/QĐ-TTg về việc phê duyệt quy hoạch
chung xây dựng khu kinh tế (KKT) Nghi Sơn tại huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh
Hóa thành một trong những KKT biển trọng điểm của nhà nước. Xã đảo Nghi
Sơn nằm trong quy hoạch KKT Nghi Sơn. Việc nằm trong quy hoạch của
KKT Nghi Sơn đã làm cho diện mạo của xã có nhiều thay đổi trên các bình
diện kinh tế - xã hội - văn hóa và sự thay đổi này diễn ra trên cả 2 khía cạnh
tích cực và tiêu cực. Ở khía cạnh tích cực, sự phát triển của KKT đã góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, theo đó ngành nghề kinh tế nơi
đây không chỉ là khai thác, nuôi trồng và đánh bắt hải sản mà đã có thêm các
ngành nghề mới như: làm công nhân tại khu công nghiệp, tham gia vào kinh


3
doanh các ngành dịch vụ (chủ yếu là dịch vụ ăn uống), thu nhập của người
dân tăng, hệ thống cơ sở hạ tầng có nhiều thay đổi... đã tạo cho xã đảo Nghi
Sơn một diện mạo mới. Cùng với đó, KKT Nghi Sơn cũng đem lại những tác
động tiêu cực về sinh kế, môi trường, văn hóa - xã hội cho xã đảo Nghi Sơn.
Việc chuyển đổi các ngành nghề kinh tế của địa phương chưa có tính bền
vững bởi những lao động chuyển đổi từ nghề truyền thống sang làm công
nhân tại khu công nghiệp chủ yếu là lao động phổ thông mang tính thời vụ.
Chính vì vậy, khi hết nhu cầu từ phía các nhà tuyển dụng, bộ phận lao động
này sẽ thất nghiệp và việc quay trở lại nghề truyền thống gặp nhiều khó khăn.
Một bộ phận người dân khi không còn làm việc ở KKT đã đi tìm một công
việc khác. Nhưng thực tế cho thấy những công việc đó thường không mang
tính ổn định. Mặt khác, sự phát triển KKT đã làm cho môi trường ở đây bị ô
nhiễm, đặc biệt là môi trường nước đã có ảnh hưởng không nhỏ đến phương
thức mưu sinh truyền thống của bà con nơi đây. Cùng với đó, lực lượng lao

động ở nơi khác đến làm việc tại KKT đã tạo ra sự giao lưu giữa cư dân tại
chỗ và cư dân mới đến làm việc tại KKT. Quá trình giao lưu này chắc chắn sẽ
có tác động đến những giá trị văn hóa truyền thống trong đó bao gồm cả tín
ngưỡng.
Vấn đề được đặt ra hiện nay là các giá trị văn hóa truyền thống, cụ thể
là tín ngưỡng của cư dân xã đảo Nghi Sơn đã chịu tác động như thế nào? mức
độ tác động ra sao? KKT Nghi Sơn đã và đang được mở rộng với tốc độ phát
triển ngày càng nhanh, xu hướng trong tương lai tín ngưỡng của cộng đồng cư
dân xã đảo Nghi Sơn sẽ vận động và biến đổi như thế nào? Mặt khác, cho đến
nay chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về tín ngưỡng của
cộng đồng cư dân xã đảo Nghi Sơn.
Với những vấn đề được nêu ra ở trên, nghiên cứu diện mạo và hiện
trạng tín ngưỡng của cộng đồng cư dân xã đảo Nghi Sơn trước những tác
động của quá trình CNH-HĐH, cụ thể là tác động từ KKT Nghi Sơn để trên


4
cơ sở đó dự báo xu hướng vận động, biến đổi tín ngưỡng của cư dân xã đảo
Nghi Sơn làm cơ sở khoa học cho công tác gìn giữ, phát huy các giá trị của tín
ngưỡng trong bối cảnh hiện nay và nền tảng cho những chính sách của nhà
nước trong tương lai. Đồng thời, với khảo cứu sâu về những đặc trưng văn
hoá của cộng đồng cư dân xã đảo Nghi Sơn, luận án sẽ góp phần vào việc
phác hoạ bức tranh chung về văn hóa biển đảo Việt Nam là cần thiết. Vì vậy
NCS chọn đề tài: Tín ngưỡng của cư dân xã đảo Nghi Sơn, huyện Tĩnh
Gia, tỉnh Thanh Hóa, làm đề tài luận án tiến sĩ, chuyên ngành Văn hóa học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nhận diện tín ngưỡng của cư dân xã đảo Nghi Sơn và đánh giá được
hiện trạng cũng như xu hướng vận động, biến đổi của tín ngưỡng trong bối
cảnh CNH-HĐH.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích và câu hỏi nghiên cứu đưa ra, luận án cần thực hiện
những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu tổng quan các tài liệu, các công trình đi trước liên quan
đến nội dung của luận án. Trên cơ sở đó kế thừa những kết quả đi trước và
làm rõ vấn đề nghiên cứu mà luận án đặt ra.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và xác định lý thuyết nghiên cứu làm cơ sở
để triển khai những nội dung nghiên cứu của luận án.
- Thu thập các dữ liệu định tính và định lượng về diện mạo tín ngưỡng
của cư dân xã đảo Nghi Sơn, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
- Phân tích đánh giá hiện trạng tín ngưỡng của cư dân xã đảo Nghi Sơn
trước những tác động của quá trình CNH-HĐH, cụ thể là tác động từ KKT
Nghi Sơn.
- Bàn luận và dự báo xu hướng vận động và biến đổi tín ngưỡng của cư
dân xã đảo Nghi Sơn trong bối cảnh hiện nay, từ đó đưa ra những luận bàn và


5
nhận định làm cơ sở cho việc gìn giữ và phát huy giá trị của tín ngưỡng trong
bối cảnh phát triển văn hoá - kinh tế - xã hội của địa phương.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án: Tín ngưỡng và hiện trạng tín
ngưỡng của cư dân xã đảo Nghi Sơn trước những tác động của quá trình
CNH-HĐH.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian: Không gian nghiên cứu của luận án là toàn bộ xã đảo
Nghi Sơn theo địa giới hành chính.
+ Thời gian: Luận án nghiên cứu tín ngưỡng của cư dân xã đảo Nghi
Sơn trong suốt chiều dài lịch sử khi các cứ liệu cho phép. Tuy nhiên, luận án
sẽ tập trung nhiều hơn vào giai đoạn sau năm 2007, là thời điểm xã được đưa

vào quy hoạch phát triển của KKT Nghi Sơn.
4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu của luận án, câu hỏi nghiên cứu được đặt ra là:
- Tín ngưỡng của cư dân xã đảo Nghi Sơn có diện mạo như thế nào và
biến đổi ra sao dưới những tác động của quá trình CNH-HĐH?
- Tín ngưỡng của cư dân xã đảo Nghi Sơn có xu hướng biến đổi như
thế nào trong tương lai?
Giả thuyết nghiên cứu của luận án là:
Thứ nhất, với môi trường sinh sống là vùng biển đảo, tín ngưỡng của
cư dân xã đảo Nghi Sơn vừa mang những đặc điểm chung của tín ngưỡng cư
dân ven biển, nhưng có những đặc điểm riêng được tạo nên do môi trường đặc
thù xã đảo. Mặt khác, cũng như bao cộng đồng cư dân vùng biển khác, tín
ngưỡng chính là một trong những sáng tạo văn hóa của cộng đồng cư dân nơi
đây nhằm thích ứng với môi trường sống. Vì vậy, tín ngưỡng luôn đóng một
vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần cộng đồng cư dân xã đảo Nghi


6
Sơn. Tín ngưỡng chính là điểm tựa, là sợi dây vô hình cố kết cộng đồng cư
dân nơi đây để cùng sinh tồn và phát triển.
Thứ hai, biến đổi là một quy luật tất yếu của sự vận động, phát triển
không ngừng của lịch sử và chi phối mọi lĩnh vực của đời sống con người,
trong đó bao gồm cả tín ngưỡng. Không nằm ngoài quy luật trên, tín ngưỡng
của cộng đồng cư dân xã đảo Nghi Sơn kể từ khi hình thành cho đến nay luôn
vận động, phát triển cho phù hợp với điều kiện, môi trường và hoàn cảnh
sống. Vì vậy, trước những tác động quá trình CNH-HĐH, nhất là từ khi xã
được đưa vào trong quy hoạch phát triển KKT Nghi Sơn, tín ngưỡng của cư
dân nơi đây bước đầu đã có những vận động và biến đổi trên các phương diện
như: các cơ sở thờ tự (vị trí, không gian, bài trí trong cơ sở thờ tự....); các thực
hành tín ngưỡng (đối tượng thờ tự, đến các cơ sở thờ tự, lễ vật thờ cúng, trong

tổ chức và thực hành các nghi lễ cổ truyền...).
5. Phương pháp nghiên cứu
Để có được những thông tin, số liệu, cứ liệu chính xác cho luận án,
trong quá trình thực hiện luận án, NCS sử dụng nhiều phương pháp khác nhau
để hỗ trợ nhau nhằm đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp phân tích tổng hợp tư liệu: Trước hết NCS tiến hành
tìm kiếm, sưu tập tài liệu, công trình đã công bố có liên quan đến tín ngưỡng
cư dân vùng biển, đảo và ven biển Thanh Hóa nói chung, cư dân xã đảo Nghi
Sơn nói riêng. Trên cơ sở tổng quan các tài liệu NCS tìm ra khoảng trống
trong nghiên cứu biển đảo về văn hoá biển Nghi Sơn để thiết lập vấn đề cần
nghiên cứu sâu, đồng thời NCS kế thừa kết quả của những nghiên cứu trước
đó để soi chiếu các dữ liệu thu thập được trên địa bàn của mình.
- Phương pháp khảo sát - điền dã của nhân học/dân tộc học văn hoá
(quan sát tham gia, phỏng vấn sâu...) để có cái nhìn khái quát về diện mạo, vai
trò của tín ngưỡng trong đời sống tinh thần của cư dân xã đảo Nghi Sơn, hiện
trạng của tín ngưỡng trước những tác động của quá trình CNH-HĐH, nhất là


7
khi xã nằm trong quy hoạch phát triển KKT Nghi Sơn với cái nhìn của người
trong cuộc. NCS đã quan sát quan sát tham gia một số thực hành tín ngưỡng,
thực hiện phỏng vấn sâu các đối tượng am hiểu về các hoạt động tín ngưỡng
như: các cụ cao tuổi, các thành viên trong Ban quản lý di tích xã, các cán bộ
làm công tác quản lý văn hóa ở xã, lãnh đạo địa phương và nhiều người dân là
những người trực tiếp thực hành tín ngưỡng nhằm thu thập những thông tin về
lịch sử, vùng đất con người, các tín ngưỡng ở xã (đối tượng thờ tự, cơ sở thờ
tự, các nghi lễ, nghi thức thực hành tín ngưỡng trong năm của cộng đồng....).
Dữ liệu sơ cấp từ điền dã dân tộc học cho phép NCS có cái nhìn của người
trong cuộc về vị trí, vai trò của tín ngưỡng đối với cư dân ở xã đảo Nghi Sơn,
những thay đổi của tín ngưỡng khi chịu những tác động từ quá trình CNHHĐH, nhất là những thay đổi từ khi xã được nằm trong quy hoạch của KKT

Nghi Sơn. Các chủ đề phỏng vấn được chuẩn bị trước và mang tính gợi mở để
người được hỏi đưa ra quan điểm cá nhân về vấn đề được hỏi.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Để đánh giá được hiện trạng tín
ngưỡng của cư dân xã đảo Nghi Sơn, cũng như có thêm được những cứ liệu
cụ thể hơn về xu hướng vận động, biến đổi của tín ngưỡng NCS sử dụng
phương pháp điều tra xã hội học. NCS đã phát phiếu trưng cầu ý kiến với cơ
cấu 240 phiếu/4 thôn trong xã, sau đó được xử lý bằng phần mềm SPSS 18.0
để có được những số liệu mang tính định lượng.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở các nguồn tư liệu được
thu thập từ khảo sát điền dã, quan sát tham gia, phỏng vấn sâu, phỏng vấn hồi
cố, những số liệu từ phiếu trưng cầu ý kiến, các nguồn tài liệu như: thư tịch,
sách báo, các công trình đã được công bố, các tài liệu thu thập được từ cộng
đồng..., NCS sẽ phân tích tổng hợp để làm rõ diện mạo tín ngưỡng của cư dân
xã đảo Nghi Sơn và vai trò, vị trí của tín ngưỡng trong đời sống của cư dân
nơi đây.


8
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Trên cơ sở phân tích những yếu tố
ảnh hưởng đến tình hình kinh tế-xã hội-văn hóa của xã, cụ thể là những ảnh
hưởng từ KKT Nghi Sơn, NCS sẽ có được những phân tích đánh giá về hiện
trạng cũng như xu hướng biển đổi tín ngưỡng của cư dân xã đảo Nghi Sơn
trong bối cảnh hiện nay. Đồng thời, trong quá trình phân tích, NCS sẽ so sánh,
đối chiếu với những khoảng thời gian trước đó để có thấy được rõ hơn sự vận
đồng và biến đổi của tín ngưỡng và cũng với việc so sánh đối chiếu với các khu
vực biển khác của vùng biển Thanh Hóa để thấy được những điểm chung và
riêng trong tín ngưỡng cư dân xã đảo Nghi Sơn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa khoa học
Luận án là công trình vận dụng cơ sở lý luận về tín ngưỡng và lý thuyết

chức năng vào nghiên cứu một cách toàn diện về tín ngưỡng của cư dân xã
đảo Nghi Sơn.
Bằng những kết quả khảo sát thực tiễn, những nguồn tư liệu, những
công trình nghiên cứu đi trước, luận án đã cho thấy được diện mạo tín ngưỡng
của cư dân xã đảo Nghi Sơn, hiện trạng tín ngưỡng trước những tác động của
quá trình CNH-HĐH. Đồng thời, luận án cũng dự báo xu hướng biến đổi tín
ngưỡng trong tương lai.
Kết quả luận án góp phần làm phong phú thêm mảng lý luận liên quan
đến vấn đề tín ngưỡng của cư dân biển đảo.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án là công trình nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về tín
ngưỡng của cư dân xã đảo Nghi Sơn. Những tư liệu đưa ra hy vọng sẽ là
nguồn tư liệu hữu ích cho những ai quan tâm, tìm hiểu, nghiên cứu về tín
ngưỡng cư dân ven biển nói chung và của cộng đồng cư dân vùng biển Thanh
Hóa nói riêng.


9
Kết quả nghiên cứu của luận án chính là những cơ sở khoa học để các
nhà quản lý xây dựng những chủ trương chính sách trong bảo tồn và phát huy
giá trị tín ngưỡng, các giá trị văn hóa truyền thống của địa phương trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Kết quả nghiên cứu cũng giúp cho cộng đồng thấy được rõ hơn hiện
trạng cũng như vị trí, vai trò của tín ngưỡng trong bối cảnh hiện nay. Từ đó
nâng cao nhận thức và ý thức của người dân trong việc bảo tồn và phát huy
giá trị của tín ngưỡng cho phù hợp với xu thế phát triển xã hội nhưng không
làm mất đi bản sắc riêng của mình.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu (9 trang), Kết luận (4 trang), Tài liệu tham khảo
(14 trang) và Phụ lục (52 trang), nội dung nghiên cứu của luận án được trình

bày trong 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và địa bàn
nghiên cứu (33 trang);
Chương 2: Diện mạo tín ngưỡng của cư dân xã đảo Nghi Sơn (39
trang);
Chương 3: Hiện trạng tín ngưỡng cư dân xã đảo Nghi Sơn dưới tác
động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (30 trang);
Chương 4: Xu hướng biến đổi tín ngưỡng của cư dân xã đảo Nghi Sơn
và một số vấn đề luận bàn (23 trang).


10
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng cư dân biển, đảo ở
Việt Nam
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài
Công trình đầu tiên có thể kể đến là Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành
tôn giáo người Việt 3 tập [29] của Léopold Cadière do Đỗ Trinh Huệ dịch.
Trong tập 2 của công trình, trong phần bàn về tục thờ cúng các con vật thần
kỳ, Cadière có đề cập đến tục thờ Cá Voi của cư dân vùng biển Việt Nam.
Ông đã viết rằng: "Những người Việt thờ cúng Cá Voi là do công đức của nó.
Không làng chài nào gần bờ biển mà không có miếu thờ các xương cốt của Cá
Voi...". Tác giả không bàn luận nhiều về tục thờ này, nhưng thông qua việc
miêu tả tục thờ cá Voi ở làng chài Thanh Hà ở cửa sông Gianh cũng giúp cho
chúng ta phần nào hiểu về một trong những tín ngưỡng của cư dân biển, đảo
Việt Nam.
Hippolyte Le Breton, trong công trình khảo cứu về vùng đất Nghệ An,

Hà Tĩnh mang tên Le Vieux An Tinh (An Tĩnh cổ lục) [19], được đăng lần đầu
tiên bằng tiếng Pháp trong tập san Đô Thành Hiếu Cổ (Bulletin des Amis du
Vieux Huế) vào năm 1936, đã liệt kê hệ thống các đền thờ của cộng đồng cư
dân nơi đây, trong đó có Tứ Vị thánh nương, Sát Hải đại vương Hoàng Tá
Thốn......
Lantz, Sandra (2009), Whale Worship in Vietnam [113] đây là công
trình nghiên cứu về tín ngưỡng và thực hành tín ngưỡng thờ cá Voi của cư
dân vùng biển Việt Nam, trong đó tác giả tập chung chủ yếu vào khu vực biển
miền Trung Việt Nam, trọng tâm chính ở khu vực Đà Nẵng và Hội An.


11
Có thể thấy, đa phần các công trình thường tập trung nghiên cứu về một
hình thái tín ngưỡng đặc trưng của người Việt là tín ngưỡng thờ Cá Voi, và
khu vực nghiên cứu chủ yếu tập trung ở vùng Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
Tuy nhiên, những nghiên cứu này sẽ cho NCS có cái nhìn toàn diện hơn về tín
ngưỡng của cộng đồng cư dân vùng biển, đảo Việt Nam.
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu của các học giả trong nước
Trước năm 1945, những nghiên cứu về tín ngưỡng của cư dân biển và
hải đảo ở Việt Nam còn khá hiếm hoi và các nghiên cứu mới chỉ tập trung chủ
yếu vào tín ngưỡng thờ cá Voi. Những công trình có thể kể đến như: Gia
Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức [25], Đại Nam nhất thống chí phần tỉnh Thừa Thiên Huế [59] của Quốc sử quán Triều Nguyễn đã đề cập
đến vai trò quan trọng của cá Voi trong đời sống ngư dân Trung Bộ và Nam
Bộ. Cũng bàn về tín ngưỡng thờ cá Voi có thể kể đến công trình: Góp phần
nghiên cứu văn hóa Việt Nam của Nguyễn Văn Huyên [44], Việt Nam văn
hóa sử cương của Đào Duy Anh [3]... Ở giai đoạn này, có một số công trình
đề cập đến tục thờ một vị thần biển được thờ chủ yếu từ khu vực Nghệ An trở
ra phía Bắc đó là Tứ Vị thánh nương như: Việt điện u linh [107], Lĩnh Nam
chích quái [61], Lịch triều hiến chương loại chí [99]... Sau năm 1945, việc
nghiên cứu tín ngưỡng của cư dân vùng biển và hải đảo được quan tâm hơn,

nhưng nội dung chủ yếu vẫn tập trung vào tục thờ cá Voi. Tiêu biểu như: Kẻ
thừa tự của ông Nam Hải của Cung Giũ Nguyễn [57] và Tục thờ cá voi của
Thái Văn Kiểm. Nếp cũ của Toan Ánh [7].... Từ năm 1975 bắt đầu xuất hiện
những nghiên cứu rộng hơn về tín ngưỡng của cư dân ven biển, tiêu biểu nhất
là công trình Thần, người và đất Việt (2006) của Tạ Chí Đại Trường [85]. Ở
công trình này ông dành hẳn một tiểu mục về "hệ thống thần linh biển", trong
đó ông điểm tên các vị thần như Tứ Vị thánh nương, cá Ông, Po Rayak - thần
sóng biển của người Chăm.


12
Đến những năm cuối của thế kỷ XX và đầu XXI, nghiên cứu về biển và
văn hóa biển đảo đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu dưới nhiều
khía cạnh khác nhau, giúp cho chúng ta có được bức tranh về văn hóa biển
Việt Nam nói chung và tín ngưỡng nói riêng ngày càng rõ nét.
Trước hết, là các công trình nghiên cứu về các giá trị văn hóa biển Việt
Nam trong đó có tín ngưỡng như Văn hóa dân gian làng ven biển do Ngô Đức
Thinh chủ biên (2000)[72], Cộng đồng cư ngư dân Việt Nam của Nguyễn Duy
Thiệu (2002) [69], Văn hóa cư dân ven biển Quảng Ngãi của Nguyễn Đăng
Vũ (2003) [103], Văn hóa biển miền trung của Lê Văn Kỳ (2015) [49], Đời
sống kinh tế - xã hội - văn hóa của ngư dân và cư dân vùng biển Nam Bộ của
Phan Thị Yến Tuyết (2014) [89], Một góc nhìn về văn hóa biển của Nguyễn
Thành Lợi (2014) [53], Biển trong văn hóa người Việt của Nguyễn Thị Hải
Lê (2009)[51], Văn hóa biển đảo Việt Nam của Vũ Quang Dũng (2017) [20],
Đời sống xã hội và văn hóa của cộng đồng ngư dân ven biển và hải đảo từ Đà
Nẵng đến Khánh Hòa góc nhìn Dân tộc học của Bùi Xuân Đính và Nguyễn
Thị Thanh Bình (2018) [24]... Trong các công trình trên, các tác giả đa phần
đi vào miêu thuật lại các thành tố văn hóa nổi bật của cộng đồng cư dân ven
biển ở một địa phương cụ thể.
Chưa có nhiều nghiên cứu chuyên biệt về tín ngưỡng của cư dân biển,

đảo Việt Nam nhưng năm gần đây đã chứng kiến sự xuất hiện ngày nhiều các
công trình nghiên cứu về tín ngưỡng của cộng đồng cư dân ven biển. Tiêu
biểu có thể kể đến công trình như Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng NamĐà Nẵng của Nguyễn Xuân Hương (2009) [43], Những vị thần bảo vệ biển
đảo và ngư dân Việt Nam của Lê Minh và Phạm Đăng (2014) [55], Biến đổi
tín ngưỡng của cư dân ven biển Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóacủa Lê
Thị Thu Hiền (2017) [40], Phong tục - tín ngưỡng dân gian làng biển Đông
Tác của Lê Thế Vinh, Nguyễn Hoài Sơn (2012)[102], Lễ hội cổ truyền cư dân


13
ven biển Hải Phòng và sự biến đổi trong giai đoạn hiện nay của Lê Thanh
Tùng (2012) [81],...
Ngoài các chuyên khảo còn có rất nhiều những bài báo, bài tham luận
viết về tín ngưỡng của cư dân vùng biển Việt Nam như “Tục thờ cá voi và lễ
hội cầu ngư ở miền Trung Việt Nam: Vấn đề phát huy giá trị văn hóa biển
trong bối cảnh xã hội đương đại” của Nguyễn Phước Bảo Đàn (2015), “Lễ hội
đền Lê Khôi trong đời sống văn hoá của cư dân ven biển Thạch Hà, Lộc Hà Hà Tĩnh” của Đặng Thị Thúy Hằng (2010), “Lễ hội Quan Lạn - nét văn hóa
độc đáo của ngư dân biển đảo Vân Đồn”của Nguyễn Thị Phương Thảo
(2009), “Những đặc trưng của lễ hội truyền thống ven biển Quảng Ninh” của
Nguyễn Thị Phương Thảo (2014), ...
Đây là những nguồn tư liệu quan trọng giúp NCS có được cái nhìn toàn
diện hơn về tín ngưỡng cư dân biển, đảo Việt Nam.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng cư dân ven biển
Thanh Hóa
Tính đến nay có không ít công trình nghiên cứu về các giá trị văn hóa
biển Thanh Hóa. Tuy nhiên, chưa có nhiều công trình đi sâu nghiên cứu về tín
ngưỡng của cư dân vùng biển Thanh Hóa. Một số công trình liên quan đến tín
ngưỡng cư dân ven biển Thanh Hóa có thể được phân loại thành các nhóm
sau đây:
Nhóm các công trình thống kê, liệt kê những vị thần được cộng đồng

cư dân vùng biển Thanh Hóa thờ tự và các địa điểm thờ tự. Đầu tiên, phải kế
đến cuốn Thanh Hóa chư thần lục, được viết vào năm Thành Thái thứ 15
(1905) [60], là cuốn sách thống kê các vị thần được thờ ở Thanh Hóa (837
nam thần và 165 nữ thần), nơi thờ và huyền tích về các vị thần được thờ,
trong đó bao gồm cả các vị thần biển. Đại Nam nhất thống chí (1960) tập
Thượng và tập Hạ (2006) [100] là một công trình có nhiều dữ liệu về Thanh


14
Hóa bao gồm vị trí, địa giới, các điều kiện tự nhiên và nhân văn, hệ thống các
đình, đền, chùa, miếu mạo và những vị thần được thờ ở địa phương này. Đây
là một nguồn tài liệu quý cho những nhà nghiên cứu muốn khảo cứu riêng về
địa lý và lịch sử tỉnh Thanh Hóa thời phong kiến. Công trình Tỉnh Thanh Hóa
của học giả người Pháp là Charles Robequain (đã được Nguyễn Xuân Dương
và Lâm Phúc Giáp dịch ra tiếng Việt-2012) [62] là công trình nghiên cứu về
Thanh Hóa trên các lĩnh vực sử học, văn học, nghệ thuật, kiến tạo địa hình,
dân tộc học, phong tục học, dân cư và các luồng di dân... Trong cuốn sách có
một phần miêu tả khá chi tiết về vùng biển Thanh Hóa từ sự hình thành các
vùng đất ven bờ, nghề đánh cá biển, chế biến nước mắm, cách thức thực hành
tín ngưỡng của cộng đồng cư dân ở vùng biển. Hệ thống các công trình địa
chí của tỉnh, của các huyện và xã vùng biển như: Địa chí tỉnh Thanh Hóa tập
1 (2000) [77], Địa chí huyện Tĩnh Gia (2010) [38], Địa chí huyện Quảng
Xương (2010) [36], Địa chí văn hóa huyện Quảng Xương (2015), Địa chí văn
hóa Hoằng Hóa (2000) [35], Địa chí Hậu Lộc (1990) [34], Địa chí Nga Sơn
(2012), Địa chí xã Ngư Lộc (1992 ) [23], Địa chí xã Hải Thanh (2006) [8],
Địa chí xã Quảng Nham (2008) [22]... đã giới thiệu khái quát về hệ thống các
vị thần biển, nơi thờ, lễ hội và những giá trị liên quan đến sinh hoạt tín
ngưỡng của cộng đồng cư dân ven biển Thanh Hóa nói chung và của từng
huyện, xã ven biển nói riêng. Nhìn chung, các công trình trên mới chỉ dừng
lại ở hình thức thống kê mô tả một cách khái quát nhất những tín ngưỡng của

cộng đồng cư dân vùng biển Thanh Hóa. Đây chính là nguồn tư liệu cần thiết
giúp NCS có được cái nhìn tổng thể, từ đó xác định được rõ đối tượng và
phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Thứ hai là nhóm các công trình nghiên cứu chuyên sâu về tín ngưỡng
cộng đồng cư dân ven biển Thanh Hóa. Ở những công trình này, các tác giả
đa phần đi vào miêu thuật các thành tố văn hóa tại một địa danh cụ thể và cố


15
gắng làm nổi bật đặc điểm riêng của địa phương. Những thành tố được lựa
chọn thường là di tích, các sinh hoạt tín ngưỡng, lễ hội, phong tục, diễn
xướng, văn hóa dân gian, tri thức bản địa... Tiêu biểu là các công trình: Văn
hóa dân gian làng ven biển do Ngô Đức Thịnh chủ biên (2000) [72] đã miêu
tả một cách toàn diện về làng Mom (nay là xã Quảng Nham, huyện Quảng
Xương); công trình Văn hóa biển miền Trung Việt Nam của Lê Văn Kỳ
(2005) [49] có đề cập đến địa danh làng biển Cự Nham hay còn gọi là làng
Mom với tục thờ Tứ Vị thánh nương trong ngôi đền lớn nhất của làng (gọi là
đền Cả) và coi lễ hội làng Cự Nham là một trong những lễ hội tiêu biểu của
cư dân vùng biển Thanh Hóa để tưởng nhớ công ơn của các vị thần biển. Một
loạt các công trình khác nữa có thể kể đến là các luận án tiến sĩ và luận văn
cao học: Luận án tiến sĩ của Phạm Văn Tuấn mang tiêu đề Cơ cấu tổ chức xã
hội truyền thống của làng Việt ven biển huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa
(2010) [88], luận văn thạc sỹ của Phạm Thị Hà Xuyên Nghiên cứu Tri thức
dân gian trong đánh bắt hải sản hiện nay của cư dân xã Ngư Lộc, huyện Hậu
Lộc, tỉnh Thanh Hóa (2015) [106], luận văn thạc sỹ của Nguyễn Xuân Trà
nghiên cứu về Tín ngưỡng cư dân ven biển huyện Quảng Xương, Thanh Hoá
(2010) [82],...
Nhóm các công trình nghiên cứu chuyên sâu về một tín ngưỡng cụ thể
của cộng đồng cư dân ven biển. Ở nhóm công trình, này các tác giả đi sâu vào
miêu tả, phân tích một tín ngưỡng của cộng đồng cư dân ven biển, từ đó chỉ ra

được vai trò của tín ngưỡng này trong đời sống của cộng đồng. Trước hết phải
kể đến các công trình tiêu biểu của Hoàng Bá Tường là Tục thờ thần Độc
Cước ở làng Núi Sầm Sơn (2005)[90] và Tục thờ Thần Độc Cước ở một số
làng ven sông biển tỉnh Thanh Hoá (luận án tiến sĩ, 2010)[91]. Tục thờ thần
Độc Cước là một tín ngưỡng điển hình của cư dân ven biển Thanh Hóa. Dưới
góc nhìn văn hóa dân gian, các công trình này đã phác thảo diện mạo của tục


16
thờ thần Độc Cước ở làng núi Sầm Sơn và một số làng ven sông biển tỉnh
Thanh Hoá đồng thời chỉ ra các tín ngưỡng cổ truyền và các lớp văn hoá tích
hợp trong tục thờ thần Độc Cước, những giá trị và sự biến đổi của tục thờ này
trong bối cảnh đương đại. Thần Độc Cước là một trong những vị thần được
coi là khởi nguồn ở Thanh Hóa và nay được thờ phụng ở nhiều nơi. Trước
đây, tục thờ này cũng đã được nhắc đến trong các công trình của tác giả người
Pháp J.I. Claeys trong một nghiên cứu của ông năm 1941 mang tên Người An
Nam và biển (1941) [28]. Học giả này đã ghi chép về kỹ thuật đóng bè mảng
đánh cá của làng Lương Nhiệm và nhân vật huyền thoại thần Độc Cước. Cuốn
Những vị thần bảo vệ biển đảo và ngư dân Việt do các tác giả Lê Minh và
Phạm Đăng biên soạn (2014) [55] đã luận bàn sơ bộ về mối quan hệ của
người Việt với biển rồi từ đó thống kê và phân loại các vị thần có vai trò bảo
vệ biển đảo và ngư dân Việt Nam. Trong nhóm thần biển ở Việt Nam được
các tác giả này thống kê có 2 vị thần được xem là có nguồn gốc xuất phát từ
Thanh Hóa là Bà Triều và thần Độc Cước. Các tác giả đã khảo cứu về nguồn
gốc cũng như miêu thuật tục thờ hai vị thần này. Đề tài khoa học cấp Bộ
mang tiêu đề Hệ thống thần linh biển và ý nghĩa của việc thực hành tín
ngưỡng này đối với việc khai thác biển và xác lập ý thức chủ quyền về biển
của người Việt ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ (2015) [6] do Trần Thị An làm chủ
nhiệm đã phác họa hệ thống thần linh biển và thực hành tín ngưỡng thờ thần
biển của người Việt ở khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, trong đó bao gồm cả

Thanh Hóa. Nhóm tác giả đã thống kê sơ bộ hệ thống thần biển Thanh Hóa và
bàn luận sâu về một số vị thần tiêu biểu ở như thần Độc Cước, Bà Triều và
tập hợp lễ hội ở vùng biển Sầm Sơn, lễ cầu Ngư Diêm Phố (Hậu Lộc). Công
trình Văn hóa biển đảo Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa dân gian (2017) [20]
của Vũ Quang Dũng là công trình tập hợp các bài viết của nhiều nhà nghiên
cứu về biển đảo và văn hóa biển đảo. Trong công trình này có 5 bài viết của


17
TS Hoàng Bá Tường luận bàn về các hoạt động tín ngưỡng của cộng đồng
ngư dân Thanh Hóa như bài "Bà Triều - tổ nghề dệt xăm xúc và các lớp văn
hóa, tín ngưỡng hội tụ trong một mẫu thần", "Tín ngưỡng thờ thần Độc Cước
sự tiếp biến giữa các yếu tố văn hóa bản địa và ngoại sinh", "Lễ hội cầu ngư đậm sắc thái văn hóa tín ngưỡng biển",...
Bàn về những thực hành tín ngưỡng của cộng đồng cư dân ven biển còn
có các công trình như Lễ hội dân gian Thanh Hóa (2016) [93] do TS Hoàng
Bá Tường chủ biên, Lễ tục, lễ hội truyền thống Thanh Hóa (2006) [56]của
Hoàng Anh Nhân hay cuốn Lễ hội truyền thống Xứ Thanh (2 tập) của Ban
Quản lý di tích và Danh thắng tỉnh Thanh Hoá. Ở những công trình này, các
tác giả chủ yếu đi vào giới thiệu và phân tích về những lễ hội gắn với các vị
thần tiêu biểu của cộng đồng cư dân ven biển như: lễ hội cầu ngư của các xã
ven biển Thanh Hóa gắn với tục thờ Cá Ông, lễ hội bơi ở vùng cửa sông Lạch
Bạng, lễ hội Quang Trung, tục Tải Mã của làng biển Như Áng,... gắn liền với
hệ thống các di tích và danh thắng - nơi thờ tự các vị thần. Những giá trị về
lịch sử, văn hóa kiến trúc và tín ngưỡng tại các di tích được các nhà nghiên
cứu của Bảo tàng tổng hợp Thanh Hóa và Ban quản lý di tích và danh thắng
Thanh Hóa nghiên cứu, miêu tả và phân tích trong bộ sách Di tích và danh
thắng Thanh Hóa (1994-2009) 7 tập; Nguyễn Thanh Lợi, trong bài Tục thờ cá
Ông ở Việt Nam (trong cuốn Một góc nhìn về văn hóa biển (2014) của ông),
có bàn về tục thờ cá ông ở làng Diên Phố (Hậu Lộc) và đã khẳng định rằng về
niên đại, đền thờ cá Ông được xây dựng lâu nhất là đền thờ Diêm Phố (xã

Ngư Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa) được xây vào năm 1739. Cứ liệu này
cho thấy tục thờ cá Ông vốn có trong dân gian từ trước khi Nguyễn Ánh lên
ngôi (1802) và bác bỏ ý kiến của một số nhà nghiên cứu như: Cadière, Thái
Văn Kiểm, Sơn Nam... cho rằng tục thờ cá Ông chỉ có từ khu vực đèo Ngang
(Quảng Bình) trở vào [46, tr.235].


18
Cùng với những công trình kể trên, những nghiên cứu về tín ngưỡng cư
dân ven biển Thanh Hóa còn được công bố ở nhiều bài viết trên các tạp chí
khoa học chuyên ngành hay tại các hội nghị hội thảo trong nước và quốc tế:
Cửa thần Phù (Phạm Tuấn-1995); Làng Diêm Phố - xã Ngư Lộc (Phạm Tuấn2006); Làng ngư nghiệp ở huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá (Phạm Tuấn2006); Di sản văn hóa biển Thanh Hóa (Lê Văn Tạo-2012); Tín ngưỡng cư
dân ven biển Hậu Lộc trong đời sống hiện đại (Nguyễn Thị Việt Hưng-2017);
Tục thờ cá ở một số làng ven sông biển Thanh Hóa (Hoàng Minh Tường2010); Biển trong đời sống văn hóa của cộng đồng cư dân ven biển huyện
Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa (Nguyễn Thị Việt Hưng-2016).... Trong những
công trình nghiên cứu này, các học giả đã đề cập đến các nội dung về tín
ngưỡng của cư dân vùng biển Thanh Hóa với những hướng nghiên cứu và
tiếp cận khác nhau, kết quả của các công trình bước đầu giúp ta nhận diện
được các hình thái tín ngưỡng của cư dân ven biển Thanh Hóa. Đây là nguồn
tư liệu quan trọng trong quá trình nghiên cứu của NCS.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về vùng đất và tín ngưỡng cộng
đồng cư dân xã đảo Nghi Sơn
So với số lượng đã ít ỏi những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng cư
dân ven biển Thanh Hóa thì những công trình nghiên cứu về xã đảo Nghi Sơn
và tín ngưỡng cư dân xã Nghi Sơn còn hiếm hoi hơn.
1.1.3.1. Nhóm những công trình nghiên cứu về vùng đất Nghi Sơn
Trước tiên, để xác định vị trí của xã đảo Nghi Sơn, có một số công
trình đề cập đến như An Tĩnh cổ lục của học giả người Pháp H.L. Breton
(2014) [19], Đại Nam nhất thống chí (phần tỉnh Thanh Hóa) (2006) [100],
Tỉnh Thanh Hóa của học giả người Pháp Cherlers Robequain (2012) [62],

Lịch sử Thanh Hóa (2002) [12] tập 3, Địa chí Thanh Hóa (2000)tập 1, Địa
chí huyện Tĩnh Gia (2010) [38] và Lịch sử Đảng bộ xã Nghi Sơn (2013) [9].


×