Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Mở bài và kết bài mở rộng cho các tác phẩm văn học lớp 12 (Sưu tầm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.19 KB, 23 trang )

Mở bài và kết bài mở rộng của các tác phẩm văn
học Lớp 12
Một số mở bài cho bài Tuyên ngôn Độc Lập –Hồ Chí Minh
MB 1.
Theo chiều dài bốn ngàn năm của lịch sử dân tộc có nhiều dấu mốc đáng ghi nhớ
gắn với sự nghiệp đấu tranh chống ngoại xâm. Một trong những mốc lịch
sử trọng đại ấy là sự kiện Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, khai sinh
ra nước VNDCCH. Để tuyên bố với nhân dân cả nước và thế giới biết nước Việt
Nam từ nay độc lập, Hồ Chí Minh đã viết tuyên ngôn độc lập. Một văn kiện đặc
biệt vừa tính văn học, vừa mang tính lịch sử.( dẫn dắt nêu vấn đề nghị luận. Hoặc
trích đoạn văn cần phân tích )
MB 2.
Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, dân tộc ta phải đương đầu với đủ loại ngoại xâm:
Từ Bắc xuống, từ Nam lên, tứ Tây sang, từ Đông vào cho nên cùng với những
chiến công hiển hách: phá Tống, bình Nguyên, diệt Minh, đuổi Thanh; nền văn
học chúng ta cũng đã có những áng văn kiệt tác khẳng định đanh thép chủ
quyền độc lập của dân tộc. Bên cạnh bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt sang sảng
ngâm trên sông Như Nguyệt, Bình Ngô đại cáo một thiên cổ hùng văn của
Nguyễn Trãi, ngày nay chúng ta có Tuyến ngôn Độc lập y một áng văn chính luận
mẫu mực, nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh hoa của dân tộc, khí phách
của non sông. .( dẫn dắt nêu vấn đề nghị luận. Hoặc trích đoạn văn cần phân tích
)
MB 3.
Em hãy phân tích nghệ thuật Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh để thấy
rõ nghệ thuật lập luận đặc sắc của Bác Hồ?
Hồ Chí Minh (1890 – 1969) là một tác gia lớn của nền văn học dân tộc Việt Nam.
Người đã viết thành công trên nhiều thể loại văn chính luận, truyện ký, thơ ca và
ở thể loại nào cũng có những tác phẩm xuất sắc mẫu mực. Riêng ở thể loại văn
chính luận Hồ Chí Minh đã chứng tỏ mình là một cây bút xuất sắc, mẫu mực mà
dẫn chứng hùng hồn là tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập” 1945. “Tuyên ngôn độc
lập” là một bản tuyên bố lịch sử được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại vườn hoa Ba


Đình vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Bản “Tuyên ngôn độc lập” vừa tuyên bố nền
độc lập của dân tộc vừa bác bỏ luận điểm xâm lược của kẻ thù. “Tuyên ngôn độc
lập” là một áng văn chính luận vừa có giá trị pháp lí, giá trị lịch sử, giá trị nhân
văn và giá trị nghệ thuật cao. Cái tạo nên giá trị nghệ thuật cao chính là ở bút
pháp lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, dẫn chứng hùng hồn, văn phong xúc tích
trong sáng.
MB 4.
Sinh thời Hồ Chí Minh không bao giờ nhận mình là nhà văn nhà thơ mà chỉ là
người bạn của văn nghệ người yêu văn nghệ. Nhưng trên bước đường hoạt động
cách mạng Người nhận thấy văn chương có thể phụng sự đắc lực cho tuyên
truyền. Cộng với một tài năng nghệ thuật và một tinh thần nghệ sĩ chan chứa
cảm xúc nên người đã sáng tác nên nhiều tác phẩm có giá trị. Tiêu biểu trong số
nhưng tác phẩm đó phải kể đến tác phẩm tuyên ngôn độc lập. Nó không chỉ áng
văn chính luận hay sắc sảo với những lập luận chặt chẽ mà nó còn mang ý nghĩa
như tuyên ngôn khẳng định cho một đất nước – đó chính là nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa. ( dẫn dắt nêu vấn đề nghị luận. Hoặc trích đoạn văn cần phân
tích )
MB 5:Bàn về sức thuyết phục của bản Tuyên ngôn độc lập TNĐL là một tác phẩm


chứa nhiều giá trị. Nhìn từ nhiều góc độ khác nhau, giá trị nào của tác phẩm này
cũng , thật sâu sắc. Về mặt thể loại văn học, Tuyên Ngôn Độc Lập là một áng văn
chính luận hào hùng, mẫu mực, đáng lưu truyền muôn thuở. Một trong những nét
nổi bật của bản Tuyên Ngôn Độc Lập là lập luận sắc sảo, chặt chẽ tạo nên một
sức thuyết phục rất lớn. Xuất phát từ quan điểm sáng tác và đặc trưng thể loại
của tác phẩm này, chúng ta sẽ thấy được cội nguồn của sức thuyết phục ấy.

Một số mở bài cho bài thơ Tây tiến -Quang Dũng
MB 1 :
Đề bài : Cảm nhận về đoạn thơ

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
…..Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Ai đã từng đi qua một thời trận mạc chắc hẳn trong lòng thường lưu giữ những kỉ
niệm khó quên. Quang Dũng cũng vậy, những năm tháng gắn bó với binh đoàn
Tây tiến đã để lại ấn tượng không thể phai mờ trong trái tim ông. Nỗi nhớ Tây
Tiến, nhớ đồng đội , nhớ núi rừng thôi thúc ông viết Tây tiến – bài thơ với những
vần thơ đậm chất anh hùng ca bay lên từ hiện thực tàn khốc. Đoạn đầu bài thơ
chính là đoạn ghi lại những kỉ niệm những kỉ niệm đầy ắp và nỗi nhớ của nhà thơ
về những ngày tháng gắn bó cùng binh đoàn:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
…..Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
MB 2:
Đề bài : Chứng minh chất hiện thực và lãng mạn của bài thơ Tây tiến thông qua
đoạn thơ sau :
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc…..
Chín năm kháng chiến chống Pháp với bao gian khổ, hi sinh, mất mát nhưng đã
để lại một dấu son chói lọi trong lịch sử dân lộc. Những năm tháng đáng nhớ ấy
là nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca. Nhiều bài thơ ra đời ngay từ những ngày
đầu kháng chiến và tạo nên sức mạnh cho người lính đi tới thắng lợi cuối cùng .
Trong những bài thơ đặc sắc , chúng ta phải kể đến Tây Tiến của Quang
Dũng. Bài thơ giàu chất hiện thực nhưng lại dạt dào cảm hứng lãng mạn. Đoạn
thơ sau dù chỉ là trích đoạn, cũng cho thấy rất rõ đặc điểm ấy:
( Trích dẫn đoạn thơ )
MB3 :
Cảm nhận của anh/ chị về hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ sau
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc…
Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng được xem là một trong những tác phẩm xuất
sác của thơ ca Việt Nam giai đoạn sau 1945. Bài thơ cho chúng ta cảm nhận một
cách rõ nét, sinh động vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của thiên nhiên miền Tây. Đặc
biệt bài thơ đã khắc sâu trong tâm trí người đọc vẻ đẹp hình tượng người lính, vẻ

đẹp ấy được thể hiện tập trung ở đoạn thơ:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quăn xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành!
Đề bài :Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận, mỗi nhà thơ


lại có cách khám phá thể hiện riêng. Trong bài Tây Tiến, Quang Dũng
viết:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Trong Việt Bắc, Tố Hữu viết:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
Bài làm:
“Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
Đã có những tháng ngày như thế, những tháng ngày đất nước hừng hực sục sôi
trong khí thế của cuộc kháng chiến gian khổ mà anh hùng. Đã có những con

người như thế, những con người nhỏ bé nhưng tạo sức mạnh của những đoàn
quân một thời làm khiếp sợ kẻ thù, ra trận với ý chí “Quyết tử cho Tổ Quốc quyết
sinh” để giành lấy độc lập, tự do cho dân tộc. Cùng tái hiện vẻ đẹp của những
đoàn quân ra trận, mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng. Trong bài
Tây Tiến, Quang Dũng viết:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Trong Việt Bắc, Tố Hữu viết:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”.

Một số mở bài cho Người lái đò sông Đà– Nguyễn Tuân
MB 1 :
Nói đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩ ngay đến “chủ nghĩa xê dịch”. Ông
tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi không chỉ để thoả mãn cái thú tìm đến miền đất
lạ cho thoả niềm khát khao “Xê dịch” mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của
thiên nhiên và ở tâm hồn của người lao động. Những trang viết hay nhất của ông
thường là những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước dữ dội hoặc những cảnh
thiên nhiên đẹp một cách tuyệt đỉnh, tuyệt vời. “Người lái đò sông Đà” là tác
phẩm tiêu biểu cho phong cách của nhà văn. Tác phẩm là những trang văn miêu
tả rất tinh tế vẻ đẹp hình tượng con sông Đà vừa hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất
trữ tình và lãng mạn.
MB 2 :Đề bài: Cảm nhận của em về hình tượng người lái đò trong tác phẩm
Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn
Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tuỳ bút này, Nguyễn Tuân tự coi

mình là người đi tìm cái thứ vàng mười của núi rừng Tây Bắc và nhất là cái thứ
vàng mười trong những con người đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng


quê hương. Chất vàng mười i ấy chính là vẻ đẹp người lái đò sông Đà. Dưới ngòi
bút tài hoa của Nguyễn Tuân người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người
nghệ sỹ tài hoa trong nghề của mình.
MB3 : Cảm nhận về một đoạn văn trong tác phẩm Người lái đò sông Đà
Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa , uyên bác , cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của
cuộc sống . Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút . Một trong những sáng tác tiêu
biểu của ông là tuỳ bút “ Người lái đò sông Đà” . Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp
đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản
dị mà kì vĩ trên dòng sông . Đoạn trích dưới đây là đoạn tiêu biểu của thiên tuỳ
bút này: ( trích dẫn đoạn văn trong đề bài. Các em không cần chép đoạn trích
vào bài thi nhé ! chỉ chép câu đầu và chấm chấm (…) câu cuối của đoạn )
MB 4 : Phân tích nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân qua
tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”
Nguyễn Tuân là một trong những cây bút xuất sắc của văn xuôi hiện đại Việt
Nam. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con
người, đặc biệt là những người lao động bình dị mà tài hoa. Bên cạnh đó, tác
phẩm của ông được người đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ thuật rất riêng
và rất độc đáo . “Người lái đò Sông Đà ” là một bài tùy bút tiêu biểu cho phong
cách nghệ thuật của ông.

Một số mở bài cho bài thơ Việt Bắc– Tố Hữu
MB 1 :
Đề bài: Cảm nhận của em về hai đoạn thơ sau:
“Ta với mình, mình với ta
…Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.”
“Dẫu xuôi về phương bắc

…Hướng về anh một phương.”
Bài làm
Trong cuộc đời mỗi con người, ai cũng có ít nhất một niềm thương, nỗi nhớ. Niềm
thương, nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong ta tạo nên những rung động mãnh liệt
trong cảm xúc. Với các thi nhân , cảm xúc lại là yếu tố vô cùng quan trọng. Nó
giúp cho các nhà thơ làm nên những thi phẩm say đắm lòng người. Tiếng nói từ
trái tim sẽ đến được với trái tim. Đoạn thơ:
” Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.”
trích trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu và đoạn thơ:
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương.”
trích trong bài thơ “Sóng của Xuân Quỳnh là những vần thơ dạt dào cảm xúc như
thế.
( Bài viết của học sinh)
MB 2 :
Đề bài : Cảm nhận của anh/ chị về đoạn thơ sau….
Bài làm:


Có thể nói Tố Hữu là nhà thơ vĩ đại của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm của
ông ghi dấu các sự kiện, các dấu mốc của lịch sử quan trọng ở nước ta suốt hơn
nửa thế kỉ. Việt Bắc là một trong số những bài thơ tiêu biểu. Tác phẩm ghi lại sự
kiện Đảng và Nhà nước chuẩn bị rời Việt Bắc về Hà Nội sau cuộc kháng chiến
chống Pháp thắng lợi. Trong bài thơ của mình, Tố Hữu đã thể hiện những tình
cảm tha thiết của người đi – kẻ ờ, thể hiện những cảm nhận sâu sắc của tác giả

về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Điều này được thể hiện rõ nét qua đoạn
thơ:
Ta về mình có nhớ ta,
….Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
MB 3 :
Đề bài:
”Việt Bắc” tiêu biểu cho giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết của Tố Hữu và
nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc của thơ ông.Hãy chứng minh điều đó qua
đoạn trích hai mươi câu thơ đầu của bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
Bài làm:
Việt Bắc – Một sáng tác thành công của nhà thơ Tố Hữu được viết ra như một bản
anh hùng ca , ca ngợi cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Bải thơ như lời
hát tâm tình của mối tình tha thiết và day dứt giữa đồng bào Việt Bắc với người
cán bộ về xuôi. Tác phẩm không chỉ hấp dẫn người đọc ở nội dung sâu sắc mà
còn bởi giọng thơ tâm tình ngọt ngào cùng nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân
tộc.
MB 4 : Cảm nhận về đoạn thơ :
“Mình về mình có nhớ ta

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Bài làm :
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người Cách mạng. Thơ ông
đậm đà tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Bài thơ “Việt Bắc” là
đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ Việt Bắc có nhiều đoạn thơ hay mà tiêu biểu là đoạn thơ sau:
“Mình về mình có nhớ ta

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
MB5 :

Việt Bắc là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp và cũng là đỉnh cao của
thơ Tố Hữu là bài thơ tiêu biểu cho phong cách này. Bằng cấu từ đầy màu sắc trữ
tình dân gian, 1 thứ ngôn ngữ ngọt ngào tha thiết, những hình ảnh rất giàu chất
thơ Tố Hữu đã từ cuộc chia tay giữa những người kháng chiến đối với đồng bào
Việt Bắc mà tái hiện lại một Việt Bắc trong kháng chiến đầy gian khổ hy sinh
nhưng thấm đẫm nghĩa tình quần chúng giữa cách mạng với nhân dân, lãnh tụ
với dân tộc, miền ngược với miền xuôi, quá khứ, hiện tại, tương lai như hoà
quyện vào nhau. Điều đó đã được thể hiện ngay trong 8 câu thơ mở đầu bài thơ.

Một số mở bài cho bài thơ Sóng -Xuân Quỳnh
MB1 : Cảm nhận của anh/ chị về đoạn thơ sau :
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ


Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Bài làm :
Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ trẻ xuất sắc trưởng thành từ kháng
chiến chống Mỹ và là một trong số ít những nhà thơ nữ viết rất nhiều và rất
thành công về đề tài tình yêu. Một trong những thành công xuất sắc về đề tài
này của nữ sĩ là bài thơ “Sóng”, hai khổ thơ đầu bài thơ tác giả viết:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
MB2 :
Từ xa xưa, tình yêu luôn là điều bí ẩn đối với con người. Có lẽ cũng vì thế mà mỗi
nhà thơ đều có cách lí giải và cảm nhận riêng về tình yêu. Ta bắt gặp một Xuân
Diệu say đắm, nồng nàn, khao khát được yêu đương mãnh liệt, một Nguyễn Bính
chân chất của tình yêu đồng nội, gần gũi với thôn quê. Và có lẽ chắc chắn người
đọc sẽ không quên được Xuân Quỳnh với nhiều trạng thái cảm xúc vừa gần gũi,
giản dị, vừa ồn ào, mãnh liệt. Bài thơ “sóng” là tiếng lòng chân chất, mộc mạc và
cũng đầy những bất an về tình yêu đôi lứa.. Bài thơ mở đầu bằng những cảm xúc
khi yêu:
Theo yêu cầu, cô viết tiếp mở bài tham khảo cho Rừng Xà nu và Những đứa con
trong gia đình

Một số mở bài cho tác phẩm Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành
MB1 . Dùng cho nhân vật T Nú :
Rừng xà nu là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào Tây
Nguyên trong kháng chiến chống Mĩ. Tái hiện chân thực cuộc chiến đâu kiên
cường của nhân dân Tây Nguyên trong những ngày đánh Mỹ, nhà văn tập trung
miêu tả hình thành của một thê hệ tiếp nối, phát huy truyền thống anh hùng của
cha ông, và qua đó nhà văn cũng phản ánh sự trưởng thành của nhân dân Tây
Nguyên trong cuộc đấu tranh một mất một còn với kẻ thù mới là đế quốc Mỹ.
Tiêu biểu cho thế hệ thanh niên đó là Tnú.
MB 2 : Dùng cho đề bài : cảm nhận của anh/ chị về đoạn văn sau :
Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn đã thành lệ, mỗi ngày hai
lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối….Đứng trên đồi
xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi



xà nu nối tiếp tới chân trời.
Bài làm:
Rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành viết vào mùa hè 1965 khi đến quốc Mỹ
bắt đầu đổ quân ào ạt vào miền Nam nước ta. Tác phẩm rất thành công trong
việc khắc hoạ hình ảnh rừng xà nu- một loài cây hùng vĩ, cao thượng, man dại,
trong sáng cũng là hình ảnh ẩn dụ cho người dân Tây Nguyên nói riêng, con
người Việt Nam nói chung. Ngay ở đoạn văn mở đầu truyện, ta bắt gặp hình ảnh
rừng xà nu hùng vĩ, để lại ất tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Mở bài khác :
Mỗi nhà văn dường như đều gắn bó với một vùng quê nhất định . Nếu như
Nguyên Hồng tha thiết với Hải Phòng –thành phố hoa phượng đỏ, Nam Cao gắn
bó cả cuộc đời với làng Vũ Đại qua những trang văn sắc lạnh mà thấm đẫm nước
mắt, thì Nguyễn Trung Thành dường như có một niềm yêu thiết tha và mối giao
cảm kì lạ với Tây Nguyên. Trong suốt hai cuộc kháng chiến, chính mảnh đất và
con người nơi đây là nguồn cảm hứng lớn lao cho sáng tác của ông, làm nên tác
phẩm “Rừng xà nu”- một bản anh hùng ca thời hiện đại. Đến với “Rừng xà nu”,
ngay ở đoạn văn mở đầu truyện, ta bắt gặp hình ảnh rừng xà nu hùng vĩ, để lại
ất tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Một số mở bài cho tác phẩm Những đứa con trong gia đình – Nguyễn
Thi
MB 1 : Cảm nhận về đoạn văn trong tác phẩm: “Cúng mẹ và cơm nước xong,
mấy chị em, chú cháu thu xếp đồ đạc dời nhà. …. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng
mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè
nặng ở trên vai”.
Nhắc tới Nguyễn Thi, người đọc không thể không nhắc tới ” Người mẹ cầm súng,
” Khi mẹ vắng nhà”, và đặc biệt là truyện ngắn ” Những đứa con trong gia đình” .
Trong tác phẩm, cảm động nhất là đoạn văn kể chuyện chị em Chiến, Việt làm
cơm cúng má rồi dời bàn thờ má sang nhà chú Năm. Đoạn truyện đã đem lại

những rung động sâu xa cho người đọc trước vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt
Nam trong kháng chiến: ” Cúng mẹ và cơm nước xong….”
MB 2 : So sánh Việt và Tnú
Truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành và Những đứa con trong gia
đình của Nguyễn Thi là 2 tác phẩm xuất sắc, phản ánh cuộc chiến đấu của con
người Việt Nam trong kháng chiến. Tnú và Việt là hai nhân vật chính , tiêu biểu
cho phẩm chất người cộng sản kiên cường. Qua hai nhân vật, tác giả Nguyễn
Trung Thành và Nguyễn Thi đã khắc họa thành công vẻ đẹp con người Việt Nam
trong kháng chiến. Ở mỗi nhân vật đều có những vẻ đẹp riêng, hấp dẫn người
đọc.

Một số mở bài cho bài Đất nước- Nguyễn Khoa Điềm
MB 1 :
Đề bài yêu cầu cảm nhận 9 câu thơ đầu trong bài Đất Nước, ta có thể tham khảo
mở bài sau:
“Đất Nước” từ lâu đã là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca nói riêng và văn học
nói chung. Nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về Đất Nước
bằng những hình ảnh kỳ vĩ, mỹ lệ hay cảm hững về lịch sử qua các triều đại thì
Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc bình dị để miêu tả về
Đất Nước. Đến với bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm ta như đứng trước


muôn màu văn hóa, truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần. Vẻ đẹp ấy được
hiện lên sâu sắc nhất qua chín câu thơ đầu. (trích thơ)
MB2 : So sánh Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Đất nước của Nguyễn Khoa
Điềm
Trải suốt chiều dài lịch sử văn học, hình tượng đất nước đã bắt nhịp trái tim của
không biết bao nhiêu nghệ sĩ để đi vào thơ với vẻ đẹp thiêng liêng và niềm tin
yêu sâu sắc. Hồn thiêng đất nước, tinh thần dân tộc hào hùng được bắt nguồn từ
“Nam quốc sơn hà”, “Hịch tướng sĩ”, “Tuyên ngôn Độc lập”… và tiếp nối bền

vững qua mỗi thời kì. “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi và “Đất nước” của Nguyễn
Khoa Điềm gặp gỡ nhau ở đề tài ấy. Hai đoan thơ tiêu biểu ở hai bài thơ đã góp
phần thể hiện rõ….
MB 3 :Đề bài: Nhận xét về chương V Đất Nước cuả Nguyễn Khoa Điềm có ý kiến
cho rằng:” Tác giả đã phát biểu tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân, ĐN của ca
dao thần thoại” và tư tưởng này chi phối cả nội dung và hình thức nghệ thuật của
bản trường ca”.Từ đoạn trích ĐN anh chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Bài làm
Nhắc đến lối thơ trữ tình chính luận ta không thể không nhắc đến Nguyễn Khoa
Điềm- một nhà thơ xuất sắc của nền thơ ca hiện đại trưởng thành trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ. “Mặt đường khát vọng” được viết năm 1971 là tác phẩm
tiêu biểu nhất của ông. Trong đó chương V là chương trung tâm kết nối mạch
ngầm của văn bản bằng hình tượng nghệ thuật trung tâm là Đất Nước. Nhận xét
về chương này có ý kiến cho rằng: “Tác giả đã phát biểu tư tưởng “Đất Nước của
Nhân Dân, ĐN của ca dao thần thoại” và tư tưởng này chi cả nội dung và hình
thức nghệ thuật của bản trường ca”.

Một số mở bài cho bài thơ Đàn ghi ta của Lor-Ca – Thanh Thảo
1. Đề bài: ” Phân tích hình tượng nhân vật Lor-ca trong bài thơ “Đàn ghi ta của
Lor-ca” của Thanh Thảo.
Bài làm:
Cùng với Xuân Quỳnh, Thanh Thảo cùng thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ
cuộc kháng chiến chống Mỹ nhưng trang thơ Thanh Thảo lại có dấu ấn rất riêng.
Ông là người đi đầu trong phong trào cách tân thơ Việt, con đường mà ông lựa
chọn để cách tân thơ Việt là việc đào sâu cái tôi nội cảm, tìm kiếm những cách
biểu đạt mới qua hình thức những câu thơ tự do, phá bỏ mọi ràng buộc, khuôn
sáo. Thanh Thảo đi theo trường phái thơ tượng trưng siêu thực có nguồn gốc từ
phương Tây mà Lor-ca là một đại biểu đi đầu trong trường phái thơ đó. Bài thơ
“Đàn ghi ta của Lor-ca” được rút ra từ tập “Khối vuông ru bích”, bài thơ đã xây
dựng thành công hình tượng nhân vật Lor-ca.

2. Đề Bài:
Phân tích hình tương nhân vật Lor-ca trong bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” của
nhà thơ Thanh Thảo.
Bài Làm:
Bài viết của Mơ Cao, học sinh trường THPT Bình Minh, Kim Sơn Ninh Bình
Thanh Thảo là một nhà thơ khoác áo lính, ông sinh ra tại Quảng Ngãi, tốt nghiệp
khoa văn trường Đại Học Tổng Hợp nhưng sau đó vào chiến trường miền Nam
công tác. Thanh Thảo luôn nỗ lực tìm tòi hướng để cách tân thơ Việt. Ông đi theo
trường phái thơ tượng trưng siêu thực có nguồn gốc từ phương Tây mà Lor-ca là
một trong những người đi đầu trong trường phái thơ đó. Bài thơ “Đàn ghi ta của
Lor-ca” đã xây dựng thành công hình tượng nghệ sĩ Lor-ca.


Một số mở bài cho tác phẩm Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân
(trích)
Đề bài:Phân tích hình tượng sông Đà trong tùy bút Người lái đò sông Đà của
Nguyễn Tuân
Bài làm
Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
Những tác phẩm của ông viết bằng cái “ngông” và bằng tình yêu tha thiết.
“Người lái đò sông Đà” là bài tùy bút lấy cảm hứng từ chuyến đi thực tế. Hình
ảnh con sông Đà được nhìn qua lăng kính tâm hồn nghệ sỹ với nhiều vẻ đẹp khác
nhau mang lại ấn tượng độc đáo đối với người đọc. Nguyễn Tuân đã rất thành
công khi xây dựng hình tượng sông Đà bằng chất liệu ngôn ngữ và tình cảm tha
thiết.
( Sưu tầm)
2. cảm nhận đoạn : “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… trên dòng trên”.
Nói đến Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám, người ta phải nhắc Vang bóng
một thời cũng như sau cách mạng tháng Tám, nhắc đến Nguyễn Tuân người ta
không thể quên tập tùy bút Sông Đà của ông. Thông qua Sông Đà, bằng ngòi bút

tài hoa, già dặn của mình, Nguyễn Tuân không chỉ phác họa được bức chân dung
ông lái đò trên sông Đà, bức chân dung người lao động trên sông nước được nâng
lên ngang tầm nghệ sĩ, mà còn đem đến con sông Đà một cái hồn người thực sự:
cũng biết vui, buồn, giận dỗi, phẫn nộ, nhớ thương… Nhưng, gấp lại trang sách,
đọng lại trong tôi vẫn là đoạn này: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… trên dòng
trên”.
( sưu tầm)
3.Về đoạn trích tuỳ bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, có ý kiến cho
rằng: Đó là một công trình khảo cứu công phu. Nhưng ý kiến khác lại nhấn
mạnh: Đó là một áng văn giàu tính thẩm mĩ.
Từ việc phân tích đoạn trích tuỳ bút, anh/chị hãy bình luận những ý kiến
trên
Nguyễn Tuân là nhà văn tài hoa, am hiểu sâu rộng về nhiều lĩnh vực và là người
nghệ sĩ đặc biệt giàu cảm hứng trước những vẻ đẹp kì vĩ, phi thường, dữ dội .
NLĐSĐ là tác phẩm được rút từ tập truyện Tây Bắc (1960), là kết quả nhiều lần
lên Tây Bắc và trong chuyến đi thực tế 1958 của Nguyễn Tuân.Về tác phẩm
này ,có ý kiến cho rằng “đó là một công trình khảo cứu công phu”, ý kiến khác lại
cho rằng “đó là một áng văn giàu tính thẩm mĩ”. Phải chăng đó là hai ý kiến trái
ngược nhau?

Một số mở bài cho bài Ký Ai đã đặt tên cho dòng sông – Hoàng Phủ
Ngọc Tường (trích)
Cảm nhận về hình tượng sông Hương trong bài :Ai đã đặt tên cho dòng sông của
Hoàng Phủ Ngọc Tường
Con sông Hương thơ mộng của xứ Huế đã làm ngẩn ngơ không ít những tâm hồn
nhạy cảm và cũng làm “khổ” không ít bậc nghệ sĩ tài hoa. Ta bắt gặp sông Hương
ở muôn mặt của nghệ thuật: thơ, ca, nhạc, hoạ. Đến với bút kí Ai đã dặt tên cho
dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường một lần nữa ta cảm nhận vẻ đẹp sông
Hương và sự đam mê của tác giả khi viết về dòng sông.
( sưu tầm)



Một số mở bài cho tác phẩm Vợ chồng A – Phủ – Tô Hoài (trích)
1.Phân tích giá trị nhân đạo của truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
BÀI LÀM
Có ai đó đã từng nhận xét: suy cho cùng thì ý nghĩa thực sự của văn học là góp
phần nhân đạo hoá con người. Tác phẩm văn học là sản phẩm tinh thần của con
người, do con người làm ra để đáp ứng nhu cầu của nó. Vì vậy tác phẩm văn học
chỉ thực sự cóđ giá trị khi nó lên tiếng vì con người, ca ngợi và bảo vệ con người.
Với ý nghĩa đó một tác phẩm lớn trước hết phải là một tác phẩm có giá trị nhân
đạo sâu sắc. Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài là một tác phẩm như thế.
2. Đề bài :
Cảm nhận của anh/ chị về đoạn văn trích sau đây trong tác phẩm Vợ chồng A
Phủ của Tô Hoài:
“Ngày Tết, MỊ cũng uống rượu, Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say,
Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng MỊ thì đang
sống về ngày trước…..
Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này là lúc trai làng đến bên vách làm hiệu,
rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi, Mị nín khóc. Mị lại bồi hồi.”
BÀI LÀM
Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài sau Cách
mạng tháng Tám. Hiện thực và nhân đạo là nội dung nổi bật của thiên truyện
này. Nội dung ấy lại được thể hiện bằng giọng văn trần thuật, miêu tả và thể hiện
tâm trạng, tính cách nhân vật hết sức tinh vi và sâu sắc. Đoạn vân trên thể hiện
rất rõ tài năng của Tô Hoài trong việc mô tả và khắc họạ tâm trạng nhân vật Mị,
một nhân vật trung tâm của thiên truyện Vợ chồng A Phủ.

Một số mở bài cho tác phẩm Vợ nhặt – Kim Lân
1, Đề bài :
Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao kết thúc bằng hình ảnh:

Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và
vắng người lại qua…
(Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.155)
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân kết thúc bằng hình ảnh:
Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…
(Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.32)
Cảm nhận của anh/chị về ý nghĩa của những kết thúc trên.
Mở bài tham khảo nhé :
Dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam thường khai thác một khía cạnh phổ
biến đó là tình cảnh bi thảm của người nông dân trước cách mạng tháng Tám
.Trong số những trang văn cảm động về người nông dân phải kể đến hai truyện
ngắn nổi bật : Chí Phèo của nhà văn Nam Cao và Vợ nhặt của Kim Lân .Mỗi
truyện đều có một cách kết thúc riêng ,song mỗi cách kết thúc đều mang những
giá trị riêng. Truyện ngắn Chí Phèo kết thúc bằng hình ảnh:
Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và
vắng người lại qua…Truyện ngắn Vợ nhặt kết thúc bằng hình ảnh:
Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới
2. Đề bài : cảm nhận của anh / chị về cảnh gặp gỡ đầu tiên giữa mẹ Tràng với
nàng con dáu qua đoạn ván trích sau đây trong tác phẩm Vợ nhặtt của Kim Lân:
“Tràng nhắc mẹ:
Kia nhà tôi nó chào u….
… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng


mày về sau!”
Bài làm :
Đã rất nhiều lầ n đọc truyện Vợ nhặt của Kim Lân nhưng lần nào cũng thế, cứ đọc
đến đoạn miêu tả cảnh gặp gỡ đầu tiên giữa bà cụ Tứ (mẹ Tràng) với người “con
dâu mới” mà con trai bà vừa “nhặt” được về là tôi lại thấy lòng mình rưng rưng
cảm động. Với những lời văn trần thuật giản dị và mộc mạc, tác giả đã dựng được

lại rất sinh động những diễn biến tâm lý tinh vi và phức tạp đang diễn ra trong
tâm trạng của một bà mẹ nghèo, trước một tình huống éo le không hiểu nên
mừng hay lo, là hạnh phúc hay tai họa.
3.Phân tích tình huống truyện Vợ Nhặt- Kim Lân
BÀI LÀM
Nói đến nghệ thuật truyện ngắn, người ta thường coi ba yếu tố sau đây là cơ bản
nhất: tình huống truyện, nhân vật truyện và cách trần thuật. Có nhiều truyện
ngắn, sự sáng , tạo tình huống đóng vai trò then chốt. Đặt vào tình huống ấy,
nhân vật truyện bộc lộ sâu sắc tâm lý, tính cách. Tư tưởng của thiên truyện cũng
nhờ thế mà được thể hiện đậm đà. Và xoay quanh tình huống ấy, các tình tiết
cũng trở nên hấp dẫn.Truyện Vợ nhặt của Kim Lân thuộc loại tác phẩm như thế.
4. Đề bài : Cảm nhận của anh/ chị về chi tiết bát cháo hành trong truyện Chí
Phèo ( Nam Cao) và bát cháo cám trong truyện Vợ nhặt ( Kim Lân).
Mở bài tham khảo:
Nam cao và Kim Lân đều là những cây bút có sở trường truyện ngắn, có nhiều
trang viết cảm động về đề tài nông thôn và người nông dân. Điểm chung của hai
nhà văn là họ đều có những truyện ngắn giản dị nhưng chứa chan tinh thần nhân
đạo.Hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và bát cháo cám trong Vợ nhặt đều
là những hình ảnh đặc sắc, góp phần thể hiện rõ nét nội dung tư tường của các
tác phẩm và tài năng của các nhà văn.

MỞ BÀI CHO DẠNG ĐỀ PHÂN TÍCH NHÂN VẬT
Cách 1: “Đối tượng của văn học vốn là thân phận con người, nên chỉ có kẻ nào
đọc và hiểu nó sẽ hóa thành không phải là một chuyên gia nghiên cứu văn học
mà là một kẻ hiểu biết con người một cách sâu sắc”. ( Văn chương lâm nguy,
Todorov).
Quả thực, con người luôn là nơi bắt đầu và cũng là nơi đi đến của văn học. Với
mỗi thế giới khác nhau của mỗi một tác phẩm, người đọc lại có một thể nghiệm
riêng về con người. Và trong tác phẩm…….., nhà văn/nhà thơ ……..đã dùng ngòi
bút của mình để mang đến những trang văn neo đậu mãi trong tâm hồn chúng ta

về nhân vật…….
Cách 2: Puskin từng viết: “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ sống
được là nhờ ánh sang, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm
sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút”. Và nhà văn/nhà thơ…….. đã để
tiếng lòng của mình cất lên, để linh hồn của tác phẩm ………bay lên qua hình
tượng
nhân vật……..
Cách 3: Nhà phê bình văn học G.Jung từng viết “Từ sự không thỏa mãn với đương
thời, nỗi buồn sáng tạo dẫn đưa nghệ sĩ đi vào bề sâu cho tới khi nó tìm thấy
trong vô thức mình cái nguyên tượng có khả năng bù đắp lại cao nhất sự tổn thất
và què quặt của tinh thần hiện đại.” Và trong tác phẩm…..…, nhà văn/nhà thơ đã
để
nguyên tượng ấy hiện lên đầy sống động qua nhân vật…….


Cách 4: Văn học như một thiên thần mang sứ mệnh che chở và bảo vệ con người.
Trong tác phẩm …….., nhà văn/nhà thơ ……..đã để ngòi bút của mình thực hiện
trọn vẹn sứ mệnh cao cả đó qua hình tượng nhân vật………thật ấn

NGHỊ LUẬN VỀ ĐOẠN TRÍCH, THƠ, VĂN XUÔI
Cách 1: Đâu là cầu nối giữa quá khứ và tương lai, đâu là thanh nam châm thu
hútmọi thế hệ? Đó chẳng phải là văn học hay sao. Văn học vẫn luôn sống một
cuộc đời cao đẹp gắn liền với con người và kết tinh những giọt ngọc của thời đại.
Tất cả những giá trị vĩnh cửu đó đã thăng hoa cùng ngòi bút của nhà văn/nhà
thơ……để tác phẩm ……., đặc biệt là đoạn trích ………còn vấn vương trong trái
tim biết bao bạn đọc.
Cách 2: Nếu phải tìm bản nhạc hay nhất, có lẽ tôi sẽ chọn văn chương. Bởi chỉ
khi đến với văn chương, người nghệ sĩ mới được tự do để trái tim dẫn dắt, được
thể hiện quan niệm của chính mình và rồi mang đến cho người đọc biết bao giai
điệu cảm xúc với nhiều cung bậc. Và tác giả….. đã để tác phẩm …….. của mình là

nốt ngân đầy sáng tạo trong bản hòa tấu của văn học, đặc biệt là đoạn trích…..

MỞ BÀI CHO DẠNG ĐỀ SO SÁNH CÁC TÁC PHẨM
Mở bài cần nêu được khái quát tên tác phẩm, tác giả và đối tượng cần so sánh.
Có thể dẫn từ những câu nhận định văn học sau:
Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả… Nếu
anh không có giọng riêng, anh khó trở thành nhà văn thực thụ (Sê – Khôp)
Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy nó đồi hỏi người viết sự sáng tạo
phong cách mới lạ, thu hút người đọc. (LLVH)
Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của chính mình, là cái giọng
riêng của chính mình mà không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kỳ một người
nào khác. (Tuốc– ghê – nhép)Không có tiếng nói riêng không mang lại những điều
mới mẻ cho văn chương mà chỉ biết dẫm theo đường mòn thì tác phẩm nghệ
thuật sẽ chết. (Lêonit Lêonop)

CÁCH MỞ BÀI CHO DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
ĐỀ TÀI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
Có thể nói văn học thời kì là một bộ phận của công cuộc chiến đấu giải phóng
dân tộc, đã có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Với
trách nhiệm xã hội đó, mặc nhiên tinh thần yêu nước là nội dung bao trùm của
toàn bộ nền văn học. Phẩm chất yêu nước ấy có từ văn học của cha ông qua các
thời đại, mỗi khi dân tộc đứng trước họa xâm lăng, nhưng đến văn học giai đoạn
chống Mỹ được thể hiện tập trung nhất, sâu sắc nhất, biến thành sức mạnh vật
chất cụ thể nhất trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tồ quốc. Và ở đó ngời sáng vẻ đẹp
của những chiến sĩ
anh dũng,kiên cường, một lòng hướng về dân tộc. Người đọc có thể sống trọn với
những ngày tháng hào hùng ấy qua hình ảnh người lính……trong tác phẩm……
của………

MỞ BÀI VỀ NGƯỜI NÔNG DÂN / NHỮNG CON NGƯỜI BẤT HẠNH

Cách 1: “Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thực tế và trên trang sách.
Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu buồn. Cái


nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời.” (Trích trong Nhất ký của Nguyễn Văn
Thạc). Có lẽ ta không thể cảm nhận trọn vẹn “niềm sầu buồn” hay “giọt nước
mắt” đó nếu nhà văn/nhà thơ……..không dùng ngòi bút của mình để in dấu tất cả
qua hình tượng nhân vật………. với đầy những áp bức, bóc lột và bất công nhưng
trên hết những người nông dân ấy vẫn giữ trọn vẻ đẹp nhân cách, tâm hồn.
Cách 2: “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng
giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi
dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa
đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn
tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh
vực.”(Nguyễn Minh Châu). Với hình tượng nhân vật…….trong tác phẩm…….., nhà
văn/nhà thơ…………. đã thực hiện trọn vẹn sứ mệnh ấy.

Tổng hợp những kết bài về các tác phẩm lớp 12
1, Vợ nhặt
Trên phông nền u ám của nạn đói, của cái chết, tiếng quạ kêu thê thiết với mùi
đống dâm khét lẹt, Kim Lân vẫn pha vào đó một chút màu sắc ấm áp của hạnh
phúc lứa đôi, lóe lên hy vọng về một ngày mai tươi sáng, về sự thay đổi vận hội.
Thông qua tình huống dở khóc dở cười vô cùng trớ trêu đó, Tác giả ngầm khẳng
định một chân lý mà Nguyễn Khải đã thể hiện trong “Mùa Lạc”: “Sự sống nảy
sinh từ trong lòng cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong gian khổ hy sinh. Ở đời
này không có con đường cùng mà đây chỉ là những ranh giới. Điều cốt yếu là con
người phải chuẩn bị cho mình một sức mạnh để có thể vượt qua những ranh giới
ấy.”
2, Vợ chồng A Phủ
“Văn học là cuộc đời…Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi di tới của văn học”,

mỗi người nghệ sĩ lớn đều ý thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và đời
sống. Đời sống là nguồn đè tài không bao giờ vơi cạn cho những sáng tác đầy
nảy nở, bước đi trên từng nẻo đường là một giọt chắt chiu tư tưởng được hình
thành. Qua tác phẩm “Vợ chồng A Phủ, ta thấy không chỉ cáo lũ quan lại phong
kiến bị lên án tố cáo, Tô Hoài còn phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất và khát
vọng tự do hạnh phúc, cùng sức sống mãnh liệt trong tâm hồn nguời lao động.
Đó chính là chủ nghĩa nhan đạo Cách mạng, gắn tình thương với đấu tranh, gắn
niềm tin vào tương lai đầy triển vọng của con người. Đó chính là sự diễn tả hợp lí
những nghịch cảnh, những diễn biến phức tạp trong tâm hồn Mị, giúp nhà văn
phần nào đạt đến cái gọi là “phép biện chứng tâm hồn”. Cùng với cốt truyện
sáng tạo, tình huống truyện độc đáo hấp dẫn, nghệ thuật kể chuyện giản dị, “Vợ
chồng A Phủ” vẫn giữ nguyên vẹn sức hấp dẫn của mình qua hàng thập kỉ.

3, Rừng xà nu
“Tôi yêu say mê cây xà nu. Ấy là một cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và
trong sạc. Mỗi cây cao vút, vạm vỡ ứ nhựa. Tán lá vừa thanh vừa rắn rỏi, mênh
mông, tưởng như đã sống ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau.” Trong dụng ý
miêu tả của mình, Nguyễn Trung Thành dã lựa chọn những cánh rừng xà nu cạnh
con nước lớn và chạy bát
ngát đến tận chân trời làm phông nên cho tác phẩm. Để từ đó xuất hiện những
người anh hùng và những hành động anh hùng của người Tây Nguyên. Những
hành động kiên cường anh dũng của họ mãi được lịch sử ghi nhận và cuộc đời,


hành động của họ mãi mĩa trở thành trang sử thi bất hủ của dân tộc. Và trong
những đêm huyền thoại với ngọn lửa bùng bùng soi rõ, những khan dử thi anh
hùng mãi được hát lên, được ghi nhớ và được kể lại cho muôn đời sau. Và đâu đó,
âm vọng trong núi, trong nước, trong cánh rừng và trong tâm trí người Xô Man
vẫn còn câu nói trầm trầm đầy uy lực của cụ Mết: “Nhớ lấy, ghi nhớ,… Chúng nó
cầm súng, mình phải cầm mác”.


4, Những đứa con trong gia đình
Những năm tháng trôi đi và lịch sử không ngừng biến động nhưng “Những đứa
con trong gia đình” mãi là bông hoa không tuổi tựa mùa xuân không ngày tháng
đã ghi lại quá khứ hào hùng, sôi động của đất nước mình một thuở. Vẻ đẹp con
người Việt Nam đã làm nên cái hồn của cả dân tộc và góp phần làm cho tác
phẩm còn sống mãi với thời gian. Văn học thời kì chống Mĩ cứu nước đã bắt được
nhịp sống của dân tộc, đã ngợi ca sức sống và vẻ đẹp của con người Việt Nam.
Giờ lật lại, chúng ta không khỏi tự hào, xúc động về những năm tháng đất nước
nước mình đã đi qua, về vẻ đẹp muôn đời của người con đất Việt. Và ta mãi cất
lên những bài ca không quên – bài ca viết về quê hương, viết về con người bởi tự
hào biết mấy hai tiếng :Việt Nam.

5, Đất nước
Đề tài về đất nước luôn luôn là một cảm hứng cho mọi nền văn học nhất là nền
văn học của một dân tộc mà tình yêu nước luôn luôn bị đem ra thử thách. Thành
công về đề tài này đã nhiều nhưng “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm vẫn có
một tiếng nói riêng, một sự khám phá riêng với một phong cách riêng. , góp vào
vườn thơ về đất nước hai bông hoa đẹp nhất tỏa hương thơm đến muôn đời,
muôn thế hệ.

6, Sóng
Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của
nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận
“xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn
ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta
mới càng thấy rõ nỗi
khát khao của người con gái trong tình yêu
“Khi ta còn trẻ, thơ là người mẹ
Ta lớn lên rồi, thơ là người bạn, người yêu

Chăm sóc tuổi già, thơ là con gái
Lúc chết đi rồi, kỉ niệm hóa lưu thơ”
Đọc xong bài thơ “Sóng” ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt
Nam, những con người luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu.
Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong
phú hơn cho nền thơ nước nhà.

7, Tây Tiến
Đọc Tây tiến, cái ta cảm nhận được không chỉ là vỏe đẹp hào hùng, hòa hoa, sự
hy sinh bi tráng của người lính Tây Tiến mà vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của thiên
nhiên miền Tây. Tất cả hiện lên thật rõ nét trong nỗi nhớ của nhân vật trữ tình,
nỗi nhớ thương chưa khi nào nguôi dứt. Có thể nói, với Tây Tiến, Quang Dũng đã


xây dựng thành công bức tượng đài bất hủ về người lính trong kháng chiến chống
Pháp. Khói lửa chiến tranh đã qua đi, lịch sử dân tộc cũng đã bước sang trang
mới, nhiều người thuộc đoàn quân Tây Tiến năm xưa giờ đây đã rở thành thiên
cổ, trông đó có cả nhà thơ Quang Dũng hào hoa…
Đúng như những vần thơ Gian Nam từng viết:
“Tây Tiên biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy, con người áy
Vẫn sống muôn đời với núi sông.”

8, Việt Bắc
Giọng thơ lục bát nhẹ nhàng mà sâu lắng kết hợp với kết cấu xưng hô “ta –
mình”, bài thơ ôm chứa niềm lạc quan, vui sống và tin tưởng vào cuộc sống con
người Việt bắc. Nó mang âm điệu trữ tình, thể hiện tình yêu thiên nhiên, con
người tha thiết và tấm lòng yêunước thiết tha của Tố Hữu. Cuối bài thơ vang lên
tiếng hát ngọt ngào khơi gợi bao kỉ niệm. Ki niệm ấy theo mãi dấu chân người đi

và quấn quýt bên lòng kẻ ở lại…. Lời thơ giản dị mà trong sáng thể hiện niềm
rung động thật sự trước vẻ đẹp của núi rừng và con người Việt Bắc. Nỗi nhớ trong
thơ của Tố Hữu đã đi vào tâm hồn người đọc, như khúc dân ca ngọt ngào đê lại
trong lòng ta những tình cảm sâu lắng, dịu dàng, như nhà thơ Chế Lan Viên đã
từng viết:
“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hòa tâm hồn!”

9, Ai đã đặt tên cho dòng sông
Có thể nói “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã mang đến những phát hiện mới lạ và
độc đáo của sông Hương cho độc giả cả nước. Nó là một dòng sông hung tợn,
man dại ở khúc thượng nguồn rồi trở nên mê đắm, thủy chung khi gặp được
người tình trong mộng của mình là Huế. Sông Hương không vô tri vô giác mà nó
có cảm xúc và có tình yêu. Tác phẩm đã thể hiện được tình yêu quê hương xứ sở
nồng nàn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một kí giả nặng lòng với Huế:
“Dòng sông ai đã đã đặt tên
Để người đi nhớ Huê không quên
Xa con sông mang bao nỗi nhớ
Người ở lại tháng năm đợi chờ.”

10, Người lái đò sông Đà
Viết về người lái đò sông Đà, viết về một vùng quê hương Tổ quốc, Nguyễn Tuân
đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết đối với người lao động và thiên
nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động, ông lái càng anh dũng,
ngoan cường trong công việc ta càng thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của
nhà văn – Người lao động trong tác phẩm Nguyễn Tuân thật bình dị từ công việc
đến hình dáng, cách ăn nói. Nhưng ông lại là người anh hùng trước mắt Nguyễn
Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong con người bình dị ấy chất nghệ sĩ tài hoa,
dám đương đầu với sóng to gió lớn để chèo chống con thuyền qua sông. Ông lái
hiện lên trong tác phẩm là người lao động hăng hái, quên mình vì công việc.

Cuộc sống quanh ta vốn dĩ rất tầm thường, cũ kĩ. Ngày lại qua ngày, mây
vẫn bay và gió vẫn thổi…nhưng chính nhà văn là người mang lại cho ta một thế
giới mới, tinh khôi, kì diệu. Nguyễn Tuân cũng là một nhà văn, một người góp


phần sáng tạo lại thế giới. Văn chương của Nguyễn Tuân đã mang đến cho chúng
ta một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái
đẹp, của sự tài hoa và uyên bác…

11, Lorca
Để lòng mình ngân theo chuỗi âm thanh ấy, ta hiểu rằng trong cuộc tương tranh
không ngừng và hết sức thú vị giữa những cách diễn tả đặc hữu của văn học và
cách diễn tả mang tính chất ám gợi huyền hồ của âm nhạc, cuối cùng, ở bài thơ
của Thanh Thảo, cách diễn tả của âm nhạc đã chiếm ưu thế. Điều này hiển nhiên
là một sự lựa chọn có ý thức. Để nói về nỗi cô đơn, cái chết, sự lặng yên, “lời”
vẫn thường gây vướng víu, gây nhiễu. Chỉ có nhạc với khả năng thoát khỏi dấu
ấn vật chất của sự vật khi phản ánh nó, trong trường hợp này, là phương tiện
thích hợp. Tất nhiên, Thanh Thảo không phải đang làm nhạc mà là làm thơ. Nói
nhạc ở đây không có gì khác là nói tới cách thơ vận dụng phương thức của nhạc –
cái phương thức ám thị, khước từ mô tả trực quan – để thấu nhập bề sâu, “bề xa”
của sự vật. Từ lâu, các nhà thơ tượng trưng chủ nghĩa đã hướng tới điều này. Dù
không nhất thiết phải quy ” Đàn ghita của Lor-ca” vào loại hình thơ nào, ta vẫn
thấy nó đậm nét tượng trưng. Chẳng có gì lạ khi với bài thơ này, Thanh Thảo
muốn thể hiện mối đồng cảm sâu sắc đối với Lorca – cây đàn thơ lạ lùng trong
nền thi ca nhân loại ở nửa đầu thế kỉ XX đầy bi kịch.

12, Chiếc thuyền ngoài xa
Có thể thấy cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu trước năm
1975 là cảm hứng anh hùng cách mạng, còn sau năm 1975 là cảm hứng về nhân
cách con người, là hành trình “khám phá con người bên trong con người”

(Bakhtin). Theo mạch cảm hứng ấy, năm 1982 Nguyễn Minh Châu viết truyện
ngắn Bức tranh; trong ý nghĩ tự phán xét, nhân vật hoạ sĩ đã vẽ một bức chân
dung tự hoạ nhằm thể hiện “khuôn mặt bên trong của chính mình”. Đáng lưu ý
là, nếu trong truyện Bức tranh, Nguyễn Minh Châu hướng cái nhìn nghệ thuật vào
thế giới nội tâm thì trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn nMinh Châu lại
hướng cái nhìn nghệ thuật ra thế giới bên ngoài, ra cuộc sống đời thường. Nếu
truyện Bức tranh là sự tự nhận thức, tự phê phán của con người dưới ánh sáng
của
lương tâm, đạo đức, thì truyện Chiếc thuyền ngoài xa là sự nhận thức và phê
phán cái xấu, cái ác trong cuộc sống thường ngày. Cả hai tác phẩm đều được viết
dưới sự chỉ đạo của quan điểm nghệ thuật: chỉ ra mặt xấu, mặt tối để góp phần
hoàn thiện nhân cách con người, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Đặc
biệt, truyện Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn
nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra
bản chất thực sự sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng, thật đúng như Nguyễn
Minh Châu từng khẳng định: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn
giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu
lịch sử”.

13, Hồn Trương Ba, da hàng thịt
Nhiều thập kỉ trôi qua, bạn đọc ngày nay được sống trong sự đổi mới toàn diện,
trong khí thế vươn lên của đất nước và dân tộc, sẽ còn tìm thấy nhiều tầng ý
nghĩa thú vị hàm ẩn trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Thông qua hình
tượng hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã đặt ra những vấn đề tư tưởng thấm đẫm


chất nhân văn, không chỉ có ý nghĩa nhất thời mà có ý nghĩa muôn đời đối với tất
cả mọi người.

14, Tuyên ngôn Độc lập

Lời văn không khô khan mà trũ tình đanh thép. Mỗi từ mỗi câu đều chứa đựng
trong đó sức nặng tinh thần của cả một dân tộc anh hùng quyết hi sinh để giữ
độc lập tự do. Cụm từ độc lập tự do được lặp đi lặp lại ba lần như khắc sâu vào
muôn triệu người Việt Nam, như tiếng kèn xung trận vang lên mạnh mẽ hào
hùng. Lời tuyên bố mở nước cũng là lời thề sắt đá vừa thiêng liêng vừa khích lệ
nhân dân ta vừa là lời cảnh báo đối với kẻ thù. Tác phẩm kết thúc những cũng là
mở đầu cho một thời kì đấu tranh giữ vững chủ quyền độc lập tự do của dân tộc.

Tổng hợp những mở bài về các tác phẩm lớp 12 ( phần
3)
1, Việt Bắc
“Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”
( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu)
Đã từ lâu mảnh đất Tây Bắc – Điện Biên được coi là quê hương của kháng chiến,
quê hương của những anh hùng,
đây là mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng ân tình khiến aiđã đặt chân đến
đây cũng phải bồi hồi, xuyến xao. Mảnh đất ấy đã trở thành niềm thương, nỗi nhớ
cho những ai đã từng đến rồi lại phải đi. Có người đã từng nói : “ Thơ chỉ trào ra
khi trong tim anh mọi thứ đã thật ứ đầy”, chính những niềm thương, nỗi nhớ trào
dâng ấyđã tạo ra những rung động mãnh liệt trong cảm xúc để rồi nhà thơ Tố
Hữu – Một ngườ lính đã từng gắn bó với mảnh đất này viết nên tác phẩm “Việt
Bắc” – tuyệt tác của đời mình. Tác phẩm là một khúc tình ca và cũng là khúc
hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Bài thơ được viết ra như
lời hát tâm tình của một mối tình thiết tha
đầy lưu luyến giữa người kháng chiến và đồng bào Việt Bắc được thể hiện qua
lăng kính trữ tình- chính trị, đậm tính dân tộc và ngòi bút dạt dào cảm xúc của thi
nhân.

2, Tây Tiến

“Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai bồng

“Khi Tổ Quốc cần họ biết sống xa nhau””
( Cuộc chia ly màu đỏ – Nguyễn Mỹ)
Chiến tranh đi qua đã để lại cho chúng ta những hoài niệm về những tháng năm
không thể nào quên, đó là khi con người ta nhận ra sứ mệnh của mình sinh ra là
để chiến đấu, là để báo thù, đó là những con người sẵn sàng gác lại tuổi trẻ, việc
học hành, tình cảm cá nhân vị kỉ để đi theo tiếng gọi của Tổ Quốc… Những con
người ấy đã đi vào trong thơ ca, nghệ thuật như những huyền thoại của thế kỉ 20
mà nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện
thật xuất sắc thông qua lăng kính lãng mạn nhưng vẫn đậm chất hiện thực của
mình qua bài thơ Tây Tiến. Tác phẩm đã khắc họa thành công bức tượng đài


người lính Tây Tiến trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian
khổ.

3, Sóng
Từ trước đến nay, tình yêu luôn là thứ không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi
con
người. Xuân Diệu đã từng viết:
“Làm sao sống được mà ko yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào”
( Bài thơ tuổi nhỏ – Xuân Diệu)
Đó cũng là lý do tình yêu được đưa rất nhiều vào trong thơ ca và nghệ thuật, trở
thành nguồn cảm hứng bất tận với nhiều thi nhân. Có rất nhiều những nhà thơ,
nhà văn từng viết về tình yêu nhưng có lẽ sâu sắc nhất phải kể đến 2 cây bút thơ
tình xuất sắc của nền văn học Việt Nam, đó là Xuân Diệu và Xuân Quỳnh. Nếu
như Xuân Diệu từng làm mưa làm gió khiến người đọc nhớ mãi khi đặt tất cả dấu

ấn tình yêu mãnh liệt của mình với “Biển” thì Xuân Quỳnh – một nhà thơ trưởng
thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ đã thể hiện tình cảm người con gái qua hình
ảnh “Sóng”. Khi nhắc đến tên tuổi của Xuân Quỳnh, từ trong tiềm thức của mỗi
người yêu văn chương đều biết tiếng thơ chị là tiếng nói nhân hậu, thủy chung,
giàu trực cảm và tha thiết khát vọng hạnh phúc đời thường. Một trong số những
tác phẩm xuất sắc nhất của Xuân Quỳnh phải kể đến tập “Hoa dọc chiến hào” với
linh hồn là bài thơ “Sóng” được tác giả viết nhân một chuyến đi thực tế ở biển
Diêm Điền năm 1967.

4, Tùy bút người lái đò Sông Đà
MB1:
“Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy
Thì xa xôi gấp mấy vẫn lên đường.
Sống ở thủ đô mà dạ để mười phương.
Nghìn khát vọng chất chồng mơ ước lớn.”
( Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Hòa chung với không khí sôi nổi của cả nước khi Miền Bắc tiên lên xây dựng Chủ
nghĩa xã hội với xu hướng đi đến những vùng cao để phục hồi kinh tế với tiếng
hát đầy sông, đầy cầu thì Nguyễn Tuân đã lựa chọn Tây Bắc làm miền đất hứa để
viết lên tuyệt tác của đời mình. Ông không đi theo lối mòn khi viết về những “cái
tôi” còn buồn như Huy Cận, Chế Lan Viên – Những “cái tôi” luôn cô đơn trước vũ
trụ, cô đơn giữa dòng đời. Nguyễn Tuân đã khéo léo để “cái tôi” cá nhân của
mình hòa chung với “cái ta” của cộng đồng và mở ra một trào lưu văn học mới để
rồi tất cả được kết tinh trong tập “Tùy bút Sông Đà” mà linh hồn của nó chính là “
Tùy bút Người lái đò Sông Đà”. Nguyễn Tuân là một nhà văn cả đời say mê đi tìm
cái đẹp, cái đẹp ở đây chính là nghệ thuật, mà khi nói đến nghệ thuật cũng chính
là cái đẹp, với Nguyễn Tuân, con người chính là tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời
nhất mà tạo hóa đã ban tặng. Cái đẹp ấy được Nguyễn Tuân phát hiện ra trong “
thứ vàng mười đã qua thử lửa” của Tây Bắc, ở những con người đang gắn bó với
công cuộc xây dựng quê hương, đất nước. Chất vàng mười ấy chính là vẻ đẹp của

người lái đò sông Đà, dưới ngòi bút điêu luyện của Nguyễn Tuân đó vừa là người
anh hùng, vừa là nghệ sĩ tài hoa trên chính nghề nghiệp của mình.
MB2:
“ Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu”


( Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Tây Bắc đã trở thành vùng đất hứa của thi ca nghệ thuật những năm 58-60 khi
miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nhà văn nhà thơ đến với nơi
đây để tìm cho mình những nguồn cảm hứng mới. Ta từng biết đến Tô Hoài với
tập “truyện Tây Bắc” mà nổi bật là truyện ngắn “Vợ Chồng A Phủ”, hay Nguyễn
Khải cũng đã từng xôn xao lòng mình với “Mùa Lạc” thì Nguyễn Tuân lại thăng
hoa trên mảnh đất này với tập “Tùy bút Sông Đà” với linh hồn là bài kí “Người lái
đò Sông Đà”. Là một nhà văn đi theo chủ nghĩa xê dịch, dấu chân của Nguyễn
Tuân đã đi khắp mảnh đất hình chữ S này, nhưng ông lại chọn Tây Bắc làm nơi
cho ra đời đưa con đẻ tinh thần của mình là bởi chỉ có nơi đây mới thỏa mãn thực
đơn cho nhãn quan sáng tác của ông. Tùy bút sông Đà là những trang văn được
viết bằng ngôn ngữ điêu luyện, những đoạn tả đèo cao, vực sâu, thác nước dữ
dội, hoặc cảnh thiên nhiên đẹp đến tuyệt đỉnh, nhưng lấp lánh giữa những vẻ đẹp
ấy là hình ảnh con sông Đà hiện lên vừa hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất nên thơ,
trữ tình và lãng mạn.

5, Tuyên Ngôn Độc Lập
“Nam quốc sơn hà nam đế cứ
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Là những lời thơ thần của Lý Thường Kiệt vang dội trên sông Như Nguyệt để đánh
đuổi quân Tống xâm lược cũng như khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc ta

dưới thời nhà Lý. Sau hàng nghìn năm nhân dân Việt Nam sống dưới chế độ quân
chủ, trăm năm Pháp thuộc, 5 năm phát xít… thì giờ đây thực dân Pháp đang âm
mưu quay lại cướp nước ta lần nữa dưới chiêu bài lừa bịp công luận quốc tế “bảo
hộ” và “khai hóa”, để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc ta cũng như
vạch mặt, tố cáo thực dân Pháp thì chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho ra đời Bản Tuyên
Ngôn Độc Lập. Đây là một áng văn chính luận mẫu mực của nền văn học Việt
Nam hiện đại, kết tinh những tinh hoa của dân tộc và khí phách non sông, mang
giá trị pháp lí, giá trị lịch sử và cả giá trị nghệ thuật cao cả. Trước sự chứng kiến
của hơn 50 vạn đồng bào cả nước tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, bằng bút
pháp lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, dẫn chứng hùng hồn và giọng đọc đặc
biệt thì Bản Tuyên Ngôn độc lập đã khơi dậy lòng yêu nước nồng nàn, thấm
nhuần vào từng con tim, khối óc con người Việt Nam.

6, Ai đã đặt tên cho dòng sông
Một lần anh đến Huế thơ
Gặp cô gái đẹp say mơ giấc nồng
Sông Hương quyến rũ lạ lùng
Em choàng tỉnh giấc ngượng ngùng nhìn tôi
Sông Hương đã đi vào thơ ca nghệ thuật như một niềm cảm hứng bất tận đối với
tất cả văn nghệ sĩ, nhưng dù là trong tác phẩm nào đi chăng nữa sông Hương
vẫn luôn mang một dáng vẻ vô cùng dịu dàng, quyến rũ khiến ai cũng phải mê
đắm ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên. Có lẽ Hoàng Phủ Ngọc Tường đã “phải lòng”
sông Hương – xứ Huế như một lần gặp gỡ định mệnh để rồi gắn bó với mảnh đất
này hơn 40 năm. Trước những rung động của một mối tình say đắm trong những
trang Kiều để từ đó nhà văn dành cho sông Hương một bài kí trang trọng. Cả bài
kí dường như là cuộc hành trình tìm kiếm cho câu hỏi đầy khắc khoải “Ai đã đặt
tên cho dòng sông” .Và cuộc tìm kiếm, lý giải cái tên của dòng sông đã trở thành


cuộc tìm kiếm đầy hào hứng và say mê không chỉ vẻ đẹp của diện

mạo hình hài mà còn là độ lắng sâu của tâm hồn và rung động. Con sông xứ Huế
hiện lên trong cuộc tim kiếm của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ là con
sông địa lý mà là một sinh thể, một con người “sông Hương quả thực là Kiều, rất
Kiều” vừa xinh đẹp, vừa tài hoa, vừa thăng trầm chìm nổi cùng lịch sử lại vừa
đằm thắm lắng sâu với nền văn hoá riêng của nó.

7, Hồn Trương Ba- Da Hàng Thịt
Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi
Như tiếng gọi ngàn đời không khuất phục
Đất nước giống như con thuyền xuyên gió mạnh
Những mối tình trong gió bão tìm nhau.
(Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi…– Lưu Quang Vũ )
Từ những năm 60 của thế kí trước, Lưu Quang Vũ đã khẳng định tên tuổi của
mình bằng việc sáng tác thơ ca, ngay từ đầu ông đã tạo được dấu ấn về một lối
viết tài hoa, nồng nàn cảm xúc toát lên tình yêu quê hương, đất nước tha thiết,
mà Hoài Thanh đã từng nhận định rằng “Thơ anh là một tiếng nói nhỏ nhẹ mà
sâu”. Từ năm 1978, Lưu Quang Vũ bắt đầu chuyển sang lĩnh vực sân khấu. Có
thể khẳng định “Sân khấu mới là mảnh đất của người nghệ sĩ tài ba này”.. Cảm
hứng chủ đạo trong kịch Lưu Quang Vũ là cảm hứng về con người, về cái đẹp, cái
thiện, cái tôi hoà tan trong cái ta. Ở đó tính thời sự được kết hợp với những vấn
đề muôn thuở của nhân loại mà tiêu biểu đó là vở “Hồn Trương Ba da hàng thịt”.
Đó là cuộc giao tranh giữa cái thiện và cái ác, cuộc giao tranh này là muôn đời
muôn kiếp từ khi khai sinh cho đến ngày không còn trái đất thì vẫn còn giao
tranh thiện ác. Cho nên có người đã từng nói “kịch Lưu Quang Vũ là có tính vĩnh
cửu”

8, Đất Nước
Đất nước đã nghiêng vào trong thơ ca, nghệ thuật như một điểm hẹn về tâm hồn
của rất nhiều văn nghệ sĩ. Xuân Diệu đã từng viết:
Tổ quốc tôi như một con tàu

Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau
Hay Chế Lan Viên đã không kìm được lòng mình mà thốt lên rằng:
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng
Chưa đâu và cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn
Thì Nguyễn Khoa Điềm – Một nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ
đã gặp gỡ đề tài này bằng tập thơ “ Trường Ca mặt đường khát vọng” Trong đó
chương V là chương trung tâm kết nối tác phẩm bằng hình tượng nghệ thuật
trung tâm là Đất Nước.Bằng phong cách thơ trữ tình chính luận,thơ Nguyễn Khoa
Điềm lôi cuốn người đọc bởi xúc cảm lắng đọng, giàu chất suy tư, thể hiện tâm tư
của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Nguyễn
Khoa Điềm đã chọn cho mình điểm nhìn gần gũi, quen thuộc, bình dị, khác hẳn
với những nhà thơ cùng thời để miêu tả về Đất Nước và để thể hiện quan niệm
vô cùng mới mẻ và sâu sắc:\


“Đất nước này là của nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao, thần thoại”.

9, Vợ Chồng A Phủ
MB 1:
“Tinh thần và sức mạnh bất khuất của cả nước được nuôi dưỡng và phát triển
trong những cánh rừng đại ngàn Tây Bắc. Sống với những ngọn thác dữ dội,
những núi đá hùng vĩ, những vạt rừng âm u là các dân tộc thiểu số anh em. Đời
sống sinh hoạt của họ khác nhau nhưng tinh thần kháng Pháp thì là một.” Đó là
lời chia sẻ về cuộc sống những ngày đi thực tế ở Tây Bắc đã để lại trong Tô Hoài
những điều để thương, để nhớ nhất. Những cảm xúc ấy đã được kết tinh thành
tập “Truyện Tây Bắc” mà lấp lánh nhất có lẽ là truyện ngắn “ Vợ Chồng A Phủ”,
Tác phẩm được tổ chức chặt chẽ, rất sinh động và tự nhiên, không cần những nút

thắt quá biến động những vấn thu hút được bạn đọc là bởi tác giả đã có cái nhìn
hiện thực sắc bén. Nhà văn Nga Sê-khốp nói: “Một nghệ sĩ chân chính phải là một
nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ”. Thông qua lăng kính đầy tình yêu thương, lòng
nhân ái tác giả đã thể hiện được chủ nghĩa nhân đạo tích cực, mới mẻ chưa từng
có trên diễn đàn văn chương Việt Nam. Được thể hiện thông qua cuộc đời, số
phận 2 nhân vật Mị và A Phủ. Hai nhân vật trung tâm từ trong bóng tối đau khổ,
ô nhục đã vươn ra ánh sáng của hạnh phúc, tự do.\
MB2:
Một tác phẩm văn học chỉ thực sự có giá trị khi nó lên tiếng vì con người, ca ngợi
và bảo vệ con người. . Bởi Nam Cao đã từng nói “Nghệ thuật không cần phải là
ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thể
chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp sống lầm than” ( Trăng Sáng).
Chúng ta đặc biệt trân trọng những tác phẩm được kết tinh bước phát triển của
chặng đường văn học này, trong đó xuất sắc nhất vẫn phải kể đến “ Vợ Chồng A
Phủ” của nhà văn Tổ Hoài.

10, Vợ Nhặt
Kim Lân được ví như một loại đồ cổ quý hiếm cất giữ trong đó là những hạt bụi
vàng văn hóa thẳm sâu của nền văn minh sông Hồng. Ông trở thành nhà văn của
những số phận thiệt thòi, những kiếp người cùng khổ của làng quê Việt Nam giữa
thế kỉ XX. Các nhân vật của ông đều mang hình bóng của tác giả, là con người
hiền hậu,chất phác và giàu yêu thương, tình nghĩa. Vợ Nhặt là một tác phẩm tiêu
biểu của Kim Lân được in trong tập Con Chó Xấu Xí năm 1962. Nhà văn đã dùng
Vợ nhặt để làm cái đòn bẩy để nâng con người lên trong tình nhân ái. Câu
chuyện Vợ nhặt đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã lóe lên những tia sáng ấm
lòng.

11, Rừng Xà Nu
“Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
Đã có những tháng ngày như thế, những tháng ngày đất nước hừng hực sục sôi
trong khí thế của cuộc kháng chiến gian khổ mà anh hùng. Mảnh đất Tây Nguyên
đã đi vào văn chương như một huyền thoại về những con người “đẹp từ như
trong chân lí sinh ra”, những con người mang vẻ đẹp, sức sống mãnh liệt như


những Cây xà nu cao lớn chống lại kẻ thù để bảo vệ quê hương, đất nước.
Nguyễn Trung Thành đã tái hiện xuất sắc vẻ đẹp đậm tính sử thi ấy thông qua
truyện ngắn “Rừng xà nu” được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng
Điện Ngọc”. Rừng xà nu đã đem lại ngỡ ngàng cho người đọc khi một truyện
ngắn mà phản ánh được cả một cuộc đầu tranh chống Mỹ ngụy của người dân
Tây Nguyên, vì vậy tính sử thi càng được tô đậm rõ nét hơn thông qua cách xây
dựng nhân vật, hình tượng cây xà nu và ngôn ngữ của tác phẩm.

12, Những đứa con trong gia đình
Viết về lòng yêu nước, sự chuyển giao thế hệ cầm súng để đánh giặc có lần ta đã
từng bắt gặp trong thơ Tố Hữu ở hình ảnh:
“Lớp cha trước lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành”
( Tiếng hát sang xuân)
hay Nguyễn Quang Sáng với tác phẩm “Chiếc lược ngà” với hình ảnh cô giao liên
Thu nhanh nhẹn, thông minh, vào chiến trường để vừa trả thù cho cha vừa đánh
giặc cứu nước. Thì đến với tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” của nhà văn
Nguyễn Thi tác giả đã viết về một gia đình lớn với những nét tính cách không
giống nhau nhưng cùng chung một lí tưởng lớn:
“ Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng”
Nhân vât của Nguyễn Thi hiện ra như những bức chân dung rõ rệt, sống động

qua bút pháp miêu tả nhân vật điêu luyện. Đó là những người nông dân Nam bộ
sống bộc trực, thẳng thắn, nghĩa tình, họ là những con người yêu nước nồng nàn,
có lòng căm thù giặc cao độ,họ đẹp trong chiến đấu, họ đẹp trong đời thường, họ
đẹp như những dòng kênh nước bạc nơi đây. Toàn bộ vẻ đẹp ấy được kết tinh trọn
vẹn nhất ở hai nhân vật Chiến và Việt.

13, Chiếc thuyền ngoài xa
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ, vì vậy nhãn quan và ngòi bút của ông cũng xoay vần
theo những biến động của lịch sử. Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Minh Châu
tỏa sáng trong thời kì kháng chiến chống Mĩ khi ông viết về thế hệ con người Việt
Nam trong chiến tranh hào hùng, phi thường, dũng cảm, dám gạt bỏ ước mơ của
mình để cống hiến cho độc lập dân tộc, ta đã từng bắt gặp những con người như
thế, đó là Nguyệt và Lãm trong truyện ngắn“Mảnh trăng cuối rừng”. Nhưng đến
những năm 80 của thế kỉ XX, Nguyễn Minh Châu lại một lần nữa mở ra cánh cửa
văn chương của mình khi ông chính là người đã tiên phong trong công cuộc đổi
mới văn học, nhà văn đã nhìn cuộc đời bằng cái nhìn khác, bằng đôi mắt
khác và bắt đầu cho mình cảm hứng mới về đạo đức, thế sự mà phản ánh chính
bằng con người. Dù ở hoàn cảnh nào thì Nguyễn Minh Châu cũng có cái nhìn thấu
hiểu, trĩu nặng tình thương và mối âu lo với con người, bởi vậy trong Trăng sáng,
Nam Cao đã nêu quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh của mình: nhà văn phải thấy
rằng dưới cõi nhân gian mà ánh trăng đang bao phủ ruột nà, nơi người nghệ sĩ
mặc sức cho trí tưởng tượng của mình bay bổng là bao cuộc đời cực nhục, vất vả.
Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu có thể coi như là một
sự minh họa tiếp tục cho quan điểm ấy.

14, Đàn ghi ta của Lorca


Thanh Thảo là một nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Ông là

một nhà thơ có xu hướng cách tân thơ Việt để tạo cho mình những tiếng nói riêng
ấn tượng. Thanh Thảo đã từng quan niệm: “ Với những bài thơ hay, thi sĩ phải
sáng tạo bằng cả thể xác lẫn tâm linh mình.. phần tích điện, phần thu góp là cả
một quá trình nhưng sáng tạo thì lại là khoảnh khắc. Khoảnh khắc ấy càng xảy ra
càng đột ngột bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu”. Bài thơ Đàn ghi ta của Lorca là
một sản phẩm tuyệt vời của quá trình tích điện, thu góp và sáng tạo ấy. Bài thơ
tái hiện vẻ đẹp của người nghệ sĩ Gracia Lorca- Nhà thơ vĩ đại nhất Tây Ban Nha
thế kỉ XX, qua đó thể hiện những suy nghiệm thâm trầm về nỗi đau và niềm
hạnh phúc của những cuộc đời đã hiến dâng cho cái đẹp. Nhà thơ đi sâu vào biểu
hiện cái tôi nội cảm với những đổi mới về hình thức nghệ thuật qua thể thơ siêu
thực tượng trưng độc đáo những năm 80 thế kỉ XX.



×