Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

V13 rèn kỹ năng chọn và phân tích dẫn chứng trong bài nghị luận văn học dành cho học sinh giỏi ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.87 KB, 33 trang )

RÈN KỸ NĂNG CHỌN VÀ PHÂN TÍCH DẪN CHỨNG
TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC CHO HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN
MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Một bài văn nghị luận văn học chỉ thực sự gây ấn tượng khi bài văn ấy chứa đựng một
hàm lượng tri thức phong phú với một rung cảm sâu sắc về thế giới văn chương, trong một
cách viết vừa mang tính nghệ thuật vừa đảm bảo tính khoa học. Nếu chỉ đơn thuần mang
tính khoa học, bài viết sẽ khô khan, thiếu sức hấp dẫn. Nhưng nếu chỉ được viết theo theo
mạch cảm xúc mang tính ngẫu hứng với sự bay bổng của ngôn ngữ, bài viết sẽ thiếu tính
thuyết phục về sự đúng đắn và sáng rõ của vấn đề đang cần được bàn luận. Mà đây mới là
mục đích cuối cùng của một bài văn nghị luận.
Đó là lý do vì sao viết văn không chỉ cần có cảm hứng, mà quan trọng không kém, là
còn cần có kỹ năng. Có những kỹ năng quan trọng góp phần làm nên thành công của một
bài nghị luận văn học: kỹ năng đọc hiểu văn bản, kỹ năng tổng hợp kiến thức, kỹ năng
phân tích đề nghị luận, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ... và một kỹ năng rất quan trọng quyết
định đến hiệu quả cuối cùng của một bài văn nghị luận văn học: kỹ năng chọn và phân
tích dẫn chứng. Bởi vấn đề nghị luận có trở nên sáng rõ hay không, quan điểm của người
viết có đúng đắn, có tính thuyết phục không, phụ thuộc rất lớn vào kỹ năng này.
Thực tế hiện nay, liên quan đến vấn đề dẫn chứng trong bài văn nghị luận văn học, đề
thi học sinh giỏi có thể được chia thành hai loại. Loại đề thứ nhất là loại đề có chỉ định dẫn
chứng cụ thể, nhằm đảm bảo sự an toàn nhất định cho bài viết của học sinh; và có lẽ cũng
là để thuận lợi hơn cho người chấm khi có sự rõ ràng, thống nhất và đồng thuận trong Đáp
án và Hướng dẫn chấm. Loại đề thứ hai là loại đề không chỉ định dẫn chứng cụ thể. Và đề
thi học sinh giỏi quốc gia bao giờ cũng thuộc dạng đề này. Với loại đề này, học sinh sẽ tự
mình lựa chọn dẫn chứng trên cơ sở những hiểu biết của bản thân về văn học. Và rõ ràng,
khi không được rèn luyện, thực hành thường xuyên, học sinh sẽ không thể dễ dàng có được
sự lựa chọn dẫn chứng phù hợp nhất trong thời gian ngắn ngủi khi làm bài thi. Lựa chọn
dẫn chứng “đắt giá” sẽ là yếu tố quan trọng đầu tiên quyết định sự thành công của bài viết.
Và tất nhiên, dẫn chứng được lựa chọn phải được phân tích đúng hướng theo yêu cầu của
đề văn thì bài viết mới đạt đến được mục đích cuối cùng của nó.
Vì thế, chúng tôi cho rằng chuyên đề “Rèn kỹ năng chọn và phân tích dẫn chứng


trong bài văn nghị luận văn học cho học sinh giỏi Ngữ văn” là thực sự phù hợp và thiết
thực đối với công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Chuyên đề này sẽ giúp học sinh luôn có ý
thức mở rộng kiến thức về các vấn đề lý luận khi đọc hiểu các tác phẩm văn học, từ đó có
thể có được những lựa chọn dẫn chứng phù hợp nhất khi viết bài văn nghị luận văn học.
II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
Đối với học sinh, chuyên đề này sẽ cung cấp cho các em kỹ năng lựa chọn và phân
tích dẫn chứng đối với các dạng đề nghị luận văn học; thông qua đó, giúp các em hiểu biết
sâu sắc hơn về các vấn đề lý luận, từ đó các em sẽ luôn có ý thức kết nối với kiến thức lý
luận văn học khi đọc hiểu các tác phẩm văn chương.


Đối với giáo viên, chuyên đề này sẽ giúp định hướng cách thức rèn kỹ năng lựa chọn
và phân tích dẫn chứng trong bài văn nghị luận văn học cho học sinh giỏi Ngữ văn, đồng
thời qua đó tổng hợp một số dạng đề nghị luận văn học.
NỘI DUNG
I. KHẢO SÁT ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA
1. Đề thi học sinh giỏi quốc gia trong mười năm gần đây:
Đề thi năm 2010:
Câu 2. (12 điểm)
“Tác phẩm văn học chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình
thức nghệ thuật độc đáo”
Bằng việc phân tích một tác phẩm đã học, anh/chị hãy bình luận nhận định trên.
Đề thi năm 2011:
Câu 2. (12 điểm)
“Mỗi hình tượng nhân vật phụ nữ thực sự thành công bao giờ cũng là kết quả của sự
phát hiện sâu sắc về nữ tính”
Bằng việc phân tích một số nhân vật phụ nữ tiêu biểu trong các tác phẩm văn học đã
học từ văn học dân gian đến văn học hiện đại, anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Đề thi năm 2012:
Câu 2. (12 điểm)

“Các nhà văn, nhà thơ nhân đạo lớn thường gởi vào sáng tác một cách nhìn sâu sắc
về con người, cách nhìn này hướng đến nội tâm và cảm xúc”
Bằng việc phân tích một vài tác phẩm văn học trung đại và hiện đại đã học, anh/chị
hãy bình luận ý kiến trên.
Đề thi năm 2013:
Câu 2. (12 điểm)
Trong tác phẩm văn học, sáng tạo nghệ thuật quan trọng, đặc sắc nhất, nhiều khi
không phải ở hình tượng con người mà ở hình tượng đồ vật, sự vật: một thứ thuốc chữa
bệnh quái lạ (Thuốc – Lỗ Tấn), một bức thư pháp đẹp và quý (Chữ người tử tù – Nguyễn
Tuân), một công trình kiến trúc kì vĩ, tinh xảo ( Vũ Như Tô – Nguyễn Huy Tưởng), một cây
đàn huyền thoại (Đàn ghi ta của Lorca – Thanh Thảo),... Đó là những đồ vật, sự vật mang
ý nghĩa biểu trưng cho nhận thức, nhân cách, ý chí, khát vọng, số phận...của con người.
Ý kiến của anh/chị về nhận định trên? Hãy phân tích hai trong những hình tượng đồ
vật, sự vật đã nêu để làm sáng tỏ ý kiến của mình.
Đề thi năm 2014:
Câu 2. (12 điểm)
Văn học chân chính ngay cả khi nói về cái xấu, cái ác cũng chỉ nhằm thể hiện khát
vọng về cái đẹp, cái thiện.
Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên.
Đề thi năm 2015:
Câu 2. (12 điểm)


Hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của nhà văn nhưng chỉ thực sự sống
bằng tâm trí của người đọc.
Bằng tri thức và trải nghiệm văn học của mình, bạn hãy bình luận ý kiến trên.
Đề thi năm 2016:
Câu 2. (12 điểm)
Marcel Proust quan niệm: “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần
người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. Tô Hoài cho rằng:

“Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời”.
Bằng trải nghiệm văn học của bản thân, anh/chị hãy bình luận những nhận định trên.
Đề thi năm 2017:
Câu 2. (12 điểm)
Mỗi nhà văn chân chính bước lên văn đàn, về thực chất, là sự cất tiếng bằng nghệ
thuật của một giá trị nhân văn nào đó được chưng cất từ những trải nghiệm sâu sắc trong
trường đời.
Bằng những hiểu biết về văn học, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.
Đề thi năm 2018:
Câu 2. (12 điểm)
Chế Lan Viên viết trong bài thơ Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?: “Hãy biết ơn vị
muối của đời cho thơ chất mặn!”
Trong bài Làm thế nào để có tác phẩm tốt? Lưu Trọng Lư cho rằng: “Sự sống phải
được chắt lọc, phải được trau chuốt, phải được nâng lên, phải được tập trung cao độ, nó
mới biến thành nghệ thuật, cũng như dâu xanh phải biến thành kén vàng, gạo trắng phải
bốc thành men rượu. Sự thực phải được sáng tạo, phải được nâng cao lên đôi cánh của tư
tưởng để lại tác động vào lòng người còn sâu mạnh hơn cả sự sống”
Bằng những hiểu biết về văn học, anh/chị hãy bình luận những quan niệm trên.
Đề thi năm 2019:
Câu 2. (12 điểm)
“Rồi đây,có thể sẽ xuất hiện những cỗ máy biết viết văn, làm thơ. Lúc đó, sáng tạo
văn học có còn là độc quyền của con người?”
Bằng trải nghiệm văn học, anh/chị hãy trình bày quan điểm của mình.
2. Nhận xét:
Như vậy, cấu trúc của đề thi học sinh giỏi quốc gia trong mười năm gần đây hoàn toàn
thống nhất về cấu trúc ở câu hỏi nghị luận văn học: Đề đưa ra một nhận định về văn học và
yêu cầu học sinh trình bày quan điểm của mình. Tất cả các đề đều không có yêu cầu cụ thể,
không chỉ định cụ thể ngữ liệu phân tích chứng minh. Các đề đều hướng đến yêu cầu học
sinh trên cơ sở những hiểu biết của bản thân về văn học, xuất phát từ những trải nghiệm
văn học của mình để lựa chọn những tác phẩm nhằm làm sáng tỏ vấn đề. Điều này có

nghĩa là kỹ năng tự lựa chọn và phân tích dẫn chứng là một kỹ năng rất quan trọng quyết
định sự thành công của một bài văn nghị luận văn học, góp phần thể hiện rõ tố chất của
một học sinh giỏi văn.
II. KỸ NĂNG CHỌN VÀ PHÂN TÍCH DẪN CHỨNG TRONG BÀI VĂN NGHỊ
LUẬN VĂN HỌC CHO HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN


1. Kỹ năng chọn dẫn chứng
Kỹ năng này liên quan mật thiết với kỹ năng phân tích đề văn nghị luận
a. Phân tích đề:
* Bước 1: Xác định vấn đề nghị luận
Ở bước này, học sinh cần trả lời hai câu hỏi quan trọng cơ bản:
- Vấn đề nghị luận là gì?
- Vấn đề nghị luận đó liên quan đến vấn đề lý luận văn học nào?
Thao tác này sẽ giúp học sinh xác định được vấn đề cần được bàn luận trong bài
viết, xác định được vùng kiến thức lý luận nào cần được sử dụng để làm sáng rõ vấn đề và
bước đầu xác lập quan điểm của mình về vấn đề cần bàn luận. Đây chính là cơ sở quan
trọng nhất để lựa chọn ngữ liệu phân tích.
* Bước 2: Xác định phạm vi tư liệu
Phạm vi tư liệu được xác định trên cơ sở vấn đề nghị luận và yêu cầu của đề. Thao tác
này liên quan trực tiếp đến việc lựa chọn dẫn chứng cho bài viết.
b. Chọn dẫn chứng:
* Bước 1:
Tổng hợp các cơ sở để chọn ngữ liệu phân tích: Vấn đề lý luận được đặt ra trong đề,
những giới hạn về dẫn chứng theo yêu cầu của đề (thời đại, thể loại, số lượng dẫn chứng...)
* Bước 2:
Chọn được những tác phẩm văn học, với số lượng hợp lý nhất, thể hiện rõ nét nhất
vấn đề lý luận được đề cập đến và đảm bảo các yêu cầu đặt ra trong đề.
Ở đây chúng tôi xin được tạm đưa ra hai khái niệm “dẫn chứng nền” và “dẫn chứng
trọng tâm”.

“Dẫn chứng nền” là những dẫn chứng nằm trong phạm vi tư liệu phù hợp với yêu cầu
của đề, có tác dụng tạo ra cái nhìn bao quát về văn học từ góc độ vấn đề nghị luận, thể hiện
sự hiểu biết sâu rộng về tác phẩm văn học của người viết, đồng thời chứng minh người viết
nắm vững vấn đề cần bàn luận.
“Dẫn chứng trọng tâm” là dẫn chứng được lựa chọn để phân tích chứng minh làm
sáng tỏ vấn đề nghị luận (Đây là đối tượng nghiên cứu chính của chuyên đề)
Lưu ý: Những “dẫn chứng trọng tâm” được lựa chọn phải là những tác phẩm văn học
mà người viết hiểu biết rất sâu sắc và rất tâm đắc; đồng thời cũng cần lưu ý đến tính mới
mẻ, độc đáo của những ngữ liệu ngoài chương trình để có được những lựa chọn hợp lý và
gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc.
Ví dụ minh họa:
Đề: Có ý kiến cho rằng “Một tác phẩm văn học chỉ có thể tồn tại vững bền khi đem
đến một cái nhìn mới về cuộc sống và chứa đựng bao nỗi trăn trở về nhân sinh”.
Qua việc phân tích một tác phẩm văn học hiện đại Việt Nam, anh/chị hãy làm sáng tỏ
ý kiến trên.
- Xác định vấn đề nghị luận: “Một tác phẩm văn học chỉ có thể tồn tại vững bền khi đem
đến một cái nhìn mới về cuộc sống và chứa đựng bao nỗi trăn trở về nhân sinh”.
- Xác định vấn đề lý luận có liên quan: Giá trị nội dung của tác phẩm văn học (hiện thực
được phản ánh, tư tưởng, thông điệp)


- Xác định phạm vi tư liệu: Những tác phẩm văn học hiện đại Việt Nam chứa đựng một
cái nhìn mới về hiện thực cuộc sống và những trăn trở, suy tư sâu sắc của nhà văn về con
người và cuộc đời.
- Chọn dẫn chứng:
+ “Dẫn chứng nền”: “Chí Phèo” hoặc “Đời thừa” của Nam Cao, “Chiếc thuyền ngoài xa”
của Nguyễn Minh Châu, “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng, “Một người Hà
Nội” của Nguyễn Khải...
+ “Dẫn chứng trọng tâm”: “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh.
2. Kỹ năng phân tích dẫn chứng

a. Một số vấn đề cần lưu ý:
Kỹ năng này liên quan đến kỹ năng lập dàn ý bài văn nghị luận
Sau khi giải thích, và kết hợp bàn luận về vấn đề nghị luận, thao tác tiếp theo quyết
định thành công của bài viết là phân tích dẫn chứng để chứng minh cho quan điểm của
người viết.
Ở thao tác này, học sinh cần phân biệt rõ hai hoạt động: Phân tích tác phẩm văn học và
phân tích tác phẩm văn học để làm sáng tỏ một vấn đề lý luận.
Phân tích tác phẩm văn học là khảo sát toàn bộ tác phẩm, bao quát mọi phương diện
của tác phẩm, từ chi tiết đến tổng thể, để chỉ ra được giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật và
thông điệp nghệ thuật của tác phẩm.
Phân tích tác phẩm văn học để làm sáng tỏ một vấn đề lý luận là: Trên cơ sở nắm
vững tác phẩm, hiểu biết sâu sắc về giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật và thông điệp của tác
phẩm, người viết chỉ chọn khảo sát một phương diện, một khía cạnh, một giá trị, thậm chí
một chi tiết nào đó của tác phẩm có liên quan trực tiếp đến vấn đề nghị luận và có giá trị
làm sáng rõ quan điểm của người viết về vấn đề này.
Điều này cũng có nghĩa là để thực hiện tốt kỹ năng chọn và phân tích dẫn chứng, học
sinh phải có một kiến thức sâu rộng về tác phẩm văn chương và các vấn đề lý luận văn học.
Đó cũng chính là nền tảng cho mọi kỹ năng liên quan đến nghị luận văn học.
b. Phân tích dẫn chứng
- Đối với “dẫn chứng nền”:
Sau khi giải thích và bàn luận về vấn đề nghị luận, người viết cần đưa ra nhiều tác
phẩm văn học trong phạm vi tư liệu đã được xác định để bước đầu khẳng định tính đúng
đắn và phổ biến của vấn đề nghị luận trong thế giới văn chương nghệ thuật.
Đối với “dẫn chứng nền”, người viết không cần đi sâu phân tích mà chỉ khái quát ngắn
gọn về tác phẩm theo định hướng vấn đề nghị luận.
- Đối với “dẫn chứng trọng tâm”:
Xuất phát từ vấn đề nghị luận, người viết chọn khảo sát và phân tích một phương diện,
một khía cạnh, một giá trị, thậm chí một chi tiết nào đó của tác phẩm có liên quan trực tiếp
đến vấn đề nghị luận và có giá trị làm sáng rõ quan điểm của người viết về vấn đề này.
Khi phân tích tác phẩm để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận, người viết cần có ý thức bám

sát vào phần giải thích kết hợp bàn luận phía trước để định hướng phân tích tác phẩm. Phần
giải thích kết hợp bàn luận chứa đựng cách hiểu và quan điểm của người viết về vấn đề
nghị luận. Vì thế, cách hiểu và quan điểm của người viết phải luôn được hướng đến trong
suốt quá trình phân tích tác phẩm.


Ví dụ minh họa:
Đề: Có ý kiến cho rằng “Một tác phẩm văn học chỉ có thể tồn tại vững bền khi đem
đến một cái nhìn mới về cuộc sống và chứa đựng bao nỗi trăn trở về nhân sinh”.
Qua việc phân tích một tác phẩm văn học hiện đại Việt Nam, anh/chị hãy làm sáng tỏ
ý kiến trên.
* Thao tác chọn dẫn chứng (đã thực hiện trong Ví dụ minh họa ở phần 1)
* Thao tác phân tích dẫn chứng:
Phân tích “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận:
- “Cái nhìn mới về hiện thực cuộc sống” trong “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh:
Chiến tranh được nhìn từ cái nhìn tâm lý của một người lính vừa đi ra từ cuộc chiến
+ Những mất mát và nỗi đau của con người trong chiến tranh:
. Tuổi trẻ bị chôn vùi trong bom đạn, chết chóc, chém giết, đói rét.
. Tình yêu, hạnh phúc lứa đôi bị tướt đoạt, giày xéo:
. Nhân cách bị tha hóa (méo mó nhân hình, dị dạng nhân tính, trở nên vô cảm trước cái
chết của đồng loại)
+ Nỗi đau của con người sau chiến tranh:
. Vĩnh viễn không thể quên được những tổn thương nặng nề trong chiến tranh.
. Không còn khả năng yêu thương
. Không còn khả năng sống bình thường
→ Với “Nỗi buồn chiến tranh”, Bảo Ninh đã nhìn về chiến tranh từ điểm nhìn của con
người có tính nhân bản, con người mang ý nghĩa là Con Người, nhìn về con người bằng
chính nỗi đau của con người. Đối với chiến tranh, con người đã và đang là nạn nhân. Con
người bị chiến tranh xô đẩy, tước đoạt, vùi dập. Họ trở nên méo mó, dị dạng. Họ bị biến
đổi cả nhân hình và nhân tính. Họ bị tước đi quyền cơ bản nhất: quyền được là chính mình.

Họ bị buộc phải giết người, họ bị buộc phải trở nên tàn nhẫn, và họ bị tước đi cái khao khát
rất Người: không phải giết người. Và chính từ điểm nhìn này, Bảo Ninh đã cho chúng ta
thấy những đánh đổi bi thương của dân tộc trong chiến tranh. Đây là một phát hiện có
chiều sâu về chủ nghĩa anh hùng Việt Nam trong cuộc chiến tranh vệ quốc.
- “Nỗi trăn trở về nhân sinh” trong “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh
+ “Nỗi buồn chiến tranh” chính là tiếng khóc đau đớn của nhà văn cho số phận bi thảm
của con người trong chiến tranh, dù đó là bên chính nghĩa hay phi nghĩa, dù là ta hay là
địch.
. Những đau đớn, giằng xé khủng khiếp trong tâm hồn nhân vật Kiên.
. Những nhân vật khác đều rơi vào cảnh sống vật vờ, bất ổn sau chiến tranh, dù họ vừa là
những người hùng trở về từ cuộc chiến.
+ “Nỗi buồn chiến tranh” là một thông điệp phản chiến quyết liệt trên lập trường bảo vệ
những giá trị nhân bản, nhân văn của con người.
III. THỰC HÀNH KỸ NĂNG CHỌN VÀ PHÂN TÍCH DẪN CHỨNG TRONG BÀI
VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC CHO HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN QUA MỘT SỐ ĐỀ
LUYỆN TẬP
ĐỀ 1

“Khi kiến tạo lại thế giới này, nhà văn đồng thời kiến tạo nên gương mặt mình”.


Anh, chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng việc phân tích một tác phẩm đã học,
anh/chị hãy làm sáng tỏ quan điểm của mình.
1. Chọn dẫn chứng:
- Xác định vấn đề nghị luận: “Khi kiến tạo lại thế giới này, nhà văn đồng thời kiến tạo
nên gương mặt mình” có nghĩa là: Khi phản ánh hiện thực cuộc sống vào trong tác phẩm,
nhà văn đồng thời xây dựng nên phong cách nghệ thuật của mình.
- Xác định vấn đề lý luận có liên quan: Phong cách nghệ thuật của nhà văn.
- Xác định phạm vi tư liệu: Những tác phẩm văn học mang dấu ấn đậm nét phong cách
nghệ thuật của tác giả.

- Chọn dẫn chứng:
+ “Dẫn chứng nền”: “Chí Phèo” hoặc “Đời thừa” của Nam Cao, “Hai đứa trẻ” của Thạch
Lam, “Vội vàng” hoặc “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu, “Tràng giang” của Huy Cận,
“Chữ người tử tù” hoặc “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân, ...
+ “Dẫn chứng trọng tâm”: Một tác phẩm văn học tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của
một nhà văn lớn: “Đời thừa” của Nam Cao.
2. Phân tích dẫn chứng:
a. Phần giải thích, bàn luận (là cơ sở, định hướng cho phần phân tích tác phẩm)
- Trong văn chương nghệ thuật, người nghệ sĩ không chỉ phản ánh, tái hiện cuộc sống, nêu
lên những hiểu biết về thế giới, nhận thức thế giới mà còn bày tỏ thái độ chủ quan của
mình, nói lên ước mơ, khát vọng của mình về thế giới, về cuộc sống.
- Văn chương nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Hiện thực cuộc sống không được “bê
nguyên xi” vào tác phẩm mà được “kiến tạo lại” dưới một cái nhìn mới, một cách cảm mới
của người nghệ sĩ. “Tác phẩm nghệ thuật là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan” là
vậy. Điều đó cũng có nghĩa là sáng tạo nghệ thuật là một quá trình kép. Nhà văn vừa sáng
tạo ra tác phẩm vừa “sáng tạo nên bản thân mình”. Trong quá trình lao động nghệ thuật,
nhà văn chân chính luôn có ý thức tạo ra cho mình một phong cách nghệ thuật. Bởi đó là
đòi hỏi tất yếu của hoạt động sáng tạo.
b. Phân tích truyện ngắn “Đời thừa” của Nam Cao để làm sáng tỏ quan điểm.
“Đời thừa” là một tác phẩm xuất sắc của ngòi bút Nam Cao trong đề tài tiểu tư sản, là
tác phẩm thể hiện khá hoàn chỉnh tư tưởng nghệ thuật cũng như những đặc điểm nổi bật
trong phong cách nghệ thuật của Nam Cao.
- Xây dựng nhân vật Hộ với số phận “bị áo cơm ghì sát đất”, Nam Cao thể hiện sự
thấu hiểu sâu sắc bi kịch tinh thần của người trí thức nghèo trong xã hội thành thị Việt Nam
trước CM, đồng thời bộc lộ nỗi đau đớn khôn nguôi trước tình trạng con người không giữ
nổi nhân tính, nhân phẩm vì miếng cơm manh áo, vì những vụn vặt trong cuộc sống đời
thường. Đó là chiều sâu trong chủ nghĩa nhân đạo của Nam Cao.
- Cốt truyện “Đời thừa” khá đơn giản, song từ câu chuyện dường như tầm thường ấy,
nhà văn đã đặt ra những vấn đề mang ý nghĩa xã hội, nhân sinh to lớn, sâu sắc, có sắc thái
triết học. Nhiều vấn đề hệ trọng trong đời sống tinh thần thời đại được đặt ra một cách đầy

ám ảnh: cá nhân và xã hội, lý tưởng và hiện thực, nghệ thuật và tình thương, nhân cách và
hoàn cảnh.


- Nam Cao thực sự là “nhà văn hiện thực tâm lí” khi lách sâu ngòi bút vào thế giới nội
tâm của nhân vật Hộ với những giằng xé dữ dội và đau đớn trong một bi kịch không lối
thoát.
- “Đời thừa” mang chất giọng đối nghịch: vừa tỉnh táo sắc lạnh lại vừa nặng trĩu suy
tư và đằm thắm yêu thương. Qua giọng điệu trần thuật, Nam Cao hiện lên với bề ngoài
lạnh lùng đến tàn nhẫn nhưng thẳm sâu bên trong là niềm cảm thông, nỗi xót xa, đau đớn
của nhà văn trước bi kịch của người nghệ sĩ không giải quyết được những mâu thuẫn giữa
nghệ thuật và tình yêu thương con người.
c. Đánh giá về tác phẩm sau khi phân tích và về vấn đề nghị luận
- Với “Đời thừa” và nhiều tác phẩm khác, Nam Cao đã thực sự “kiến tạo nên” một
phong cách nghệ thuật độc đáo, để lại một dấu ấn đặc biệt trong lịch sử văn học dân tộc.
- Trong thế giới của văn chương, chính phong cách nghệ thuật đã giúp cho nhà văn
có được một vị trí trên văn đàn và làm cho diện mạo văn học thời kì ấy trở nên phong phú,
đa dạng và độc đáo.
- Vì vậy mỗi nhà văn phải thực sự nghiêm túc trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật,
phải luôn có ý thức xây dựng cho mình một “gương mặt nghệ thuật” độc đáo và có giá trị
thẩm mĩ. Đó là vấn đề sống còn trong cái thế giới cầu toàn với quy luật đào thải khắc
nghiệt của văn chương.
ĐỀ 2: “Văn học dẫn con người bước vào những cuộc hành trình xuyên thời gian, không
gian; đánh thức và nuôi dưỡng tình yêu cái đẹp trong ta; giúp ta nhận ra và chiến thắng
con thú vẫn náu ẩn trong bóng tối tâm hồn”.
Anh/chị hãy giải thích và làm sáng tỏ ý kiến trên thông qua việc phân tích một số tác
phẩm văn học dân gian.
1. Chọn dẫn chứng:
- Xác định vấn đề nghị luận: “Văn học dẫn con người bước vào những cuộc hành trình
xuyên thời gian, không gian; đánh thức và nuôi dưỡng tình yêu cái đẹp trong ta; giúp ta

nhận ra và chiến thắng con thú vẫn náu ẩn trong bóng tối tâm hồn”: Ý kiến đã khẳng định
giá trị to lớn của văn học trong đời sống con người: giá trị nhận thức, giá trị thẩm mĩ, giá
trị giáo dục.
- Xác định vấn đề lý luận có liên quan: Chức năng/Giá trị của văn học
- Xác định phạm vi tư liệu: Những tác phẩm văn học dân gian mang chứa đựng giá trị
nhận thức, giá trị giáo dục, giá trị thẫm mĩ.
- Chọn dẫn chứng:
+ Dẫn chứng nền: Truyện cổ tích “Tấm Cám”, Truyền thuyết “An Dương Vương và Mị
Châu, Trọng Thủy”, Ca dao than thân, Truyện thơ “Tiễn dặn người yêu”, Sử thi “Đăm
Săn”,Vở chèo “Kim Nham” với trích đoạn “Xúy Vân giả dại”:
+ Dẫn chứng trọng tâm:
Căn cứ vào vấn đề nghị luận, với mỗi giá trị văn học, người viết có thể chọn phân tích
2-3 tác phẩm trong phạm vi tư liệu đã xác định.
2. Phân tích dẫn chứng:
a. Phần giải thích, bàn luận: (là cơ sở, định hướng cho phần phân tích tác phẩm)


- “dẫn con người bước vào những cuộc hành trình xuyên thời gian, không gian”: Văn học
giúp con người khám phá nhiều vùng đất khác nhau, sống với nhiều cuộc đời, nhiều thời
đại khác nhau với những hiểu biết đa dạng về tự nhiên, xã hội.
- “đánh thức và nuôi dưỡng tình yêu cái đẹp trong ta”: Văn học khơi dậy tình yêu cái đẹp
và làm cho nó ngày một lớn dần lên, ngày một sâu sắc, bền vững trong lòng người.
- “giúp ta nhận ra và chiến thắng con thú vẫn náu ẩn trong bóng tối tâm hồn”. Văn học
giúp chúng ta nhận ra tốt - xấu, thiện -ác, đúng - sai, phải - trái, từ đó đấu tranh loại bỏ
những cái tầm thường, kém cỏi, đê tiện trong con người ta để sống tốt, sống đẹp hơn.
→ Với cách diễn đạt giàu ý nghĩa biểu tượng, ý kiến đã khẳng định giá trị to lớn của văn
học trong đời sống con người. Nhận định này đã bao quát những giá trị cơ bản nhất của
văn chương muôn thuở: giá trị nhận thức, giá trị thẩm mĩ, giá trị giáo dục.
b. Phân tích dẫn chứng:
- Văn học “dẫn con người bước vào những cuộc hành trình xuyên thời gian, không gian”:

(HS có thể chọn 2 hoặc 3 trong số các tác phẩm sau)
+ Truyện cổ tích “Tấm Cám”: Cuộc đấu tranh muôn thuở giữa cái Thiện và cái Ác trong
xã hội xưa.
+ Truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy”: An Dương Vương trong
buổi đầu dựng nước và sự sụp đổ của nhà nước Âu Lạc.
+ Ca dao than thân: Cuộc sống và thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa
+ Truyện thơ “Tiễn dặn người yêu”: Cuộc sống, phong tục tập quán của người dân tộc
Thái.
+ Sử thi “Đăm Săn”: Cuộc sống và khát vọng của cộng đồng Ê đê thời cổ đại.
- Văn học “đánh thức và nuôi dưỡng tình yêu cái đẹp trong ta”:
(HS có thể chọn 2 hoặc 3 trong số các tác phẩm sau)
+ Truyện cổ tích “Tấm Cám”: Yêu cô Tấm hiền lành, chăm chỉ, nhân hậu, biết kiên trì đấu
tranh để bảo vệ sự sống và hạnh phúc.
+ Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa: Trân trọng những người phụ nữ ý thức được
giá trị bản thân và luôn khát khao tình yêu, hạnh phúc; trân trọng lối sống trọng nghĩa tình
của người bình dân xưa.
+ Truyện thơ “Tiễn dặn người yêu”: Trân trọng tình yêu mãnh liệt, bền bỉ, sắc son của
những chàng trai, cô gái Thái.
+ Vở chèo “Kim Nham” với trích đoạn “Xúy Vân giả dại”: Đồng cảm, trân trọng khát vọng
mãnh liệt về hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình của những người phụ nữ bị ràng buộc
trong khuôn khổ khắt nghiệt của lễ giáo phong kiến.
- Văn học “giúp ta nhận ra và chiến thắng con thú vẫn náu ẩn trong bóng tối tâm hồn”.
(HS có thể chọn 2 hoặc 3 trong số các tác phẩm sau)
+ Truyện cổ tích “Tấm Cám”: Ghen ghét, đố kị, tham lam là biểu hiện của cái Xấu, mầm
mống của cái Ác.
+ Truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy”: Chủ quan, tự mãn, kiêu
ngạo sẽ dẫn đến kết cục thất bại tất yếu. Mù quáng trong tình yêu sẽ khiến con người đánh
mất nhiều thứ, kể cả bản thân mình.
+ Truyện cười “Tam đại con gà”: Giấu dốt là con đường nhanh nhất dẫn con người đến sự
thất bại thảm hại.



c. Đánh giá về tác phẩm sau khi phân tích và về vấn đề nghị luận
- Văn học dân gian nói riêng, văn chương nói chung thực sự là những sản phẩm nghệ thuật
có vai trò đặc biệt trong đời sống tinh thần của con người, giúp con người ngày càng đến
gần hơn với những giá trị chân chính để hoàn thiện chính mình.
- Ý kiến trên rất hàm súc và sâu sắc, giúp chúng ta nhận thức được ý nghĩa và giá trị lớn
lao của văn chương đối với cuộc sống của con người.
ĐỀ 3: Có ý kiến cho rằng: “Một bài thơ hay bao giờ cũng chứa đựng một triết lý sống,
một chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời”.
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng việc phân tích một tác phẩm đã học, anh/chị
hãy làm sáng tỏ quan điểm của mình.
1. Chọn dẫn chứng:
- Xác định vấn đề nghị luận: “Một bài thơ hay bao giờ cũng chứa đựng một triết lý sống,
một chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời”
- Xác định vấn đề lý luận có liên quan: Đặc trưng của văn học nói chung, của thơ ca nói
riêng về nội dung phản ánh.
- Xác định phạm vi tư liệu: Những bài thơ hay chứa đựng những triết lý sống, những
chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời
- Chọn dẫn chứng:
+ Dẫn chứng nền: “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, “Vội vàng” của Xuân Diệu, “Sóng” của
Xuân Quỳnh, “Bài thơ tình số 28” của Targo...
+ Dẫn chứng trọng tâm: “Ánh trăng” của Nguyễn Duy
2. Phân tích dẫn chứng:
a. Phần giải thích, bàn luận: (là cơ sở, định hướng cho phần phân tích tác phẩm)
- Một bài thơ hay bao giờ cũng chứa đựng tình yêu cuộc sống, yêu con người, yêu những
giá trị chân chính; chứa đựng những quan niệm thẩm mĩ, quan niệm nhân sinh tích cực.
- Ý kiến trên là một nhận định đúng đắn về đặc trưng của thơ ca. Thơ ca chính là tiếng nói
của tình cảm, là nơi kí thác, gởi gắm tình cảm, tâm tư, chiêm nghiệm của người nghệ sĩ.
Đó là những suy tư, trăn trở hướng về những giá trị tốt đẹp của cuộc đời.

b. Phân tích-dẫn chứng : “Ánh trăng” của Nguyễn Duy là “một bài thơ hay” như thế.
- Bài thơ là tiếng lòng của Nguyễn Duy, là sự suy ngẫm của nhà thơ về một “lẽ đời” đáng
buồn: con người ta thường say sưa với thực tại mà vô tình lãng quên đi những gì đẹp đẽ đã
từng gắn bó trong quá khứ.
- Bài thơ là sự thức tỉnh của Nguyễn Duy, là sự thức tỉnh từ bên trong của mỗi con người:
chúng ta không thể sống thiếu quá khứ, không thể lãng quên nghĩa tình đồng đội, nhân dân
và những năm tháng đầy tự hào của đất nước, dân tộc.
c. Đánh giá về tác phẩm sau khi phân tích và về vấn đề nghị luận
- Nguyễn Duy đã đem đến cho mỗi chúng ta một triết lý giản dị mà sâu sắc về lối sống
thủy chung, về thái độ ân tình. Triết lý ấy cũng là đạo lí ứng xử của dân tộc.
- Chất triết lý thâm trầm được diễn tả qua hình tượng ánh trăng, với giọng thơ tâm tình vừa
thiết tha cảm xúc vừa trầm lắng suy tư, đã tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài
thơ.


- Những triết lý sống, những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời thực sự là những tiêu chí
đúng đắn để nhận diện giá trị của thơ ca.
ĐỀ 4: Bàn về thiên chức của nhà văn, Nguyễn Minh Châu cho rằng: “Nhà văn phải là
người đi tìm cái hạt ngọc ẩn giấu bên trong tâm hồn con người”.
Bằng trải nghiệm văn học của mình, anh/chị hãy làm sáng tỏ quan niệm trên.
1. Chọn dẫn chứng:
- Xác định vấn đề nghị luận: “Nhà văn phải là người đi tìm cái hạt ngọc ẩn giấu bên
trong tâm hồn con người”: Nhà văn phải là người tìm kiếm và phát hiện vẻ đẹp ẩn giấu bên
trong của con người.
- Xác định vấn đề lý luận có liên quan: Thiên chức của nhà văn
- Xác định phạm vi tư liệu: Những tác phẩm văn học chứa đựng những phát hiện của nhà
văn về vẻ đẹp ẩn giấu bên trong của con người
- Chọn dẫn chứng:
+ Dẫn chứng nền: “Chí Phèo”, “Lão Hạc” của Nam Cao, “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam,
“Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, “Vợ nhặt” của Kim Lân...

+ Dẫn chứng trọng tâm: “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, “Chiếc thuyền ngoài xa” của
Nguyễn Minh Châu.
2. Phân tích dẫn chứng:
a. Phần giải thích, bàn luận: (là cơ sở, định hướng cho phần phân tích tác phẩm)
- Thiên chức của nhà văn là khám phá và phản ánh những phẩm chất, vẻ đẹp cao quý, trong
sáng ẩn khuất bên trong tâm hồn con người mà đôi khi bị che lấp bởi vẻ bề ngoài hoặc
hoàn cảnh sống.
- Sứ mệnh của văn chương là viết về cái đẹp, ngợi ca cái đẹp để nâng đỡ, thanh lọc tâm
hồn con người, hướng con người đến Chân –Thiện – Mĩ; và nhà văn chính là người thực
hiện sứ mệnh ấy bằng hành trình khám phá và phản ánh những vẻ đẹp còn lẩn khuất trong
thế giới tâm hồn phong phú của con người, mà đôi khi bị hiện thực cuộc sống bộn bề che
lấp đi.
b. Phân tích-dẫn chứng :
-“Vợ chồng A Phủ” là một phát hiện của nhà văn Tô Hoài về “hạt ngọc ẩn giấu bên trong
tâm hồn con người”, đó chính là khát vọng tự do, sức sống và sức phản kháng mãnh liệt
trong tâm hồn những cô gái trẻ miền Tây Bắc qua nhân vật Mị.
+ Bị vùi dập trong cuộc sống tăm tối như con vật, tưởng chừng Mị đã hoàn toàn mất ý
thức về cuộc sống, nhưng trong thẳm sâu tâm hồn Mị, khát vọng tự do, khát vọng sống,
khát vọng hạnh phúc vẫn luôn âm ỉ, chỉ cần một tác động nhỏ (một tiếng sáo gọi bạn, một
chén rượu ngày Tết) là tất cả lại bừng dậy, sống động và mãnh liệt (trong đêm tình mùa
xuân)
+ Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ đến hành động cắt
dây trói giải thoát cho A Phủ là kết quả của một sức sống luôn tiềm tàng, của một khát
vọng tự do mãnh liệt đã bùng lên thành một hành động phản kháng quyết liệt. Đó là vẻ đẹp
quật cường của con người trước sự vùi dập của hoàn cảnh.


- “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là minh chứng tiêu biểu nhất cho quan
điểm của ông về sứ mệnh của nhà văn: phát hiện những vẻ đẹp khuất lấp của con người
trong cuộc sống đời thường qua nhân vật người đàn bà hàng chài.

+ Với cái nhìn bên ngoài, “từ xa”, người đàn bà hàng chài hiện thân cho kiếp người bất
hạnh bị cái đói khổ, cái ác và số phận đen đủi dồn đến chân tường: xấu xí, thô kệch, đông
con, sống chen chúc trên một chiếc thuyền, thường xuyên bị chồng đánh đập hành hạ.
+ Khi rút ngắn khoảng cách, “đến gần” hơn, lắng nghe bằng cả trái tim và tấm lòng, người
nghệ sĩ đã phát hiện ra “hạt ngọc” ẩn giấu bên trong thân phận bất hạnh ấy: một tấm lòng
bao dung, độ lượng, vị tha; một người mẹ giàu đức hi sinh, yêu thương con vô hạn; một
con người thâm trầm, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời.
c. Đánh giá về tác phẩm sau khi phân tích và về vấn đề nghị luận
- Bằng tình yêu đối với con người và miền đất Tây Bắc, Tô Hoài đã phát hiện ra vẻ đẹp dữ
dội ẩn giấu trong những số phận nhỏ bé, bất hạnh, bị chà đạp, giày xéo.
- “Chiếc thuyền ngoài xa” là một sự phát hiện đáng trân trọng của Nguyễn Minh Châu về
vẻ đẹp khuất lấp của con người trong cuộc sống đời thường, những vẻ đẹp thường bị che
khuất bởi vẻ bề ngoài thô kệch, xấu xí, bởi hoàn cảnh mưu sinh khốc liệt, và cả bởi những
hạn hẹp, những định kiến trong cái nhìn nhận đánh giá về con người
- Câu nói của Nguyễn Minh Châu là một đòi hỏi nghiêm túc đối với một nhà văn chân
chính. Và muốn thực hiện được sứ mệnh cao cả ấy, mỗi nhà văn phải có ý thức sống sâu
với đời, phải đến với con người và cuộc đời bằng cả trái tim, tâm hồn với khát vọng mãnh
liệt khai phá, phát hiện và nâng niu, trân trọng cái Đẹp.
ĐỂ 5: “ Về phía độc giả, nhân vật phải là chiếc chìa khóa để giải mã những vấn đề hiện
thực mà nhà văn đặt ra trong tác phẩm” (Hà Minh Đức – Lý luận văn học, NXB Giáo dục,
2003).
Qua việc phân tích một số nhân vật văn học, anh chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
1. Chọn dẫn chứng:
- Xác định vấn đề nghị luận: “ Về phía độc giả, nhân vật phải là chiếc chìa khóa để giải
mã những vấn đề hiện thực mà nhà văn đặt ra trong tác phẩm”: Nhân vật vừa là phương
tiện (chìa khóa) vừa là đối tượng (mã nghệ thuật) để người đọc tiếp nhận (giải mã) những
vấn đề hiện thực mà nhà văn đặt ra trong tác phẩm.
- Xác định vấn đề lý luận có liên quan: Vai trò, ý nghĩa của nhân vật trong tác phẩm văn
học.
- Xác định phạm vi tư liệu: Những hình tượng nhân vật chứa đựng những nhận thức sâu

sắc, tư tưởng và thông điệp lớn lao của nhà văn về hiện thực cuộc sống, đặc biệt là những
hình tượng nhân vật điển hình.
- Chọn dẫn chứng:
+ Dẫn chứng nền: Nhân vật Mị (“Vợ chồng A Phủ” – Tô Hoài), nhân vật Chí Phèo (“Chí
Phèo” – Nam Cao), nhân vật Hộ (“Đời thừa” – Nam Cao), nhân vật Raxtinhac (Bộ tiểu
thuyết “Tấn trò đời” – Banzac)...
+ Dẫn chứng trọng tâm: Nhân vật Hồn Trương Ba (“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” – Lưu
Quang Vũ), nhân vật người đàn bà hàng chài (“Chiếc thuyền ngoài xa” – Nguyễn Minh
Châu)


2. Phân tích dẫn chứng:
a. Phần giải thích, bàn luận: (là cơ sở, định hướng cho phần phân tích tác phẩm)
- “Những vấn đề hiện thực mà nhà văn đặt ra trong tác phẩm” là hiện thực bản chất của
đời sống xã hội được nhà văn phản ánh, lý giải và ký thác thông điệp.
- Nhân vật là hình tượng nghệ thuật được nhà văn xây dựng trong tác phẩm. Trong hoạt
động tiếp nhận, nhân vật là phương tiện, nhân tố then chốt (chìa khóa) để mở lối vào tác
phẩm (giải mã), giúp người đọc phát hiện, thẩm thấu và rung cảm với ý đồ nghệ thuật của
tác giả.
→ Như vậy, nhân vật văn học có vai trò quan trọng nhất trong việc giúp người đọc tiếp
nhận được “những vấn đề hiện thực” được nhà văn phản ánh, lý giải và ký thác thông điệp.
b. Phân tích-dẫn chứng :
- Sáng tạo từ cốt truyện dân gian, nhân vật Hồn Trương Ba trong vở kịch “Hồn Trương Ba,
da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ đã kết tinh những nhận thức sâu sắc, giàu ý nghĩ nhân
sinh của tác giả.
+ Sống nhờ vào xác hàng thịt, Hồn Trương Ba dần bị tha hóa, đnáh mất những phẩm chất
trong sạch, cao quý. Từ đó, Lưu Quang Vũ đặt ra vấn đề về sự cám dỗ, lấn át, ngự trị của
cái dung tục, thấp hèn đối với con người.
+ Là người tự trọng, Hồn Trương Ba vừa đau đớn trước tình trạng “bên trong một đằng,
bên ngoài một nẻo”, vừa nỗ lực đấu tranh để được sống là chính mình. Cuối cùng, Hồn

Trương Ba quyết định từ bỏ kiểu sống vay mượn, chắp vá; dũng cảm chấp nhận cái chết để
giải thoát. Đây cũng là thông điệp: Không thể sống chung với cái dung tục, thấp hèn, con
người chân chính không ngừng nỗ lực đấu tranh vượt qua nghịch cảnh để được sống tự do,
toàn vẹn,
+ Đổi lấy sự sống cho cu Tỵ, làm vơi bớt nỗi đau của người thân, cái chết của Hồn Trương
Ba còn mang ý nghĩa: Sự sống của con người không chỉ là sự hài hòa giữa linh hồn và thể
xác mà còn là sự gắn kết giữa cá nhân với cộng đồng, xã hội...
- Qua nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn
Minh Châu đã đặt ra những vấn đề bức thiết của hiện thực và những trăn trở về mối quan
hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời.
+ Bi kịch cuộc sống, số phận bất hạnh của người đàn bà là lời cảnh báo khẩn thiết về tình
trạng đói nghèo, cùng cực của con người trong cuộc sống đời thường và những hậu quả
khôn lường: sự tha hóa đạo đức nhân cách; tình trạng bạo lực và sự rạn vỡ nền nếp gia
đình; vấn đề quyền sống của con người...
+ Qua chân dung tâm hồn, vẻ đẹp nhân cách của người đàn bà trong câu chuyện tại tòa án
huyện, nhà văn đề cập đến những nghịch lý, đối lập trong muôn mặt đời sống. Từ đó, đặt ra
cách nhìn đời, nhìn người; về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật...
c. Đánh giá về tác phẩm sau khi phân tích và về vấn đề nghị luận
- Với hai nhân vật Hồn Trương Ba và người đàn bà hàng chài, Lưu Quang Vũ và Nguyễn
Minh Châu đã đem đến cho người đọc những nhận thức, khám phá mới mẻ về con người
và cuộc sống, làm cho người đọc không ngừng trăn trở suy tư trước những thông điệp có ý
nghĩa nhân sinh sâu sắc được gởi gắm trong mỗi hình tượng nhân vật.
- Nhận định trên đã khẳng định đúng đắn vai trò của nhân vật đối với những vấn đề hiện
thực mà nhà văn đặt ra trong tác phẩm, từ đó có ý nghĩa định hướng trong sáng tác và tiếp


nhận văn học. Với người sáng tác, cần xây dựng hình tượng nhân vật ngang tầm sứ mệnh
nghệ thuật. Với người đọc, nhân vật chính là cơ sở để tiếp nhận và thẩm định giá trị tác
phẩm và tài năng của nhà văn.
ĐỀ 6: Bàn về nhân vật trong tác phẩm văn xuôi, có ý kiến cho rằng”

“Tính chất nghịch lý của nhân vật, đó là một khám phá mới của văn xuôi hiện đại”.
Bằng những hiểu biết về nhân vật trong các tác phẩm văn xuôi, anh/chị hãy làm sáng
tỏ ý kiến trên.
1. Chọn dẫn chứng:
- Xác định vấn đề nghị luận: Tính chất nghịch lý của nhân vật, đó là một khám phá mới
của văn xuôi hiện đại
- Xác định vấn đề lý luận có liên quan: Sự đổi mới trong xây dựng hình tượng nhân vật
thể hiện nhận thức mới về đời sống, góp phần đổi mới văn học.
- Xác định phạm vi tư liệu: Những nhân vật trong các tác phẩm văn xuôi hiện đại có sự
phong phú cũng như sự vận động phức tạp về tính cách cho thấy tầm nhận thức sâu sắc của
nhà văn về con người và đời sống.
- Chọn dẫn chứng:
+ Dẫn chứng nền: Nhân vật Mị (“Vợ chồng A Phủ” – Tô Hoài), nhân vật Chí Phèo (“Chí
Phèo” – Nam Cao), nhân vật Hộ (“Đời thừa” – Nam Cao), nhân vật Raxtinhac (Bộ tiểu
thuyết “Tấn trò đời” – Banzac), nhân vật Hồn Trương Ba (“Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
– Lưu Quang Vũ), nhân vật Raxtinhac (Bộ tiểu thuyết “Tấn trò đời” – Banzac)...
+ Dẫn chứng trọng tâm: nhân vật Hộ (“Đời thừa” – Nam Cao), nhân vật người đàn bà
hàng chài (“Chiếc thuyền ngoài xa” – Nguyễn Minh Châu)
2. Phân tích dẫn chứng:
a. Phần giải thích, bàn luận: (là cơ sở, định hướng cho phần phân tích tác phẩm)
- Tính chất nghịch lý của nhân vật là sự tồn tại nhiều mặt đối lập, nhiều điều bí ẩn, phức
tạp, cũng như sự vận động phong phú trong mỗi hình tượng nhân vật chứng tỏ sự vô biên,
đa diện của tâm hồn và nhân cách con người.
- Khám phá và làm nổi bật sự đa diện này trong mỗi con người, văn xuôi hiện đại đã chạm
đến chiều sâu mới trong nhận thức về đời sống để từ đó xây dựng tư tưởng giàu giá trị
nhân văn cho tác phẩm và góp phần đổi mới văn học.
b. Phân tích-dẫn chứng :
* “Tính chất nghịch lý” trong nhân vật Hộ (“Đời thừa” – Nam Cao)
- Hộ là nhà văn yêu nghề, nghiêm túc trong sáng tác, có tâm huyết, có hoài bão lớn trong
nghề nghiệp, có quan điểm đúng đắn về nghề viết văn. Nhưng rồi gánh nặng mưu sinh đã

khiến Hộ phản bội lại nguyên tắc sáng tác của mình. Thế nhưng Hộ lại chưa đánh mất
lương tri nghề nghiệp, những lúc đọc lại những bài viết của mình, anh tự phỉ nhổ mình là
một kẻ khốn nạn, bất lương, tự nhận thấy mình chỉ là người thừa.
- Hộ là người có nguyên tắc sống rất giàu tình yêu thương và sự chia sẻ. Đó là “Kẻ mạnh
không phải là kẻ dẫm lên vai người khác để thỏa mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ
giúp đỡ người khác trên đôi vai của mình”. Cúi xuống cứu vớt đời Từ, lo cho mẹ già, con
dại của Từ, chấp nhận bỏ phí một vài năm sự nghiệp để chăm lo cho gia đình là hành động
thiết thực của nguyên tắc ấy. Nhưng rồi Hộ cũng đã phản bội lại nguyên tắc tình thương


của mình. Đau khổ vì không thực hiện được hoài bão văn chương, Hộ trở thành một người
cha, người chồng đối xử tệ bạc với vợ con. Để rồi lại đau đớn tự nhận mình là con người
khốn nạn, một người chồng vô trách nhiệm, một người cha không ra gì. Cuộc đời Hộ mãi
là một vòng lẩn quẩn như thế.
* “Tính chất nghịch lý” trong nhân vật người đàn bà hàng chài (“Chiếc thuyền ngoài xa” –
Nguyễn Minh Châu)
- Người đàn bà hàng chài là một người phụ nữ có vẻ bề ngoài xấu xí, thô kệch nhưng lại ẩn
chứa bên trong những phẩm chất vô cùng tốt đẹp: giàu tình yêu thương, bao dung, vị tha,
giàu đức hi sinh.
- Người đàn bà hàng chài là người phụ nữ thất học, có cuộc sống lam lũ, bất hạnh, tăm tối
trong đòn roi bạo lực, nhưng lại là người “sáng” nhất, “sáng” hơn cả Phùng và Đẩu, những
người trí thức. Người phụ nữ ấy lý giải và ứng xử với cuộc đời tăm tối bất hạnh của mình
bằng một sự hiểu đời sâu sắc mà Phùng và Đẩu phải khó khăn mới “vỡ lẽ” ra được.
c. Đánh giá về tác phẩm sau khi phân tích và về vấn đề nghị luận
- Nhân vật Hộ của nhà văn hiện thực Nam Cao và nhân vật người đàn bà hàng chài của
Nguyễn Minh Châu, nhà văn tiên phong trong đổi mới văn học, cùng với rất nhiều nhân vật
“nghịch lý” của văn học hiện đại đã làm cho con người hiện diện trong văn học đúng như
nó “vốn có” chứ không phải như chúng ta “muốn có”.
- Nhân vật mang “tính chất nghịch lý” thực sự là những sáng tạo quan trọng ghi dấu những
thành công độc đáo góp phần làm nên sự đa dạng và chiều sâu nhân văn trong cái nhìn về

con người của văn học hiện đại, góp phần đẩy mạnh sự phát triển vượt bậc của văn học.
- Nhận định đã nêu bật được ý nghĩa của những khám phá về chiều sâu tâm hồn và tính
cách nhân vật như một minh chứng cho tấm lòng và tài năng của mỗi nhà văn trên hành
trình xây dựng một nền văn học hướng về con người, từ đó, đặt ra những yêu cầu mới
trong sáng tạo nghệ thuật, nhất là đối với văn xuôi trên hành trình chiếm lĩnh hiện thực và
bồi đắp tâm hồn con người.
ĐỀ 7: Về sự khác nhau giữa hình tượng con người trong văn học trước 1975 và hình
tượng con người trong văn học sau 1975, có ý kiến cho rằng:
“Con người sử thi trước năm 1975 thường đồng nhất với lịch sử, luôn là con người làm
chủ hoàn cảnh, chiến thắng hoàn cảnh, số phận cá nhân trùng khít với vận mệnh cộng
đồng. Còn bây giờ, khi con người được nhìn nhận như một cá thể, một số phận thì văn học
đã phát hiện không ít sự vênh lệch giữa số phận cá nhân và vận mệnh cộng đồng, giữa con
người và lịch sử”. (Nguyễn Văn Long- Một số vấn đề văn học Việt Nam sau 1975)
Anh,chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến trên và hãy làm sáng tỏ quan điểm
của mình qua một số hình tượng văn học tiêu biểu.
1. Chọn dẫn chứng:
- Xác định vấn đề nghị luận: Con người sử thi trước năm 1975 thường đồng nhất với lịch
sử, luôn là con người làm chủ hoàn cảnh, chiến thắng hoàn cảnh, số phận cá nhân trùng
khít với vận mệnh cộng đồng. Còn bây giờ, khi con người được nhìn nhận như một cá thể,
một số phận thì văn học đã phát hiện không ít sự vênh lệch giữa số phận cá nhân và vận
mệnh cộng đồng, giữa con người và lịch sử.


- Xác định vấn đề lý luận có liên quan: Quan niệm nghệ thuật về con người và sự thay đổi
trong quan niệm nghệ thuật về con người khi văn học bước sang thời kì phát triển mới.
- Xác định phạm vi tư liệu: Những nhân vật tiêu biểu cho quan niệm nghệ thuật về con
người của hai thời kì văn học Việt Nam: “Con người sử thi” trước năm 1975 và “con người
thế sự” sau năm 1975.
- Chọn dẫn chứng:
+ Dẫn chứng nền:

. Trước 1975: Việt và Chiến (“Những đứa con trong gia đình” – Nguyễn Thi), chị Út
Tịch (“Người mẹ cầm súng” – Nguyễn Thi), chị Sứ (“Hòn đất” – Anh Đức), Thêm và Mẫn
(“Mẫn và tôi” – Phan Tứ), Nguyệt (“Mảnh trăng cuối rừng” – Nguyễn Minh Châu)...
. Sau 1975: Kiên (“Nỗi buồn chiến tranh” – Bảo Ninh), tướng Thuấn (“Tướng về hưu” –
Nguyễn Huy Thiệp), những nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư...
+ Dẫn chứng trọng tâm:
. Trước 1975: nhân vật Tnú (“Rừng xà nu” – Nguyễn Trung Thành)
. Sau 1975: nhân vật người đàn bà hàng chài (“Chiếc thuyền ngoài xa” – Nguyễn Minh
Châu)
2. Phân tích dẫn chứng:
a. Phần giải thích, bàn luận: (là cơ sở, định hướng cho phần phân tích tác phẩm)
Hình tượng con người trong văn học là sự biểu hiện của một quan niệm nghệ thuật về con
người. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học là sản phẩm tinh thần của một
giai đoạn, một thời đại, chịu sự chi phối của hệ tư tưởng, hệ giá trị, sự vận hành lịch sử của
giai đoạn, thời đại đó.
Hình tượng con người trong VH trước 1975 và hình tượng con người trong VH sau 1975 là
sản phẩm tinh thần của hai giai đoạn lịch sử khác nhau, gắn với hai quan niệm nghệ thuật
khác nhau về con người nên có sự khác nhau là tất yếu.
- Trước 1975,VH tập trung phản ánh cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhân vật trung
tâm của VH là những con người đại diện và kết tinh sức mạnh, phẩm chất, ý chí, khát vọng
dân tộc, nhân dân. Họ luôn là con người làm chủ hoàn cảnh, chiến thắng hoàn cảnh, số
phận cá nhân trùng khít với vận mệnh cộng đồng. Họ mang tầm vóc và vẻ đẹp của con
người sử thi.
- Sau 1975, đất nước độc lập, thống nhất. Người dân Việt Nam trở về với cuộc sống đời
thường nhọc nhằn, ngổn ngang. Bức tranh hiện thực với muôn mặt đời thường chính là đối
tương hướng tới của văn học thời bình. Hình tượng trung tâm của văn học giờ đây không
còn là những con người sử thi mang vẻ đẹp lí tưởng, kết tinh vẻ đẹp cộng đồng mà là
những con người cá nhân, con người của đời tư, đời thường.
b. Phân tích-dẫn chứng :
* Nhân vật Tnú trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành hiện lên như

một huyền thoại về nhân vật anh hùng thời chống Mĩ, tiêu biểu cho hình tượng “con người
sử thi trước năm 1975 thường đồng nhất với lịch sử, luôn là con người làm chủ hoàn cảnh,
chiến thắng hoàn cảnh, số phận cá nhân trùng khít với vận mệnh cộng đồng”.
- Cuộc đời, phẩm chất, con đường đến với cách mạng của Tnú tiêu biểu cho cuộc sống,
phẩm chất, con đường nổi dậy đấu tranh của dân làng Xôman, của nhân dân Tây Nguyên
thời kỳ chống Mỹ.


+ Chịu nhiều đau thương mất mát
+ Vượt lên hoàn cảnh, chiến thắng hoàn cảnh bằng sức mạnh, phẩm chất, khát vọng cao
đẹp.
. Khao khát tự do, yêu Đảng, yêu cách mạng, trung thành với Đảng
. Dũng cảm, gan góc và mưu trí
. Càng đau thương mất mát càng bất khuất kiên cường
→ Hình ảnh Tnú tiêu biểu cho vẻ đẹp bất khuất, kiên cường, sức mạnh vùng lên của người
dân Tây Nguyên, của người dân miền Nam, rộng hơn là của người dân Việt Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mĩ anh hùng.
- Câu chuyện về cuộc đời Tnú được kể bằng lời kể của già làng, tạo không khí kể khan của
đồng bào các dân tộc Tây Nguyên → Tnú mang dáng dấp của những người anh hùng trong
các trường ca cổ. Đó là nét đẹp riêng độc đáo của hình tượng người anh hùng, góp phần
làm tăng thêm màu sắc sử thi cho tác phẩm.
* “Sau 1975, khi con người được nhìn nhận như một cá thể, một số phận thì văn học đã
phát hiện không ít sự vênh lệch giữa số phận cá nhân và vận mệnh cộng đồng, giữa con
người và lịch sử”và nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền
ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là một minh chứng tiêu biểu.
- Người đàn bà hàng chài, đó là “một cá thể, một số phận” bất hạnh: Không tên, kém nhan
sắc, cuộc sống mưu sinh cơ cực, khốn cùng, nạn nhân của bạo lực gia đình
- Người đàn bà hàng chài là con người của đời thường, đời tư với bao lo toan về áo cơm,
về con cái, về tương lai; với vẻ đẹp bình dị, có khi khuất lấp, không dễ gì đã nhận ra; với
niềm vui nhỏ bé đời thường, đó là nhìn các con được ăn no; và điều họ cần trong cuộc sống

hôm nay là người đàn ông bên cạnh để tựa vào khi phong ba bão táp.
- Cũng qua hình tượng người đàn bà hàng chài, nhà văn đã phát hiện không ít sự vênh lệch
giữa số phận cá nhân và vận mệnh cộng đồng, giữa con người và lịch sử.
+ Chiến tranh đã đi qua, con người đang sống trong thời bình. Nhưng người đàn bà hàng
chài ấy, và nhiều số phận khác nữa, vẫn đang sống một cuộc đời khổ đau, tăm tối.
+ Người đàn bà ấy, dù hàm ơn cách mạng, dù khổ đau tăm tối, nhưng kiên quyết từ chối
con đường sáng mà vị chánh án huyện đã vạch sẵn với lí do riêng - cái lí do vừa vô lí lại
vừa đầy thuyết phục.
→ Chiến tranh đi qua nhưng điều đó không có nghĩa rằng cuộc sống con người đã bình
yên, ấm no, hạnh phúc. Cách mạng là ưu việt. Nhưng chủ trương chính sách mới của cách
mạng không phải lúc nào cũng có thể đi ngay vào đời sống, lập tức biến bức tranh đời sống
người lao động từ mù tối thành tươi sáng.
→ Không còn biểu hiện của sự trùng khít giữa số phận cá nhân với số phận cộng đồng,
không còn hình ảnh của con người luôn làm chủ hoàn cảnh, chiến thắng hoàn cảnh như
trong VH 45-75. Ở đây chỉ thấy có sự vênh lệch giữa số phận cá nhân và vận mệnh cộng
đồng, giữa con người và lịch sử, con người bị hoàn cảnh đẩy xô và rơi vào những nghịch
cảnh khó lường. Đất nước không còn tiếng súng nhưng con người vẫn chìm trong đói
nghèo và lạc hậu .
c. Đánh giá về tác phẩm sau khi phân tích và về vấn đề nghị luận
- Nhân vật Tnú và những nhân vật sử thi trong văn học trước 1975 đã hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của văn học giai đoạn này khi khắc họa vẻ đẹp của dân tộc trong một thời kì lịch sử.


- Lịch sử sang trang, văn học phải thay đổi. Với hình tượng người đàn bà hàng chài, nhà
văn đi tiên phong trong phong trào đổi mới văn học đã lặng lẽ mà nghiêm khắc nói với ta
rằng: hãy quan tâm đến những con người bình thường, những số phận bất hạnh đang sống
quanh ta. Văn học của thời bình, muốn thực sự có được chỗ đứng trong lòng độc giả hãy
quan tâm đến những điều ngỡ nhỏ nhặt mà đầy nhân bản ấy.
- Với phát hiện về “sự vênh lệch giữa số phận cá nhân và vận mệnh cộng đồng, giữa con
người và lịch sử”, Nguyễn Minh Châu và những nhà văn sau 1975 đã cảnh tỉnh chúng tadù là độc giả hay người cầm bút thì cũng không được nhìn người và nhìn đời một cách dễ

dãi và đơn giản. Cuộc sống luôn phức tạp hơn những gì ta vẫn nghĩ và quen nghĩ.
- Sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người ấy đã đánh dấu bước phát triển mới
trong cách nhìn, cách thể hiện về con người của văn học Việt Nam từ sau 1975, là biểu
hiện sinh động nhất cho việc đổi mới nền văn học dân tộc.
ĐỀ 8: Có ý kiến cho rằng: “Văn bản ngôn từ nghệ thuật (tác phẩm văn học) là một hệ
thống các lời văn, lời thơ được nhà văn tổ chức một cách khéo léo, tinh vi, đôi khi rất đặc
biệt (không theo ngữ pháp thông thường) nhằm tạo nên những cách nói hay hơn và có hiệu
quả tác động mạnh hơn”.
Qua việc phân tích một tác phẩm văn học, anh/chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
1. Chọn dẫn chứng:
- Xác định vấn đề nghị luận: “Văn bản ngôn từ nghệ thuật (tác phẩm văn học) là một hệ
thống các lời văn, lời thơ được nhà văn tổ chức một cách khéo léo, tinh vi, đôi khi rất đặc
biệt (không theo ngữ pháp thông thường) nhằm tạo nên những cách nói hay hơn và có hiệu
quả tác động mạnh hơn”.
- Xác định vấn đề lý luận có liên quan: Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật trong tác
phẩm văn học.
- Xác định phạm vi tư liệu: Những tác phẩm văn học có nghệ thuật ngôn từ độc đáo, đặc
biệt là những tác phẩm thơ ca.
- Chọn dẫn chứng:
+ Dẫn chứng nền: “Vội vàng”, “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu, “Tương tư” của Nguyễn
Bính, “Tống biệt hành” của Thâm Tâm, “Sóng” của Xuân Quỳnh, “Đàn ghi ta của Lorca”
của Thanh Thảo...
+ Dẫn chứng trọng tâm: “Tràng giang” của Huy Cận.
2. Phân tích dẫn chứng:
a. Phần giải thích, bàn luận: (là cơ sở, định hướng cho phần phân tích tác phẩm)
- Ý kiến trên muốn khẳng định đặc điểm và tác dụng của ngôn từ nghệ thuật trong các tác
phẩm văn học. Tác phẩm văn học là một chỉnh thể ngôn từ được sử dụng một cách nghệ
thuật, vừa đem đến giá trị thẫm mĩ cho tác phẩm, vừa tác động mạnh mẽ đến nhận thức,
tình cảm, cảm xúc của người đọc.
- Ý kiến trên là hoàn toàn xác đáng, sâu sắc và đúng đắn.

+ Văn học là nghệ thuật của ngôn từ và chức năng quan trọng nhất của văn học là chức
năng thẩm mỹ. Nếu ngôn từ trong tác phẩm không có khả năng gợi lên những rung cảm
thẩm mỹ ở người đọc thì khó có thể tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm.


+ Nhà văn cùng với việc là một nhà tư tưởng còn là một người nghệ sĩ ngôn từ. Mỗi nhà
văn đều có vốn từ vựng cũng như cách sử dụng ngôn từ đặc trưng riêng của mình. Khi việc
sử dụng ngôn từ một cách nghệ thuật được hình thành theo các cách thức, các con đường
đặc trưng của nhà văn thì đồng thời nhà văn đã hình thành được cho mình phong cách
riêng. Mà phong cách chính là vấn đề sống còn trong sáng tạo nghệ thuật.
+ Ngôn từ văn học có những đặc điểm rất riêng như tính hàm súc, đa nghĩa, tính hình
tượng, tính cá thể hóa…bởi vậy chỉ khi biết tổ chức sắp xếp ngôn từ một cách tinh vi, khéo
léo nhà văn mới có thể tạo nên ngôn từ nghệ thuật cho các tác phẩm của mình
b. Phân tích-dẫn chứng :
Phân tích bài thơ “Tràng giang” (Huy Cận) để chứng minh đặc điểm cũng như hiệu
quả của ngôn từ nghệ thuật. Trong quá trình chứng minh cần tìm được các từ ngữ và các tổ
chức ngôn từ có tính nghệ thuật, kết hợp với phân tích, cảm nhận thấu đáo. Cần chỉ ra được
các đặc điểm: được tổ chức khéo léo; tinh vi; đôi khi rất đặc biệt không theo ngữ pháp
thông thường từ đó đánh giá hiệu quả của cách sử dụng ngôn từ của nhà thơ.
(Lưu ý: Việc tìm được được các từ ngữ và các tổ chức ngôn từ có tính nghệ thuật rất quan
trọng)
* Khổ 1
- Từ láy "điệp điệp", "song song" kết hợp với nhịp điệu song hành đối xứng , đầy sức gợi
hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước cứ
cuốn đi xa, miên man.
- “Sóng gợn...điệp điệp”: mang đậm sắc thái Đường thi, gợi hình ảnh sông nước mênh
mông bát ngát, gợi lên một nỗi buồn da diết vô tận.
- Trên dòng sông gợn sóng "điệp điệp", nước "song song" ấy là một "con thuyền xuôi mái",
lững lờ trôi, gợi cảm giác buồn, cô đơn, xa vắng, chia lìa.
- “Thuyền về...trăm ngả”: là hình ảnh thơ gợi cảm giác chia lìa, nỗi sầu lan tỏa khắp trời

đất
→ Ba câu đầu mang đậm màu sắc cổ điển, vẽ lên hình ảnh con thuyền nhỏ nhoi, lênh đênh,
trôi dạt trên dòng sông rộng lớn, mênh mông gợi cảm giác buồn, cô đơn, xa vắng, chia lìa.
- Củi một cành khô>< lạc trên mấy dòng: mang nét hiện đại với hình ảnh rất đời thường,
cành củi khô trôi nổi gợi sự chìm nổi, cảm nhận về thân phận con người nhỏ bé, lênh đênh,
bơ vơ giữa dòng đời.
 khổ thơ với những từ ngữ rất gợi hình, gợi cảm và giàu nhịp điệu đã diễn tả rất tinh
tế nỗi buồn mênh mang, sâu lắng của nhà thơ trước thiên nhiên trời rộng sông dài.
* Khổ 2: Cảnh vật càng chìm sâu vào tĩnh lặng, cô đơn, hiu quạnh
- “Lơ thơ...đìu hiu”: buồn bã, quạnh vắng, cô đơn
- “Đâu tiếng làng xa...”: âm thanh như có như không → đặc tả sự vắng lặng cô tịch với
hình ảnh một con người đang cố gắng kiếm tìm một thanh âm mơ hồ xa vắng của sự sống
quạnh hiu.
- “Nắng xuống..chót vót”: “Sâu chót vót” là một sự lựa chọn ngôn ngữ rất đắc (chứ không
phải là “cao chót vót”)
+ không gian thăm thẳm, hun hút khôn cùng
+ cảm giác chơi vơi, rợn ngợp, bế tắc tột cùng
- “bến cô liêu”: lẻ loi, xa vắng


→ Không gian nới rộng về mọi phía, con người trở nên vô cùng nhỏ bé, cô đơn rợn
ngợp trước vũ trụ rộng lớn, vĩnh hằng. Với cách gieo vần tài tình, âm hưởng trầm bổng
với những tín hiệu ngôn ngữ có giá trị nghệ thuật, khổ thơ đã cho ta cảm nhận được
một cái tôi trữ tình đang cố kiếm tìm sự giao cảm với vũ trụ cao rộng nhưng tất cả đều
đóng kín.
* Khổ 3:
- “Bèo dạt...nối hàng”: gợi hình ảnh về sự trôi nổi, lạc lõng, chia lìa tan tác
- Câu hỏi: “về đâu” gợi cái bơ vơ, lạc loài của kiếp người vô định.
- “không một chuyến đò ngang....không cầu”: điệp từ “không” nhấn mạnh sự xa vắng,
hoang vu, không có hơi ấm của tình đời, tình người.

→ Âm hưởng da diết của câu thơ mang một dấu hỏi mơ hồ và điệp từ “không” với sắc
thái phủ định đã cho ta cảm nhận được một niềm tha thiết với thiên nhiên tạo vật, một
bức tranh thiên nhiên thấm đượm tình người, mang nặng nỗi buồn bâng khuâng, nỗi
bơ vơ của kiếp người. Bài thơ không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước trời rộng sông
dài, mà còn là nỗi buồn trước nhân thế, nỗi buồn trước cuộc đời.
* Khổ 4
- 2 câu đầu là bức tranh phong cảnh kì vĩ, nên thơ. Cảnh được gợi lên bởi bút pháp cổ điển
với hình ảnh mây trắng cánh chim chiều, đồng thời mang dấu ấn tâm trạng của tác giả.
- 2 câu sau trực tiếp bộc lộ tấm lòng thương nhớ quê hương tha thiết của Huy Cận (chú ý
đến hiệu quả nghệ thuật của từ láy độc đáo “dợn dợn”là một sáng tạo của Huy cận)
→ Đằng sau nỗi buồn, nỗi sầu trước không gian và vũ trụ là tâm sự yêu nước thầm kín của
một trí thức bơ vơ, bế tắc trước cuộc đời.
c. Đánh giá về tác phẩm sau khi phân tích và về vấn đề nghị luận
- Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận thực sự là một chỉnh thể ngôn từ nghệ thuật độc đáo.
Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên, nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, niềm
khát khao hòa nhập với cuộc đời và lòng yêu quê hương đất nước tha thiết của nhà thơ
được thể hiện bằng một nghệ thuật sử dụng ngôn từ độc đáo mang đậm dấu ấn của hồn thơ
Huy Cận (Bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình, hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm...)
- Ý kiến trên đã nhấn mạnh được một đặc trưng cơ bản của tác phẩm văn học: một tác
phẩm văn học có giá trị phải là một chỉnh thể nghệ thuật ngôn từ. Bởi xét đến cùng, sức
hấp dẫn của nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng chính là ở chỗ “lạ hóa” những gì
vốn quen thuộc. Bởi vậy nếu nhà văn không biết tổ chức ngôn từ một cách đặc biệt để tạo
ra sự “lạ hóa” trong cách diễn đạt thì sẽ không cuốn hút được độc giả.
ĐỀ 9
Đến Thơ mới, trong thơ ca Việt Nam mới có từng cái tôi trữ tình cá thể. Mỗi thi sĩ Thơ
mới tiêu biểu là một gương mặt, một điệu tâm hồn không thể lẫn.
(Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại, tập I, NXB Đại học Sư phạm; tr.145)
Anh (chị) hiểu nhận định trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ nhận định qua việc phân
tích sự thể hiện cái tôi trữ tình cá thể trong một bài thơ trong phong trào Thơ mới.
1. Chọn dẫn chứng:

- Xác định vấn đề nghị luận: “Đến Thơ mới, trong thơ ca Việt Nam mới có từng cái tôi trữ
tình cá thể. Mỗi thi sĩ Thơ mới tiêu biểu là một gương mặt, một điệu tâm hồn không thể


lẫn”: Thơ mới là phong trào thơ ca của những cái tôi trữ tình cá thể. Mỗi thi sĩ Thơ mới
đều là một cái tôi trữ tình riêng, độc đáo.
- Xác định vấn đề lý luận có liên quan: Cái tôi trữ tình và đặc trưng của Thơ mới ở
phương diện cái tôi trữ tình.
- Xác định phạm vi tư liệu: Những bài thơ trong phong trào Thơ mới thể hiện rõ nét cái tôi
trữ tình riêng, độc đáo của tác giả.
- Chọn dẫn chứng:
+ Dẫn chứng nền: “Vội vàng” hoặc “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu, “Tương tư” của
Nguyễn Bính, “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử...
+ Dẫn chứng trọng tâm: “Tràng giang” của Huy Cận.
2. Phân tích dẫn chứng:
a. Phần giải thích, bàn luận: (là cơ sở, định hướng cho phần phân tích tác phẩm)
- Thơ mới: thuật ngữ ban đầu được dùng để phân biệt với Thơ cũ - thứ thơ cách luật gò bó,
chặt chẽ về niêm luật. Sau đó, nó được dùng để chỉ một phong trào thơ ca lãng mạn Việt
Nam (1932 - 1945).
- Cái tôi trữ tình: là sự thể hiện cách nhận thức và cảm xúc đối với thế giới và con người
thông qua việc tổ chức các phương tiện của thơ trữ tình, tạo ra một thế giới tinh thần độc
đáo, mang tính thẩm mĩ.
→ Thơ mới là một cuộc cách mạng trong lịch sử thi ca Việt Nam với đóng góp nổi bật là
sự xuất hiện của từng cái tôi trữ tình cá thể. Mỗi thi sĩ tiêu biểu là một gương mặt, một điệu
tâm hồn riêng cùng góp phần làm nên phong cách một trào lưu văn học.
- Đây là một nhận định chính xác, mang tính khoa học. Đặt trong tiến trình vận động của
lịch sử thơ ca dân tộc, chúng ta nhận thấy rõ điều đó:
+ Văn học thời trung đại gắn với chữ ta, là nền văn học phi ngã. Cái tôi bị hòa tan
trong cái ta "như giọt nước trong biển cả" (Hoài Thanh).
+Thơ mới là thời của chữ tôi với ý thức cá nhân mạnh mẽ. Lần đầu tiên trong văn

học, Thơ mới khẳng định cái tôi như một bản lĩnh tích cực trong cuộc sống, một chủ thể
sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật với việc cá thể hóa trong cách cảm thụ thế giới và cách
biểu hiện. Khi đó, thi đàn Thơ mới ghi nhận những gương mặt tiêu biểu mang điệu tâm
hồn không thể lẫn: Thế Lữ rộng mở, Lưu Trọng Lư mơ màng, Huy Thông hùng tráng, Huy
Cận ảo não, Nguyễn Bính quê mùa, Xuân Diệu thiết tha, rạo rực, băn khoăn...
b. Phân tích-dẫn chứng: Sự thể hiện cái tôi Huy Cận trong bài thơ Tràng giang
*Khái quát đặc điểm hồn thơ Huy Cận :
Hồn thơ Huy Cận là sự hòa hợp giữa nỗi sầu vũ trụ và nỗi sầu thế nhân với nỗi cô đơn của
cái “tôi” cá nhân, cá thể trong thơ Mới tạo nên nỗi sầu vạn kỉ.
*Cái tôi Huy Cận qua bài thơ Tràng giang:
Cái tôi Huy Cận trong Tràng Giang là cái tôi thơ Mới, cái tôi cô đơn, cái tôi khao khát
giao cảm với đời và một cái tôi nặng lòng với thiên nhiên, đất nước, Tràng Giang là một
bài thơ về tâm hồn mang đầy những nỗi buồn kéo dài triền miên không lối thoát. Nỗi buồn
thể hiện từ nhan đề, lời đề từ đến mỗi câu chữ trong bài thơ. Mỗi khổ thơ là một nỗi buồn,
một cung bậc sắc thái khác nhau của nỗi buồn Huy Cận.


Nhan đề : Tràng giang → Gợi hình ảnh con sông dài , rộng ; điệp vần “ang” gợi âm hưởng
vang xa , trầm buồn → Âm hưởng chung cho giọng điệu bài thơ.
Câu thơ đề từ: Chứa đựng cảm xúc chủ đạo của bài thơ: nỗi buồn lan tỏa, nhẹ nhàng mà
lắng sâu trước cảnh sông dài trời rộng
Khổ 1
- “Sóng gợn...điệp điệp”: sông nước mênh mông bát ngát gợi lên một nỗi buồn da diết vô
tận.
- “con thuyền”: cô độc, nhỏ nhoi
- “Thuyền về...trăm ngả”: cảm giác chia lìa, nỗi sầu lan tỏa khắp trời đất
→ Ba câu đầu mang đậm màu sắc cổ điển, vẽ lên hình ảnh con thuyền nhỏ nhoi, lênh đênh,
trôi dạt trên dòng sông rộng lớn, mênh mông gợi cảm giác buồn, cô đơn, xa vắng, chia lìa.
- “Củi một cành...mấy dòng”: nhỏ nhoi, vô nghĩa với số kiếp lênh đênh, lạc loài vô định
→ Câu 4 mang nét hiện đại với hình ảnh rất đời thường: cánh củi khô trôi nổi gợi lên cảm

nhận về thân phận của những kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa dòng đời.
Khổ 2: Cảnh vật càng chìm sâu vào tĩnh lặng, cô đơn, hiu quạnh
- “Lơ thơ...đìu hiu”: buồn bã, quạnh vắng, cô đơn
- “Đâu tiếng làng xa...”: âm thanh như có như không → đặc tả sự vắng lặng cô tịch.
- “Nắng xuống..chót vót”:
+ không gian thăm thẳm, hun hút khôn cùng
+ cảm giác rợn ngợp, bế tắc tột cùng
- “bến cô liêu”: lẻ loi, xa vắng
→ Không gian nới rộng về mọi phía, con người trở nên vô cùng nhỏ bé, cô đơn rợn ngợp
trước vũ trụ rộng lớn, vĩnh hằng.
Khổ 3:
- “Bèo dạt...nối hàng”: trôi nổi, lạc lõng, chia lìa tan tác
- “không một chuyến đò ngang....không cầu”: chỉ có thiên nhiên xa vắng, hoang vu, không
có hơi ấm của tình đời, tình người.
→ Bài thơ không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước trời rộng sông dài, mà còn là nỗi buồn
trước nhân thế, nỗi buồn trước cuộc đời.
Khổ 4
- Hai câu đầu là bức tranh phong cảnh kì vĩ, nên thơ. Cảnh được gợi lên bởi bút pháp cổ
điển với hình ảnh mây trắng cánh chim chiều, đồng thời mang dấu ấn tâm trạng của tác giả.
- Hai câu sau trực tiếp bộc lộ tấm lòng thương nhớ quê hương tha thiết của Huy Cận (so
sánh với 2 câu thơ của Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc lâu).
c. Đánh giá về tác phẩm sau khi phân tích và về vấn đề nghị luận
- Bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa sắc thái cổ điển và hiện đại (Sự xuất hiện của những
cái tưởng như tầm thường, vô nghĩa và cảm xúc buồn mang dấu ấn cái tôi cá nhân). Bài thơ
đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đẹp, đồng thời bộc lộ nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước
vũ trụ rộng lớn, niềm khát khao hòa nhập với cuộc đời và lòng yêu quê hương đất nước tha
thiết của thi nhân.
- Sự xuất hiện của cái tôi với ý thức cá nhân mạnh mẽ mang tính cách mạng đã đem lại
thành tựu rực rỡ cho phong trào Thơ mới. Tuy nhiên, cái tôi Thơ mới cũng có những hạn
chế, nó mang bi kịch về nỗi cô đơn, sự bế tắc. Cái tôi Huy Cận cũng vậy, đã góp phần làm



nên diện mạo độc đáo của thơ Mới, đồng thời là tiếng lòng của một lớp thanh niên giàu sức
sống nhưng lại không tìm thấy được lý tưởng sống. Đó là nỗi buồn, nỗi đau của một thời
đại, thời đại thơ Mới.
ĐỀ 10 : "Thơ ca là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm”
Qua việc phân tích một số tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, anh/chị hãy làm sáng
tỏ ý kiến trên.
1. Chọn dẫn chứng:
- Xác định vấn đề nghị luận: “Thơ ca là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những
tâm hồn cao cả, đa cảm ” : Thơ ca là những giai điệu cảm xúc của
những tâm hồn cao đẹp.
- Xác định vấn đề lý luận có liên quan: Đặc trưng cơ bản của thơ ca.
- Xác định phạm vi tư liệu: Những bài thơ hay trong thời kì văn học trung đại, chứa đựng
những cảm xúc thẫm mĩ có giá trị nhân văn sâu sắc, thể hiện tâm hồn cao đẹp của thi nhân.
- Chọn dẫn chứng:
+ Dẫn chứng nền: "Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi, “Độc Tiểu Thanh kí”
của Nguyễn Du, “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm, “Thương vợ” của Trần
Tế Xương...
+ Dẫn chứng trọng tâm: “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương, “Thu điếu” của Nguyễn
Khuyến
2. Phân tích dẫn chứng:
a. Phần giải thích, bàn luận: (là cơ sở, định hướng cho phần phân tích tác phẩm)
- Nhận định đã đề cập đến đặc trưng quan trọng của thơ ca:
+ Thơ ca là âm nhạc của tâm hồn: Thơ được hình thành nhờ mối rung cảm thầm kín mà
mãnh liệt của tâm hồn con người trước cuộc sống. Những cung bậc cảm xúc ấy ngân lên
trên trang thơ thành những giai điệu phong phú, cuốn hút mang theo sức sống tâm hồn của
mỗi nhà thơ.
+ Những tâm hồn cao cả, đa cảm luôn nhạy cảm của trước mọi vẻ đẹp của đời sống, luôn
trĩu nặng suy tư trước nỗi đau và khát vọng của con người, trước vận mệnh dân tộc sẽ

mang đến cho thơ không chỉ xúc cảm tha thiết mà còn cả một chiều sâu tư tưởng thấm thía
thanh lọc con người.
b. Phân tích-dẫn chứng:
* “Tự tình II” – Hồ Xuân Hương
- Qua lời tự tình trong một đêm sâu, bài thơ đã diễn tả những tiếng lòng thổn thức đầy
giằng xé, chứa đựng nỗi cô đơn thầm kín, nỗi xót xa duyện phận bẽ bàng, niềm khắc khoải
ngóng trông hạnh phúc của người phụ nữ trong thân phận nhỏ bé giữa cõi đời đầy chông
gai, trắc trở.
- Ý thơ còn bộc lộ sự vươn lên của một khát vọng sống mãnh liệt hướng về những niềm
hạnh phúc trần thế của một bản lĩnh cứng cỏi, một tâm hồn nhạy cảm trước cuộc đời, bất
chấp mọi trái ngang.


- Trong khuôn khổ của thể thơ Đường luật, những sáng tạo độc đáo về hình ảnh thơ cùng
với lối sử dụng ngôn từ mới mẻ mang màu sắc dân gian đã thể hiện sâu sắc tâm trạng phức
tạp của nhân vật trữ tình.
→ Sự nhạy cảm của hồn thơ gắn với cảm hứng thế sự đề cao khát vọng hạnh phúc đầy
nhân văn của con người, nhất là người phụ nữ.
* “Thu điếu” – Nguyễn Khuyến
- “Thu điếu” nhưng hầu như không đề cập gì đến chuyện câu cá mà thể hiện niềm thơ giao
hòa tinh tế với không gian, cảnh sắc mùa thu nơi làng cảnh thôn quê bình dị. Cả một không
gian thu thanh nhẹ, tĩnh mịch, man mác buồn mang phung vị dân tộc đậm đà được cảm
nhận bởi một hồn thơ vô cùng nhạy cảm và thiết tha trìu mến với thiên nhiên tạo vật quê
hương.
- Ẩn chìm trong bức tranh thu đầy thi vị là một “tấc lòng son” cao cả, trĩu nặng nỗi trăn trở,
u hoài về trách nhiệm của kẻ sĩ trước vận nước trong buổi nhiễu nhương.
- Nghệ thuật thơ Nôm Đường luật điêu luyện trong bút pháp, cấu tứ cùng với hệ thống thi
ảnh bình dị mà sinh động, có thần thái riêng đã làm nên chất họa, chất thơ đặc sắc với khả
năng khơi gợi nhiều sắc thái cảm xúc.
→ Tình thơ chan chứa của thi nhân hướng đến cảm hứng trữ tình công dân, bộc lộ một tình

yêu quê hương đất nước thầm kín mà sâu sắc.
c. Đánh giá về tác phẩm sau khi phân tích và về vấn đề nghị luận
- Với những sáng tạo đặc sắc trong mỗi thi phẩm, Hồ Xuân Hương và Nguyễn Khuyến đã
khẳng định khả năng rung động sâu sắc của những giai điệu cảm xúc thơ nồng nàn thoát ra
từ những tâm hồn nhạy cảm và cao cả, đồng thời cũng ghi lại những dấu ấn khó phai trong
nền thơ ca trung đại Việt Nam.
- Nhận định trên có ý nghĩa xác đáng, đánh giá được vai trò then chốt của yếu tố cảm xúc
trong thơ và nhất là một tấm lòng sâu nặng với cuộc đời.
IV. MỘT SỐ BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC CỦA HỌC SINH
BÀI VIẾT SỐ 1
Đề: “Suy tư trữ tình có thể thâm nhập vào những chân lí phổ biến nhất của tồn tại con
người: sự sống, cái chết, tình yêu, lòng thủy chung, lí tưởng, ước mơ, tương lai, hạnh
phúc” (Lí luận văn học).
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng việc phân tích một tác phẩm đã học,
anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận định đó.
Bài làm
(Trịnh thị Hồng Linh – Lớp 12 chuyên Văn K9)
Thơ là tiếng nói tâm hồn, là những rung động nhạy cảm, tinh tế với thế giới xung
quanh, với thiên nhiên và với con người. Thơ, bởi vậy mà chở theo những trăn trở, băn
khoăn, suy ngẫm, những “suy tư trữ tình” của trái tim người nghệ sĩ. “Suy tư trữ tình có
thể thâm nhập vào những chân lí phổ biến nhất của tồn tại con người: sự sống, cái chết,
tình yêu, lòng thủy chung, lí tưởng, ước mơ, tương lai, hạnh phúc” (Lí luận văn học). “Suy
tư trữ tình” cho ta cảm nhận và thấu hiểu hơn những tình cảm chất chứa đằng sau một tác
phẩm thơ; cho ta yêu hơn những tâm hồn nồng nhiệt chân thành với đời; và cũng cho ta


biết rằng thơ không hề xa lạ, thơ là thứ âm thanh vang vọng hô ứng của những tình cảm
vẫn ẩn giấu từ tâm hồn ta với tâm hồn nhà thơ. Đọc bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh, ta
cũng suy tư, và rồi đây những “suy tư trữ tình” của nhân vật trữ tình có đủ sức làm một
cuộc hành trình trở về bến đỗ bình yên trong tâm hồn người đọc?

Giá trị của một tác phẩm thơ trữ tình thường được đánh giá bằng những tư tưởng,
tình cảm, hay nói một cách khác là “suy tư trữ tình” mà nhà thơ gởi gắm trong đó. Hoạt
động tư duy, suy ngẫm của con người, với nhu cầu được giải đáp những thắc mắc, được
giãi bày, bộc lộ tình cảm, cảm xúc… chính là “suy tư trữ tình”. Nếu tác phẩm tự sự “suy
tư” bằng hình tượng, thì tác phẩm trữ tình “suy tư” bằng cảm xúc, bằng nỗi niềm. Và, vì
nói bằng cảm xúc nên thơ trữ tình có thể đến được, kết nối được với cảm xúc của bạn đọc.
Thơ trữ tình không chỉ thuyết phục lí trí của con người ta bằng hiện thực khách quan (thế
giới chủ thể) mà nó phản ánh, mà chủ yếu, còn có khả năng lay động được tình cảm, tâm
hồn con người bằng những rung động, bằng tiếng lòng đáp lại cuộc đời của nhà thơ. Nó nói
được những vấn đề chung, những vấn đề khái quát, vực dậy những tình cảm, tâm tư dường
như tiềm ẩn trong thẳm sâu trái tim mỗi người. Thơ trữ tình đánh thức sự đồng cảm, thấu
hiểu, tri âm của độc giả bởi nội dung nó đề cập, phản ánh chính là những chân lí tình cảm
phổ biến nhất mà trên những chặng đường đời từng qua, mỗi người đã tự trải nghiệm, cảm
nghiệm và chấp nhận. Đó là sự sống, cái chết, tình yêu, lòng thủy chung, lí tưởng, ước mơ,
tương lai, hạnh phúc… Thưởng thức thơ trữ tình là ta đang dần dần khám phá chính tâm
hồn còn nhiều bí ẩn phức tạp của ta, mà ta chưa hiểu hết được. Giống như những gì
Nguyễn Bính – một nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới – đã đem lại cho chúng ta,
“thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta” (Hoài Thanh).
“Người nhà quê” ấy mang trong mình tiếng gọi từ ruộng đồng, từ quá khứ, từ tổ tiên cội
nguồn rất mạnh mẽ mà có khi trong cuộc sống đời thường ta chưa kịp nhận ra. Thơ
Nguyễn Bính đưa ta về với đồng quê, đối mặt với cái hồn quê chân chất, về với “hồn xưa
đất nước”, với “cô gái quay tơ, cô lái đò, anh trai làng, cậu học trò mới lớn, những đôi trai
gái mới bước vào tuổi biết hương vị ái tình…” (Nguyễn Hoành Khung), về với cả những
mối tình quê trong sáng, nhẹ nhàng mà da diết, và còn về với “những tính tình đơn giản
của dân quê là những tính tình căn bản của ta” (Hoài Thanh). Thơ Nguyễn bính có sức hút
như vậy phải chăng cũng bởi những rung động thực sự của trái tim nghệ sĩ, bởi những “suy
tư trữ tình” mà nhà thơ thể hiện cũng chính là tiếng lòng chung cho biết bao thế hệ?
Một trong những mảng đề tài quen thuộc của thơ trữ tình chính là tình yêu – nguồn
cảm hứng muôn đời của thi ca nhân loại. Nhắc đến tình yêu, người ta thường nghĩ ngay
đến những bài thơ của Xuân Diệu, người được mệnh danh là ông hoàng của thơ tình yêu,

với những vần thơ say đắm, mãnh liệt. Và nhắc đến tình yêu, người ta cũng không thể nào
quên một nữ sĩ, cũng nồng nàn và say đắm không kém, Xuân Quỳnh, với một bài thơ da
diết có thể xem là “cẩm nang tình yêu” cho biết bao người con gái trẻ: “ Sóng”. Bằng một
câu chuyện lòng: câu chuyện nhớ thương của sóng về biển khơi và câu chuyện của em về
phương anh, Xuân Quỳnh đã làm thổn thức bao trái tim đã từng yêu, đang yêu và sẽ yêu,
để một lần nhìn lại hoặc hướng đến tình yêu của mình.
Lịch sử văn học Việt Nam đã ghi dấu rất nhiều bài thơ hay về tình yêu, đã có biết
bao tác phẩm đã sống và chết theo bao lớp người, làm sao từ một đề tài quá đỗi quen thuộc
như thế, bài thơ “Sóng” lại có một sức sống mạnh mẽ đến lạ kì?


×