Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

BÀI THẢO LUẬN THỨ TƯ BẢO VỀ QUYỀN SỞ HỮU BẢN ĐẦY ĐỦ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.71 KB, 14 trang )

PHẦN 1: ĐÒI BẤT ĐỘNG SẢN TỪ NGƯỜI THỨ BA
Câu 1: Trâu là động sản hay bất động sản? Vì sao?
- Trâu là động sản.
- Vì Theo Điều 174, BLDS 2005 và Điều 107, BLDS 2015 có quy định:
“1. Bất động sản bao gồm:
a) Đất đai;
b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai;
c) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng;
d) Tài sản khác theo quy định của pháp luật.
2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.”
Như vậy, dựa vào Khoản 1, của Điều 107, BLDS 2015 nêu trên thì trâu không thuộc
bất động sản. Do đó, theo Khoản 2 của Điều này thì trâu là động sản.
Câu 2: Trâu có là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu không? Vì sao?
- Trâu không là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu.
- Vì theo Khoản 2, Điều 106, BLDS 2015 có quy định:
“2. Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là động sản không phải đăng ký, trừ
trường hợp pháp luật về đăng ký tài sản có quy định khác.”
Như vậy, vì trâu là động sản nên quyền sở hữu đối với trâu không phải đăng ký.
Câu 3: Đoạn nào của Quyết định cho thấy trâu có tranh chấp thuộc quyền sở hữu của
ông Tài?
Đoạn trong Quyết định cho thấy trâu có tranh chấp thuộc quyền sở hữu của
ông Tài:
“Căn cứ vào lời khai của ông Triệu Tiến Tài (BL 06, 07, 08), lời khai của các nhân
chứng là anh Phúc (BL 19), anh Chu (BL 20), anh Bảo (BL 22) và kết quả giám định con
trâu đang tranh chấp (biên bản giám định ngày 16-8-2004, biên bản xác minh của cơ
quan chuyên môn về vật nuôi ngày 17-8-2004, biên bản diễn giải biên bản kết quả
giám định trâu ngày 20-8-2004), (BL 40, 41, 41a, 42) thì có đủ cơ sở xác định con trâu
cái màu đen 4 năm 9 tháng tuổi mới sấn mũi lần đầu và con nghé đực khoảng 3
tháng tuổi là thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Triệu Tiến Tài”.
Câu 4: Thế nào là chiếm hữu tài sản và ai đang chiếm hữu trâu có tranh chấp?
Theo Điều 179, BLDS 2015 về khái niệm chiếm hữu:


“1. Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản.
2. Chiếm hữu bao gồm chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu của người không
phải là chủ sở hữu.
Việc chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu không thể là căn cứ xác
lập quyền sở hữu, trừ trường hợp quy định tại các điều 228, 229, 230, 231, 232, 233
và 236 của Bộ luật này”.


- Trong vụ án trên, thì ông Dòn là người đang chiếm hữu trâu có tranh chấp.
Câu 5: Việc chiếm hữu của ông Dòn có căn cứ pháp luật không? Vì sao?
Việc chiếm hữu của ông Dòn là không có căn cứ pháp luật.
- Vì theo Điều 183, BLDS 2005:
“Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong các trường hợp sau
đây:
1. Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;
2. Người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản;
3. Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp
với quy định của pháp luật;
4. Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở
hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm phù hợp với các
điều kiện do pháp luật quy định;
5. Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp
với các điều kiện do pháp luật quy định;
6. Các trường hợp khác do pháp luật quy định”.
Như vậy, việc chiếm hữu của ông Dòn không rơi vào trường hợp nào của Điều cho
nên việc chiếm hữu của ông Dòn là không có căn cứ pháp luật.
Câu 6: Thế nào là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Theo Điều 180, BLDS 2015 quy định về chiếm hữu ngay tình:

“Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng
mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu”.
Câu 7: Ông Dòn có là người chiếm hữu ngay tình không? Vì sao?
Ông Dòn là người chiếm hữu ngay tình.
- Vì việc chiếm hữu của ông Dòn phù hợp với quy định của pháp luật, cụ thể là tại
Khoản 3, Điều 183, BLDS 2005 do đó ông Dòn có căn cứ để tin rằng mình có quyền
đối với tài sản đang chiếm hữu. Như vậy, ông Dòn là người chiếm hữu ngay tình (theo
Điều 180, BLDS 2015).
Câu 8: Thế nào là hợp đồng có đền bù và không có đền bù theo quy định của Điều
257 BLDS?
Theo Điều 257, BLDS 2005 quy định về Quyền đòi lại động sản không phải
đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình:
“Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người
chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản
này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài
sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền
đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm
hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu”.
Thì theo đó:


- Hợp đồng có đền bù: là hợp đồng mà trong đó mỗi bên sau khi thực hiện cho bên
kia một lợi ích sẽ nhận được từ bên bên kia một lợi ích tương ứng. Lợi ích tương ứng
ở đây không đồng nghĩa với lợi ích ngang bằng vì các lợi ích các bên dành cho nhau
không phải lúc nào cũng cùng một tính chất hay chủng loại. Trong trường hợp hợp
đồng là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản
đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.
Ví dụ: hợp đồng thuê biểu diễn ca nhạc - trong đó một bên sẽ nhận được một lợi ích
vật chất là tiền thù lao biểu diễn, catxê… và một bên sẽ đạt được lợi ích về mặt tinh
thần – đáp ứng nhu cầu giải trí, thưởng thức âm nhạc.

- Hợp đồng không có đền bù: là những hợp đồng trong đó một bên nhận được một
lợi ích nhưng không phải giao lại cho bên kia một lợi ích nào. Trong trường hợp là
hợp đồng không có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng
ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình có được tài sản thông qua giao dịch
với người không có quyền định đoạt tài sản.
Ví dụ: hợp đồng tặng cho tài sản.
Câu 9: Ông Dòn có được con trâu thông qua giao dịch có đền bù hay không có đền
bù? Vì sao?
Ông Dòn có được trâu thông qua giao dịch có đền bù.
- Vì con trâu mà ông Dòn có được là do giao dịch với ông Thi, cụ thể là ông Thi đổi
cho ông Dòn lấy con trâu cái sổi. Từ đó ta có thể thấy, đây là giao dịch mà trong đó
mỗi bên sau khi thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận được từ bên bên kia một
lợi ích tương ứng. Do vậy, đây là hợp đồng có đền bù.
Câu 10: Trâu có tranh chấp có phải bị lấy cắp, bị mất hay bị chiếm hữu ngoài ý chí của
ông Tài không?
Trâu có tranh chấp là bị chiếm hữu ngoài ý chí của ông Tài.
- Vì Toà án đã xác minh và khẳng định ông Thơ là người chiếm hữu, sử dụng tài sản
không có căn cứ pháp luật.
Câu 11: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, ông Tài được đòi trâu từ ông Dòn
không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, ông Tài không được đòi trâu từ ông
Dòn.
- Đoạn của Quyết định cho câu trả lời:
“Toà án phúc thẩm nhận định con trâu mẹ và con nghé con là của ông Tài là đúng
nhưng lại cho rằng con trâu cái đang do ông Nguyễn Văn Dòn quản lý nên ông Tài
phải khởi kiện đòi ông Dòn và quyết định chỉ buộc ông Thơ phải trả lại trị giá con
nghé là 900.000đ, bác yêu cầu của ông Tài đòi ông Thơ phải trả lại con trâu mẹ là
không đúng pháp luật”.
Câu 12: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.



Hướng giải quyết trên của Toà án dân sự Toà án nhân dân tối cao là hợp lý và
đúng theo quy định của pháp luật. Đảm bảo được quyền lợi của chủ sở hữu là ông Tài
và người chiếm hữu ngay tình là ông Dòn trong vụ tranh chấp trâu nêu trên.
Câu 13: Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì pháp luật hiện hành có quy
định nào bảo vệ ông Tài không?
Theo Điều 256, BLDS 2005 quy định về Quyền đòi lại tài sản:
“Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người
sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản
thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó,
trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 247 của Bộ luật này. Trong trường hợp tài
sản đang thuộc sự chiếm hữu của người chiếm hữu ngay tình thì áp dụng Điều 257 và
Điều 258 của Bộ luật này”.
Vì ông Dòn là người chiếm hữu ngay tình và trâu là động sản không đăng ký quyền
sở hữu nên sẽ áp dụng Điều 257, BLDS 2005 quy định về Quyền đòi lại động sản
không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình:
“Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người
chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản
này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài
sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền
đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm
hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu”.
Theo Quyết định của Toà án thì ông Tài là người chủ sở hữu, chiếm hữu hợp pháp
đối với con trâu. Còn ông Dòn là người chiếm hữu ngay tình con trâu đó. Vì giao dịch
của ông Dòn với ông Thi để có được trâu là giao dịch có đền bù, cho nên theo Điều
257 nêu trên thì chủ sở hữu là ông Tài có quyền đòi lại động sản (con trâu) đó.
Câu 14: Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì Tòa án đã theo hướng ông Tài
được quyền yêu cầu ai trả giá trị con trâu? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Khi ông Tài không đòi được con trâu từ ông Dòn, Tòa án đã theo hướng ông

Tài được quyền yêu cầu ông Thơ trả giá trị con trâu.
- Đoạn của Quyết định cho câu trả lời là: “Trong quá trình giải quyết vụ án,tòa án cấp
sơ thẩm đã điều tra, xác minh thu thấp đầy đủ các chứng cứ và xác định con trâu
tranh chấp giữa ông Tài và ông Thơ và đã quyết định buộc ông Thơ là người chiếm
hữu tài sản không có căn cứ pháp luật phải hoàn trả lại giá trị con trâu và con nghé
cho ông Tài là có căn cứ pháp luật”.
Câu 15: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.
Hướng giải quyết trên của Toà án dân sự Toà án nhân dân tối cao là hợp lý. Bản
án đã giải quyết việc hoàn trả lại giá con trâu cho phù hợp với giá cả và đảm bảo
quyền lợi của hai bên đương sự.


PHẦN 2: ĐÒI BẤT ĐỘNG SẢN TỪ NGƯỜI THỨ BA
Câu 1: Đoạn nào của Quyết định cho thấy quyền sử dụng đất tranh chấp thuộc sử
dụng hợp pháp của các con cụ Ba và đang được ông Vĩnh chiếm hữu?
Đoạn của Quyết định cho thấy quyền sử dụng đất tranh chấp thuộc sử dụng
hợp pháp của các con cụ Ba và đang được ông Vĩnh chiếm hữu:
“Nay vợ chồng cụ Ba đã chết thì các con của cụ Ba được thừa kế tài sản này. Nhà của
cụ Ba, ông Vĩnh đã phá đi không còn, khi ông Vĩnh phá nhà, các con cụ Ba không
chứng minh được đã có khiếu nại, nên chỉ còn đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng
hợp pháp của các con cụ Ba”.
Câu 2: Đoạn nào của Quyết định cho thấy Toà án xác định ông Vĩnh chiếm hữu ngay
tình quyết sử dụng đất tranh chấp?
Đoạn của Quyết định cho thấy Toà án xác định ông Vĩnh chiếm hữu ngay tình
quyết sử dụng đất tranh chấp:
“Khi ông Vĩnh mua nhà đất của vợ chồng bà Thu thì nhà đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sở hữu, nên ông Vĩnh mua nhà đất này là hợp pháp. Nay ông Vĩnh cũng
đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở, nên xác
định ông Vĩnh là người mua bán tài sản tranh chấp ngay tình”.

Câu 3: Suy nghĩ của anh/chị về việc Toà án xác định ông Vĩnh là người ngay tình.
Việc Toà án xác định ông Vĩnh là người ngay tình là đúng và phù hợp với quy
định của pháp luật. Vì khi ông Vĩnh mua nhà đất của vợ chồng bà Thu thì nhà đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, nên ông Vĩnh mua nhà đất này là hợp
pháp. Và ông Vĩnh cũng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử
dụng đất ở nên có thể xác định ông Vĩnh là người mua bán tài sản tranh chấp ngay
tình. Cụ thể, theo Điều 189 BLDS 2005 quy định: “Người chiếm hữu tài sản không có
căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà không biết và không thể
biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật”.
Câu 4: Trên cơ sở các quy định hiện hành, ông Vĩnh có phải hoàn trả quyền sử dụng
đất tranh chấp cho các con cụ Ba không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trên cơ sở các quy định hiện hành, ông Vĩnh không phải hoàn trả quyền sử
dụng đất tranh chấp cho các con cụ Ba.
- Vì theo Điều 258, BLDS 2005 quy định về Quyền đòi lại động sản phải đăng ký
quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình :
“Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ
trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán
đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở
hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa”.


Như vậy, theo quy định trên thì ông Vĩnh là người chiếm hữu ngay tình đối với bất
động sản nhận được tài sản thông qua giao dịch với người àm theo quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản, cho nên các con cụ Ba không có
quyền đòi ông Vĩnh trả quyền sử dụng đất và ông Vĩnh không phải hoàn trả quyền sử
dụng đất cho các con cụ Ba.
Câu 5: Toà án tối cao đã có hướng giải quyết bảo vệ các con cụ Ba như thế nào và
hướng giải quyết này đã được quy định trong văn bản chưa? Vì sao?
Trong Quyết định số 94/2013/GĐ-DS ngày 25/7/2013 về vụ án tranh chấp

quyền sở hữu tài sản, để bảo vê các con của cụ Ba, hướng giải quyết của Toà án là
không chấp nhân Toà án sơ thẩm và phúc thẩm bác yêu cầu của nguyên đơn, xác
định ông Vĩnh là người mua bán tài sản tranh chấp ngay tình và yêu cầu bồi thường
thiêt hại do viêc bán nhà trái pháp luât cho nguyên đơn.
Tuy nhiên, hướng giải quyết này chưa được quy định rõ ràng trong văn bản. Vì Toà
án chưa xác định được chính xác ai là người có nghĩa vụ bồi thường thi êt hại cho các
con của cụ Ba và cần phải làm rõ. Ông Vĩnh là người chiếm hữu ngay tình, tức là vi êc
mua nhà số 2 Nguyễn Thái hoc của ông là do không biết và không thể biết vi êc chiếm
hữu của ông là không có căn cứ pháp luât nên Toà án cần phải xác minh ông Sơn hay
ông Đạo là người đã bán căn nhà đó và số tiền đó có phải được dùng xây dựng
trường mâu giáo không, nếu có hiên ai đang quản lí. Từ đó mới xác định được ai là
người có nghĩa vụ bồi thường thiêt hại. Đồng thời cũng cần làm vi êc với Uỷ ban nhân
dân thành phố Quy Nhơn, nếu có thể xem xét hỗ trợ cấp đất mới tương ứng giá trị
đất tranh chấp cho nguyên đơn để tâp thể không phải bồi thường thi êt hại cho
nguyên đơn để giải quyết vụ án cho hợp lí.
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết bảo vệ các con của cụ Ba nêu trên.
Hướng giải quyết bảo vệ các con của cụ Ba nêu trên của Toà án là hợp tình,
hợp lý.
- Vì vụ án có nhiều điểm chưa được làm rõ, chẳng hạn như ai là người bán nhà số 2
Nguyễn Thái Hoc, số tiền bán nhà dùng để làm gì và từ đó xác định ai là người có
nghĩa vụ bồi thường nên Toà đã yêu cầu xem xét lại để đảm bảo được quyền lợi của
các con cụ Ba và cả ông Vĩnh. Đồng thời, Toà đã yêu cầu của Uỷ ban nhân dân TP Quy
Nhơn xem xét hỗ trợ cấp đất mới tương ứng giá trị đất tranh cấp cho các con cụ Ba
để tránh tập thể phải bồi thường thiệt hại là hoàn toàn hợp tình và hợp lý.

PHẦN 3: LẤN CHIẾM TÀI SẢN LIỀN KỀ
Câu 1: Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy ông Hậu đã lấn sang đất thuộc quyền
sử dụng của ông Trê, bà Thi và phần lấn cụ thể là bao nhiêu?



Đoạn của Quyết định số 23 cho thấy ông Hậu đã lấn sang đất thuộc quyền sử
dụng của ông Trê, bà Thi:
“Toà án cấp phúc thẩm buộc ông Hậu trả 132,8 m2 đất đã lấn chiếm nhưng là đất
trống do ông Trê và bà Thi, còn phần đất ông Hậu cũng lấn chiếm nhưng đã xây dựng
nhà (52,2 m2) thì giao ông Hậu sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị quyền sử dụng
đất cho ông Trê và bà Thi là hợp tình hợp lý”.
“Tuy nhiên, ngoài diện tích 52,2 m2 nêu trên, căn nhà của ông Hậu còn có hai máng
xối đúc bê tông chiếm khoảng không trên phần đất của ông Trê và bà Thi có diện tích
10,71 m2 chưa được Toà án sơ thẩm và Toà án phúc thẩm xem xét buộc ông Hậu phải
tháo dỡ hoặc phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi là chưa
đảm bảo quyền lợi hợp pháp của ông Trê và Thi”.
“Mặt khác, theo báo cáo của Cơ quan Thi hành án và theo khiếu nại của ông Trê,
thì ngoài căn nhà nằm trên diện tích 52,2 m2 Toà án các cấp giao cho ông Hậu sử
dụng, còn có một căn nhà phụ có diện tích 18,57 m2 của ông Hậu xây dựng trên diện
tích đất mà Toà án các cấp buộc ông Hậu trả lại cho ông Trê, bà Thi nhưng Toà án các
cấp cũng chưa xem xét giải quyết, gây khó khăn cho việc thi hành án”.
- Phần lấn cụ thể như sau:
+ 132,8 m2 đất trống.
+ 52,2 m2 đất đã xây dựng nhà.
+ 10,71 m2 hai máng xối đúc bê tông chiếm khoảng không trên phần đất của ông
Trê.
+ 18,57 m2 đất đã xây dựng một căn nhà phụ.
Do vậy, phần lấn chiếm tổng cộng là 214,28 m2.
Câu 2: Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy gia đình ông Hòa đã lấn sang đất
(không gian, mặt đất, lòng đất) thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà
Nguyên?
Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy gia đình ông Hòa đã lấn sang đất
(không gian, mặt đất, lòng đất) thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà
Nguyên:
“Quá trình giải quyết vụ án, Toà án sơ thẩm và Toà án phúc thẩm xác định gia đình

ông Hoà làm 4 ô văng cửa sổ, một máng bê tông chờm qua phần đất thuộc quyền sử
dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên nên quyết định buộc gia đình ông Hoà phải
tháo dỡ là có căn cứ.
Tuy nhiên, dưới lòng đất sát tường nhà ông Hoà có ông nước do gia đình ông Hoà
chôn, nhưng Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm không buộc gia đình ông
Hoà phải tháo dỡ là không đúng, không đảm bảo được quyền lợi của gia đình ông
Trụ”.
Câu 3: BLDS có quy định nào điều chỉnh việc lấn chiếm đất, lòng đất và không gian
thuộc quyền sử dụng của người khác không?
Bô luât Dân sự năm 2005 có quy định điều chỉnh vi êc lấn chiếm đất, lòng đất,
không gian thuôc quyền sử dụng của người khác. Cụ thể là Khoản 2, Khoản 3, Điều
265 của Bô luât Dân sự 2005 về nghĩa vụ tôn trong ranh giới giữa các bất đông sản.


“2. Người có quyền sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều
thẳng đứng từ ranh giới trong khuôn viên đất phù hợp với quy hoạch xây dựng do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quy định và không được làm ảnh hưởng đến việc sử
dụng đất liền kề của người khác.
Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn viên đất
thuộc quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ cây, cành
cây vượt quá ranh giới thì phải xén rễ, tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có
thoả thuận khác.
3. Trong trường hợp ranh giới là kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng thì người sử
dụng đất có nghĩa vụ tôn trong, duy trì ranh giới chung; không được lấn, chiếm, thay
đổi mốc giới ngăn cách.”.
Câu 4: Ở nước ngoài, việc lấn chiếm như trên được xử lý như thế nào?
Ở nước ngoài, cụ thể là pháp luật của Pháp với Bộ luật Dân sự Napoleon việc
lấn chiếm được xử lý nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia, để đảm bảo
tính hợp lý và công bằng. Chẳng hạn:
Điều 675: “Chủ sở hữu bất động sản liền kề không được trổ cửa sổ hoặc lỗ cửa vào

bức tường chung dù bằng bất cứ cách nào, kể cả khi có lắp kính mờ, trừ trường hợp
được chủ sở hữu bất động sản liền kề bên kia đồng ý”.
Điều 671: “Chỉ được phép trồng những cây to, cây nhỡ, cây nhỏ gần giới hạn đất
láng giềng theo khoảng cách được xác định theo những quy định cụ thể hiện hành
hoặc những thông lệ được thừa nhận. Nếu không có những quy định hoặc thông lệ
thì cây moc cao trên 2 mét phải trồng cách đường giới hạn phân cách hai bất động
sản là 2 mét, đối với các cây trồng khác là nửa mét”.
Điều 673: “Chủ sở hữu bất động sản có quyền buộc bên hàng xóm phải cắt bỏ các
cành cây moc vươn sang đất của mình. Nếu hoa quả ở các cành cây tự nhiên rụng
xuống thì chủ sở hữu đất bị cành cây vươn sang được hưởng. Nếu rễ cây hoặc cành
nhỏ moc vươn sang đất người khác thì người đó có quyền cắt những rễ và cành cây
nhỏ đó đến giới hạn đường phân chia của hai bên. Quyền được cắt rễ cây và cành
nhỏ hoặc quyền được yêu cầu bên hàng xóm cắt các rễ cây, cành cây của các cây to,
cây nhỡ, cây nhỏ không thể bị thời hiệu tiêu diệt”.
Điều 681: “Chủ sở hữu bất động sản phải lắp đặt mái nhà sao cho nước mưa chảy
vào đất nhà mình hoặc đường công cộng, không được để nước mưa chảy vào đất của
bên hàng xóm”.
Như vậy, ta có thể thấy những việc làm của chủ sở hữu bất động sản có hành vi lấn
chiếm dù cố ý hay vô tình sang bất động sản bên cạnh thì đều phải tháo dỡ, cắt bỏ
nếu chủ sở hữu bất động sản bên cạnh yêu cầu.
Nguyên văn Điều 675, 671, 673, 681 BLDS Pháp

Câu 5: Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao
theo hướng buộc gia đình ông Hòa tháo dỡ tài sản thuộc phần lấn sang không gian,
mặt đất và lòng đất của gia đình ông Trụ, bà Nguyên?


Đoạn của Quyết định số 617 cho thấy Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao theo
hướng buộc gia đình ông Hòa tháo dỡ tài sản thuộc phần lấn sang không gian, mặt
đất và lòng đất của gia đình ông Trụ, bà Nguyên:

“Khi sửa chữa lại nhà gia đình ông Hoà có làm 4 ô văng cửa sổ, một máng bê án cấp
sơ thẩm và phúc thẩm xác định gia đình ông Hoà làm 4 ô văng cửa sổ, một máng bê
tong chờm qua phần đất thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên nên
quyết định buộc gia đình ông Hoà phải tháo dỡ đó là có căn cứ.
Tuy nhiên dưới lòng đất sát tường nhà ông Hoà còn ống nước do gia đình nhà ông
Hoà chôn, nhưng Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm không buộc gia đình
ông Hoà phải tháo dỡ là không đúng, không đảm bảo được quyền lợi của gia đình
ông Trụ”.
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao.
Hướng giải quyết trên của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao là hợp lý.
- Vì ông Hoà đã lấn chiếm mà không có đúng theo quy định trong giấy chứng nhận
sử dụng đất và không có sự đồng ý của chủ bất động sản liền kề là ông Trụ và bà
Nguyên cho nên Toà yêu cầu ông Hoà phải tháo dỡ là đúng với quy định của pháp
luật hiện hành (Điều 265, 266, BLDS 2005). Mặt khác, dưới lòng đất sát tường nhà
ông Hoà còn ống nước do gia đình ông Hoà chôn, nhưng Toà án sơ thẩm và Toà án
phúc thẩm không buộc ông Hoà tháo dỡ là chưa đảm bảo được quyền lợi của gia
đình ông Trụ và bà Nguyên cho nên việc yêu cầu xét xử lại đối với vụ án trên của Toà
dân sự Toà án nhân dân tối cao là hoàn toàn hợp lý và đúng pháp luật.
Câu 7: Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy Tòa án không buộc ông Hậu tháo dỡ
nhà đã được xây dựng trên đất lấn chiếm (52,2 m2)?
Đoạn của Quyết định số 23 cho thấy Tòa án không buộc ông Hậu tháo dỡ nhà
đã được xây dựng trên đất lấn chiếm (52,2 m2):
“Toà án cấp phúc thẩm buộc ông Hậu trả 132,8 m2 đất đã lấn chiếm nhưng là đất
trống do ông Trê và bà Thi, còn phần đất ông Hậu cũng lấn chiếm nhưng đã xây dựng
nhà (52,2 m2) thì giao ông Hậu sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị quyền sử dụng
đất cho ông Trê và bà Thi là hợp tình hợp lý”.
Câu 8: Ông Trê, bà Thi có biết và phản đối ông Hậu xây dựng nhà trên không?
Ông Trê, bà Thi biết và không phản đối ông Hậu xây dựng nhà trên.
- Vì theo lời khai của Hậu thì phần đất đó là ông mua của anh Kiệt, chính vì thế khi

ông làm nhà ông Trê không có ý kiến gì.
Câu 9: Nếu ông Trê, bà Thi có biết và phản đối ông Hậu xây dựng nhà trên thì ông Hậu
có phải tháo dỡ nhà để trả lại đất cho ông Trê, bà Thi không? Vì sao?
Nếu ông Trê, bà Thi có biết và phản đối ông Hậu xây dựng nhà trên thì ông
Hậu phải tháo dỡ nhà để trả lại đất cho ông Trê, bà Thi.
- Vì theo Điều 259, BLDS 2005 quy định về Quyền yêu cầu ngăn ch ăn ho ăc chấm dứt


hành vi cản trở trái pháp luật đối với viêc thực hi ên quyền sở hữu, quyền chiếm hữu
hợp pháp.
“Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình, chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm
dứt hành vi đó; nếu không có sự chấm dứt tự nguyện thì có quyền yêu cầu Toà án, cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm”.
Như vây ông Trê và bà Thi sở hữu hợp pháp 185m2 đất giáp ranh bởi gia đình ông
Trê đã quản lí sử dụng đất tranh chấp từ trước khi có vi êc sang nhượng giữa ông Hậu
với anh Kiêt và năm 1994 ông Trê đã được Uỷ ban nhân dân huyên CN cấp giấy
chứng nhân sử dụng đất. Ông Trê có quyền yêu cầu ông Hâu không được xây dựng
hay sử dụng mảnh đất này.
Câu 10: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến phần
đất ông Hậu lấn chiếm và xây nhà trên.
Hướng giải quyết trên của Toà án liên quan đến phần đất ông Hậu lấn chiếm

xây
nhà
trên

hợp
lí.
- Vì việc ông Hậu lấn chiếm và xây dựng nhà không có căn cứ pháp luật nhưng ngay

tình, chiếm hữu mà không biết mình chiếm hữu tài sản đó. Ông Hậu cho rằng diện
tích đất trên do ông nhận chuyển nhượng từ anh Kiệt, tuy nhiên theo giấy biên nhận
giữa ông Hậu với anh Kiệt (giấy không có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền) thì diện tích đất mà ông Hậu mua từ anh Kiệt không nêu vị trí cũng như tứ
cận, mốc giới cụ thể, cũng không có xác nhận của các chủ đất liền kề nên việc ông
Hậu lấn chiếm là ngay tình. (căn cứ Điều 189 BLDS năm 2005)
Câu 11: Theo Tòa án, phần đất ông Hậu xây dựng không phải hoàn trả cho ông Trê, bà
Thi được xử lý như thế nào? Đoạn nào của Quyết định số 23 cho câu trả lời?
Theo Toà án, phần đất ông Hậu xây dựng không phải hoàn trả cho ông Trê và
bà Thi được xử lí là: Phần đất ông Hậu cũng lấn chiếm nhưng đã xây dựng nhà (52,2
m2) thì giao ông Hậu sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho
ông
Trê


Thi.
- Đoạn của Quyết định 23 cho câu trả lời: “Toà án cấp phúc thẩm buộc ông Hậu trả
132,8 m2 đất đã lấn chiếm nhưng là đất trống do ông Trê và bà Thi, còn phần đất ông
Hậu cũng lấn chiếm nhưng đã xây dựng nhà (52,2 m2) thì giao ông Hậu sử dụng
nhưng phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi là hợp tình
hợp lý”.
Câu 12: Đã có quyết định nào của Hội đồng thẩm phán theo hướng giải quyết như
Quyết định số 23 liên quan đến đất bị lấn chiếm và xây dựng nhà không? Nêu rõ
Quyết định mà anh/chị biết.
- Đã có quyết định của Hội đồng thẩm phán theo hướng giải quyết như Quyết định
số 23 liên quan đến đất bị lấn chiếm và xây dựng nhà.
- Quyết định số 02/2006/DS - GĐT ngày 21/2/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao.



“Căn cứ vào văn tự đoạn mãi nhà ngày 30/2/1973 giữa ông Vui và bà Khanh thì căn
nhà bà Khanh có chiều rộng mặt tiền là 7,4m và căn cứ vào giấy phép xây dựng số
51/GPSXD ngày 8/2/1996 của Sở xây dựng tỉnh DL thì bà Khanh được xây nhà có
chiều rộng mặt tiền là 7,4m nhưng theo biên bản đo đạc của Toà án nhân dân tỉnh DL
thì thực tế bà Khanh đã xây dựng chiều rộng mặt tiền là 7,63m, sai với giấy phép xây
dựng vượt quá diện tích đất mà gia đình bà Khanh được quyền sử dụng là 23cm.
Thực tế, bà Khanh đã xây kiềng móng nằm đè lên 20 cm móng của nhà ông Tùng.
Bà Khanh cho rằng khi xây dựng đã thoả thuận miệng với ông Tùng để bà Khanh được
xây sát tường nhà ông Tùng nhưng ông Tùng không thừa nhận và bà Khanh cũng
không

chứng
cứ
để
chứng
minh
vấn
đề
này.
Về nguyên tắc, bà Khanh đã lấn chiếm đất thuộc quyền sở hữu của ông Tùng thì bà
Khanh phải tháo dỡ công trình để trả lại đất cho ông Tùng. Tuy nhiên, khi gia đình bà
Khanh xây dựng sát tường nhà ông Tùng, làm kiềng trên móng nhà ông Tùng, ông
Tùng không phản đối trong suốt quá trình từ khi bà Khanh khởi công xây dựng (tháng
2 năm 1996) đến khi hoàn thành (tháng 6 năm 1996). Do việc đã xây dựng hoàn thiện
nhà cao tầng, nếu buộc bà Khanh phải dỡ bỏ và thu hẹp lại công trình sẽ gây thiệt hại
rất lớn cho gia đình bà Khanh. Xét diễn biến thực tế như trên Hội đồng thẩm phán
nhất trí với quan điểm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại kháng nghị
là Toà án cấp phúc thấm không buộc bà Khanh phải tháo dỡ phần tường nhà đè lên
phía trên móng nhà ông Tùng mà chỉ buộc bồi thường bằng tiền là hợp tình, hợp lí.
Do việc bà Khanh xây sát tường nhà ông Tùng, gây thiệt hại cho ông Tùng về phần

không gian trên đất ông Tùng không sử dụng được có chiều rộng 20cm tính theo
móng nhà ông Tùng nên bà Khanh phải bồi thường cho ông Tùng phần thiệt hại này.
Phần thiệt hại này cũng phải được xác định cân cứ vào giá trị quyền sử dụng đất tại
thị trường địa phương. Toà án cấp phúc thẩm căn cứ vào khung giá đất đai quyết
định số 2920/QĐ-UB ngày 10/12/1998 của Uỷ ban nhân dân tỉnh ĐL với giá 1 720 000
đ/m2 trong khi không có chứng cứ chứng minh khung giá của Uỷ ban nhân dân tỉnh
phù hợp với giá thị trường là chưa đảm bảo đúng quyền lợi của ông Tùng theo quy
định của pháp luật. Do đó cần phải giải quyết phúc thẩm lại phần này”.
Câu 13: Anh/chị có suy nghĩ gì về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm
phán trong Quyết định số 23 được bình luận ở đây?
Hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán trong Quyết định số 23 là hợp
lý và đảm bảo được quyền lợi của các bên đương sự.
- Việc ông Hậu mua đất từ anh Kiệt khi không có chứng nhận của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cũng như trong không nêu tứ cận, mốc giới cụ thể là chưa rõ ràng và
phù hợp với quy định của pháp luật cho nên ông Hậu phải trả lại cho ông Trê và bà
Thi 132,8 m2 đất trống; còn phần đất ông Hậu đã xây dựng nhà (52,2 m2) nếu buộc
ông Hậu phải tháo dỡ thì lại không đảm bảo được quyền lợi cho ông Hậu. Mặt khác,
còn 2 điểm đó là hai máng xối đúc bê tông chiếm khoảng không trên phần đất của
ông Trê có diện tích 10,71 m2 và căn nhà phụ có diện tích 18,57 m2 vân chưa được
Toà án các cấp xem xét giải quyết, như vậy sẽ không đảm bảo được quyền lợi cho ông
Trê và bà Thi. Do đó, hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán ở đây là hợp tình hợp
lý.


Câu 14: Đối với phần chiếm không gian 10,71 m2 và căn nhà phụ có diện tích 18,57
m2 trên đất lấn chiếm, Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm có buộc tháo dỡ không?
Đối với phần chiếm không gian 10,71 m2 và căn nhà phụ có diện tích 18,57 m2
trên đất lấn chiếm, Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm không buộc tháo dỡ.
- Một đoạn trong Quyết định số 23 đã nêu:
“Tuy nhiên, ngoài diện tích 52,2 m2 nêu trên, căn nhà của ông Hậu còn có hai máng

xối đúc bê tông chiếm khoảng không trên phần đất của ông Trê và bà Thi có diện tích
10,71 m2 chưa được Toà án sơ thẩm và Toà án phúc thẩm xem xét buộc ông Hậu phải
tháo dỡ hoặc phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi là chưa
đảm bảo quyền lợi hợp pháp của ông Trê và Thi”.
“Mặt khác, theo báo cáo của Cơ quan Thi hành án và theo khiếu nại của ông Trê, thì
ngoài căn nhà nằm trên diện tích 52,2 m2 Toà án các cấp giao cho ông Hậu sử dụng,
còn có một căn nhà phụ có diện tích 18,57 m2 của ông Hậu xây dựng trên diện tích
đất mà Toà án các cấp buộc ông Hậu trả lại cho ông Trê, bà Thi nhưng Toà án các cấp
cũng chưa xem xét giải quyết, gây khó khăn cho việc thi hành án”.
Câu 15: Theo anh/chị thì nên xử lý phần lấn chiếm không gian và căn nhà phụ trên
như thế nào?
Nên xử lý phần lấn chiếm không gian và căn nhà phụ trên như sau:
- Trường hợp 1:
+ Đối với phần lấn chiếm không gian (10,71 m2): có thể yêu cầu ông Hậu tháo dỡ hai
máng xối đúc bê tông chiếm khoản không trên phần đất của ông Trê và bà Thi.
+ Đối với căn nhà phụ (18,57 m2): có thể giao cho ông Hậu sử dụng như phải thanh
toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi.
- Trường hợp 2:
+ Đối với phần lấn chiếm không gian (10,71 m2): có thể yêu cầu ông Hậu tháo dỡ hai
máng xối đúc bê tông chiếm khoản không trên phần đất của ông Trê và bà Thi.
+ Đối với căn nhà phụ (18,57 m2): nếu ông Trê muốn sử dụng thì sẽ trả chi phi xây
dựng công trình cho ông Hậu.
Tuy nhiên, nếu hai bên có thoả thuận khác thì nên tôn trong thoả thuận của hai
bên.
Câu 16: Suy nghĩ của anh/chị về xử lý việc lấn chiếm quyền sử dụng đất và không gian
ở Việt Nam hiện nay.
Về những quy định việc lấn chiếm quyền sử dụng đất và không gian ở Việt
Nam hiện nay đã có những quy định khá đầy đủ.
- Tuy nhiên, bên cạnh đó trong thực tiễn xét xử vân còn gặp một số bất cấp:
+ Nói đến việc lấn chiếm quyền sử dụng đất và không gian thì ta thường đề cập đến

nhà, công ty, đường sá, … Do vậy, việc xử lý thiếu đi những quy định về tranh chấp
mồ mả.
Một vấn đề được các tòa quan tâm và thường hỏi ý kiến chỉ đạo nghiệp vụ là
chuyện các tranh chấp đất đai nhưng liên quan đến mồ mả trên phần đất đó thì giải


quyết chuyện mồ mả như thế nào. Không ít tòa bảo ho rất thường gặp các tranh chấp
dạng này và lúng túng khi xử lý vì luật gần như chưa có quy định.
Tòa án TP. Hồ Chí Minh cho biết trước đây, khi tranh chấp này ra đến tòa thì đã có
tòa nhận đơn thụ lý giải quyết nhưng có tòa không thụ lý. Sự không thống nhất này
khiến nhiều người dân phàn nàn khá nhiều về cách làm việc của tòa. Quan điểm
chung của ngành tòa án thành phố là nếu có tranh chấp về mồ mả thì phần mồ mả
tòa sẽ không thụ lý giải quyết.
Tòa án TP. Hồ Chí Minh lý giải, những tranh chấp về mồ mả, hài cốt cho đến nay
chưa có một văn bản pháp luật nào quy định cho tòa hay ủy ban giải quyết. TAND tối
cao cũng chưa có văn bản nào hướng dân riêng cho ngành tòa án. Vì vậy, những
tranh chấp về đất đai trên đó có mồ mả, hài cốt thì tòa chỉ có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp về quyền sử dụng đất, không có quyền giải quyết tranh chấp liên quan
đến mồ mả, hài cốt trong phần đất tranh chấp.
+ Lúng túng khi xử lý tài sản gắn liền với đất.
Việc thiếu những hướng dân về thế nào là tài sản gắn liền với đất khiến cho ho khó
khăn khi giải quyết những tranh chấp này. Đơn cử như vấn đề nêu trên, có quan điểm
cho rằng Tòa án có thể giải quyết việc tranh chấp mồ mả bởi có thể coi mồ mả là một
dạng tài sản gắn liền trên đất. Tuy nhiên, có nhiều người e ngại rằng nếu coi mồ mả là
tài sản thì cũng có vấn đề.
Ngành tòa án nhìn nhận hiện nay khái niệm tài sản gắn liền với đất không được
Luật Đất đai năm 2003 hoặc các văn bản giải thích luật này hướng dân cụ thể. Trong
khi văn bản đề cập đến khái niệm này chỉ là Thông tư liên tịch 04 của ngành tòa án,
Viện Kiểm sát, Tổng cục Quản lý ruộng đất nhưng nó lại ra đời vào tháng 5-1990, cách
đây gần 20 năm.

Dù hướng dân có đã khá lâu nhưng trong khi chờ có hướng dân cụ thể thì tạm thời
ngành tòa án vận dụng thông tư trên để xử lý. Theo thông tư này thì tài sản gắn liền
với đất có thể là nhà bếp, nhà vệ sinh, giếng nước, tường xây làm hàng rào, nhà kho,
cây lấy gỗ, cây ăn quả…
+ Chưa linh hoạt đối với việc xử lý đất lấn chiếm.
Nhiều thẩm phán khá máy móc khi xử những tranh chấp về đất lấn chiếm. Nếu
thấy lấn chiếm thì tuyên trả lại mà thiếu xác minh thực địa bởi có trường hợp ho lấn
chiếm đất và xây nhà. Do vậy, nếu cứ buộc trả lại phần đất lấn chiếm thì phải đập
nhà, gây thiệt hại lớn cho đương sự.
Theo Tòa án TP.HCM, với những trường hợp này, nếu bên lấn chiếm đã xây nhà
kiên cố (nếu đập bỏ nhà sẽ gây sụp đổ các công trình kiến trúc lân cận hoặc hai bên
đã xây tường sát nhau…) thì thẩm phán phải cân nhắc, xem xét kỹ. Chỉ nên buộc trả
lại nếu có khả năng thi hành trên thực tế, không gây thiệt hại nghiêm trong đến tài
sản của các bên (trừ trường hợp việc xây dựng đã bị cơ quan chức năng cấm nhưng
vân cố tình xây dựng).
Trường hợp xét thấy không thể buộc bên lấn chiếm trả lại phần đất (và phần không
gian đã lấn chiếm) thì nên buộc ho phải thanh toán cho bên kia giá trị quyền sử dụng
đất theo giá thị trường hoặc bồi thường thiệt hại do phần đất (không gian) mà chủ
đất không được sử dụng.


Một nội dung khác cũng được Tòa án lưu ý là đất tranh chấp trên thực tế nhỏ hơn
hoặc rộng hơn so với diện tích có trong giấy chứng nhận. Theo tòa, đây là trường hợp
gặp rất nhiều trên thực tế và cách giải quyết của nhiều tòa thường thiếu thống nhất.
Theo quy định, nếu đương sự có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính thì
các tranh chấp thuộc thẩm quyền của tòa. Tuy nhiên, Tòa án TP. Hồ Chí Minh cho biết
trong thời gian qua, nhiều tòa đã xác định không đúng yếu tố trên, dân đến sai sót
khi giải quyết án. Đơn cử như chuyện đương sự chỉ có giấy đăng ký, kê khai nhà đất
năm 1999 hoặc chỉ có tên trong sổ dã ngoại, sổ mục kê nhưng tòa vân xác định vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. Tòa án TP.HCM lưu ý, các giấy tờ, sổ sách trên

không được coi là một trong những loại giấy tờ về quyền sử dụng đất. Do vậy, gặp
trường hợp này, tòa không được thụ lý giải quyết.
Như vậy, thiết nghĩ cần phải có những quy định chi tiết hơn nữa về xử lý đất và
không gian lấn chiếm cũng như các tài sản gắn liền với đất và cách xử lý của Toà án
cần linh hoạt hơn để đảm bảo được quyền lợi của các đương sự.
Câu 17: Hướng giải quyết trên của Toà án trong Quyết định số 23 có còn phù hợp với
BLDS 2015 không? Vì sao?
Hướng giải quyết trên của Toà án trong Quyết định số 23 phù hợp với BLDS 2015.

theo
Khoản
2,
Điều
164,
BLDS
2015:
“2. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả
lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
Như vây ông Trê bà Thi có quyền yêu cầu toà án cơ quan nhà nước có thẩm quyền
buôc ông Hâu trả lại phần đất là 132,8 m2 đất đã lấn chiếm và phần đất đã xây dựng
nhà 52,2 m2 thì giao cho ông Hâu sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị sử dụng đất
cho ông Trê và bà Thi. Ngoài diên tích trên thì ông Trê có quyền yêu cầu ông H âu tháo
dỡ hai máng xối đúc bê tông đã chiếm phần không trên phần đất ông Trê 10,71 m2
hoăc thanh toán giá trị sử dụng đất cho ông Trê.




×