Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong hỗ trợ hòa nhập cho trẻ chậm phát triển ngôn ngữ tại trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.16 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------

TẠ THỊ NGỌC BÍCH

VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI
TRONG HỖ TRỢ HÒA NHẬP CHO TRẺ CHẬM PHÁT
TRIỂN NGÔN NGỮ TẠI TRƢỜNG MẦM NON

(Ứng dụng phƣơng pháp Công tác xã hội
với cá nhân nghiên cứu trên hai trƣờng hợp
trẻ chậm phát triển ngôn ngữ Nguyễn M và
Lƣu T.Đ)
Remove it Now

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------

TẠ THỊ NGỌC BÍCH

VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI
TRONG HỖ TRỢ HÒA NHẬP CHO TRẺ CHẬM PHÁT
TRIỂN NGÔN NGỮ TẠI TRƢỜNG MẦM NON


(Ứng dụng phƣơng pháp Công tác xã hội
với cá nhân nghiên cứu trên hai trƣờng hợp
trẻ chậm phát triển ngôn ngữ Nguyễn M và
Lƣu T.Đ)
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Trần Thu Hƣơng

Hà Nội - 2015


MỤC LỤC
Mục
MỞ ĐẦU
1.
Lý do lựa chọn vấn đề can thiệp
2.
Tổng quan về những nghiên cứu, can thiệp liên quan đến đề tài
2.1
Tổng quan lịch sử nghiên cứu, can thiệp về trẻ chậm phát triển
ngôn ngữ trên thế giới
2.2
Tổng quan lịch sử nghiên cứu, can thiệp về trẻ chậm phát triển
ngôn ngữ tại Việt Nam
3
Ý nghĩa của vấn đề can thiệp
4

Mục đích can thiệp
5
Khách thể và vấn đề cần can thiệp
5.1
Khách thể can thiệp
5.2
Vấn đề cần can thiệp
6
Phƣơng pháp can thiệp
7
Phạm vi can thiệp
7.1
Phạm vi thời gian
7.2
Phạm vi không gian
7.3
Giới hạn nội dung can thiệp
NỘI DUNG CHÍNH
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1
Khái niệm công cụ
1.1.1Khái niệm Chậm phát triển ngôn ngữ
1.1.2Khái niệm Vai trò của Nhân viên Công tác xã hội trong hỗ
trợ hòa nhập cho trẻ chậm phát triển ngôn ngữ
1.1.3
Sự khác nhau giữa Nhân viên Công tác xã hội với một số ngành
nghề trong hoạt động can thiệp cho trẻ chậm phát triển ngôn
ngữ
1.1.4Nhận biết trẻ chậm phát triển ngôn ngữ. Nguyên nhân trẻ chậm
phát triển ngôn ngữ

1.1.4.1 Nhận biết trẻ chậm phát triển ngôn ngữ
1.1.4.2 Nguyên nhân trẻ chậm phát triển ngôn ngữ
1.2
Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu

1

Trang
7
8
8
8
14
16
17
17
17
17
17
19
19
19
19

20
20
20
20
20
21


22
22
31
32


1.2.1
1.2.2

Lý thuyết nhận thức – hành vi
Lý thuyết học tập xã hội

32
33

1.2.3

Lý thuyết Công tác xã hội với cá nhân

33

CHƢƠNG 2: CÁC HOẠT ĐỘNG CAN THIỆP

36

2.1

Vài nét về địa bàn can thiệp


36

2.2
2.3
2.3.1

Kế hoạch can thiệp
Kết quả can thiệp của bé Nguyễn M
Mô tả trường hợp

37
38

2.3.2

Kết quả sàng lọc

41

2.3.3

Tiến trình thực hiện hỗ trơ ̣hoa nhâp ̣ be Nguyễn M

46

2.3.3.1
2.3.3.2

Nhân viên Công tác xã hội can thiệp với vai trò là giáo viên
Nhân viên Công tác xã hội với vai trò là người kết nối nguồn lực


46
59

2.4

Kết quả can thiệp của bé Lƣu T.Đ

61

2.4.1

Mô tả trường hợp

61

2.4.2

Kết quả sàng lọc

61

2.4.3

Tiến trình thực hiện hỗ trơ ̣hoa nhâp ̣ be Lưu T.Đ

65

2.4.3.1
2.4.3.2


Nhân viên Công tác xã hội can thiệp với vai trò là giáo viên
Nhân viên Công tác xã hội với vai trò là người kết nối nguồn lực

65
77

2.5

Lý giải lý do sử dụng phƣơng pháp Công tác xã hội với cá

79

2.6
2.7

nhân để can thiệp cho thân chủ
Phân tích và đánh giá các kỹ năng Công tác xã hội đã ứng dụng
Mối liên hệ giữa kiến thức, lý thuyết, phƣơng pháp ứng dụng

79

2.8
2.8.1

và kiến thức thực tế trong quá trình can thiệp.
Những thuận lợi, khó khăn trong quá trình can thiệp
Những thuận lợi trong quá trình can thiệp

81

81

2.8.2

Những khó khăn trong quá trình can thiệp

82

̀̀

̀̀

38

̀́

̀́

80

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

84

KẾT LUẬN
KHUYẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

84

85
88
90

2


-

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CPTNN: Chậm phát triển ngôn ngữ
CTXH: Công tác xã hội
NV CTXH: Nhân viên Công tác xã hội
GV : Giáo viên
MN: Mầm non
ABA (Applied Behevior Analysis): Ứng dụng phân tích hành vi

-

CARS (Childhood Autism Rating Scale): Bảng đánh giá mức độ tự kỷ ở trẻ em

-

DSM (Diagnostic and Statical Manual of Mental Disorders): Sổ tay chẩn
đoán và thống kê các rối loạn tâm thần

-

DENVER (Denver Developmental Screening Test): Trắc nghiệm Đánh giá sự
phát triển tâm lý - vận động cho trẻ nhỏ

ICD (Internetional Classification of Diseases): Bảng phân loại bệnh quốc tế
TTK: Trẻ tự kỷ
TTNM: Trung Tâm Nắng Mai
GD & ĐT: Giáo Dục và Đào Tạo

-

3


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Các giai đoạn phát triển ngôn ngữ của trẻ (từ 0 – 6 tuổi)
Bảng 1.2: Sư ̣phát triển vềhinh̀ thức ngôn ngữcủa trẻtừ 8 tháng tuổi – 9 tuổi

Bảng 1.3: Sư ̣phát triển vềsử dung ̣ ngôn ngữcủa trẻtừ 8 tháng tuổi – 9 tuổi
Bảng 1.4: Sư ̣phát triển về nội dung ngôn ngữ của trẻ từ 8 tháng tuổi – 9 tuổi
Bảng 2.1: Bảng đánh giá sự phát triển của trẻ mẫu giáo (3– 4 tuổi). Bé Nguyễn M
Bảng 2.2: Bảng đánh giá sự phát triển của trẻ mẫu giáo (3 – 4 tuổi). Bé Lưu T.Đ

4


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài: “Vai trò của nhân viên Công tác xã hội
trong hỗ trợ hoà nhập cho trẻ chậm phát triển ngôn ngữ tại trường mầm non (Ứng
dụng phương pháp Công tác xã hội với cá nhân nghiên cứu trên hai trường hợp trẻ
chậm phát triển ngôn ngữ Nguyễn M và Lưu T.Đ)” là công trình nghiên cứu của cá
nhân tôi. Những kết quả nghiên cứu là hoàn toàn trung thực, phù hợp với đề tài
nghiên cứu của tôi.
Tác giả luận văn

Tạ Thị Ngọc Bích

5


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên cho tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS Trần Thu
Hương là người trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu
và hoàn thành luận văn với đề tài : “Vai trò của nhân viên Công tác xã hội trong hỗ
trợ hoà nhập cho trẻ chậm phát triển ngôn ngữ tại trường Mầm non (Ứng dụng
phương pháp Công tác xã hội với cá nhân nghiên cứu trên hai trường hợp trẻ chậm
phát triển ngôn ngữ Nguyễn M và Lưu T.Đ)” .
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy cô trong khoa Xã hội
học, đặc biệt là các thầy cô bộ môn Công tác xã hội, trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân Văn đã đào tạo, cung cấp những kiến thức, phương pháp, kỹ năng để
tôi có thể hoàn thành nghiên cứu của mình một cách thuận lợi nhất.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới Ban quản lý Trung tâm Nắng Mai và ban giám
hiệu trường Mầm non Kid’s Color cùng toàn thể các cô giáo đã tạo điều kiện cho tôi
được tham gia trực tiếp vào các hoạt động học tập cùng thân chủ của mình để thực
hiện quá trình can thiệp trong thời gian 1 năm học.
Do kiến thức và kỹ năng còn hạn chế nên luận văn sẽ còn những thiếu sót. Rất
kính mong các thầy cô, các bạn độc giả đóng góp ý kiến để luận văn của tôi hoàn
chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

6


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn vấn đề can thiệp

Nhắc đến nhóm trẻ chậm phát triển ngôn ngữ (CPTNN) hầu hết các bậc phụ
huynh cũng như đa số mọi người đều có những hiểu lầm rằng những đứa trẻ này bị
bệnh tự kỷ. Bởi lẽ những trẻ CPTNN cũng có nhiều điểm tương đồng với trẻ tự kỷ.
Hay nói một cách khác, việc CPTNN ở trẻ có thể chỉ là một biểu hiện nhỏ trong tập
hợp các dấu hiệu của hội chứng tự kỷ.
Hiện nay số lượng trẻ CPTNN ngày một tăng nhanh (trong đó có cả nhóm trẻ
CPTNN tự kỷ và một tỷ lệ rất nhỏ trẻ CPTNN thông thường), đặc biệt là ở các
thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh… Tại các Trung tâm, các trường chuyên
biệt dạy trẻ tự kỷ (TTK) có một số lượng không ít những trẻ CPTNN đang được trị
liệu ngôn ngữ với chương trình can thiệp chuyên biệt.
Theo thống kê của Vụ giáo dục Mầm non – Bộ Giáo Dục & Đào Tạo (GD &
ĐT) cho thấy tỷ lệ trẻ khuyết tật tham gia giáo dục hòa nhập chỉ chiếm một tỷ lệ
nhỏ so với tổng số trẻ cùng lứa tuổi. Thực tế cho thấy rằng trẻ CPTNN khi được
nhận vào môi trường học hòa nhập còn gặp nhiều khó khăn trong việc giao tiếp,
nhận thức hay các kỹ năng xã hội khác… Bên cạnh những khó khăn mang tính chủ
quan là xuất phát từ chính bản thân trẻ có rất nhiều những nguyên nhân khách quan
khác từ môi trường giáo dục hòa nhập. Việc thiếu giáo viên chuyên môn hỗ trợ cho
trẻ CPTNN hòa nhập tại các trường mầm non (MN) là một trong những nguyên
nhân khách quan đó.
Tại một số cơ sở giáo dục chuyên biệt đã cung cấp thêm mảng dịch vụ giáo
viên (GV) hỗ trợ trẻ CPTNN tại các trường MN nhưng con số này còn khá eo hẹp.
Và hầu như GV hỗ trợ đều gặp cản trở từ môi trường làm việc không chuyên biệt
này. Những GV làm công việc hỗ trợ trẻ CPTNN học hoà nhập không chỉ cần kiến
thức chuyên môn mà còn cần có những kỹ năng mềm khác để vừa hỗ trợ trẻ học tập
vừa không làm ảnh hưởng tới công việc của các GV trong trường hòa nhập.
Ở nước ta, việc chẩn đoán là do bác sĩ chuyên khoa về tâm thần hoặc tâm lý
trẻ em, ngoài ra, không có sự phối hợp theo dõi của những nhân viên công tác xa ̃
hôị(NV CTXH) hay GV chuyên biệt. Việc trị liệu cho trẻ CPTNN có thể có sự góp
mặt của bác sĩ tâm lý, bác sĩ tâm thần, GV chuyên biệt. Tuy nhiên sự phối hợp
giống như môṭ ê kíp trị liệu của những thành viên này hầu như chưa có hoặc không

khăng khít, đặc biệt là hầu như không có những NV CTXH đóng vai trò là người
quản lý ca, người kết nối các mối quan hệ trong nhóm trị liệu. Mặc dù hiện nay vai

7


trò của các nhân viên công tác xã hội (NV CTXH) đã có mặt hầu hết trong các lĩnh
vực xã hội. Tuy nhiên, tại các trung tâm chuyên biệt hay các trường khuyết tật vị trí,
vai trò của những NV CTXH chưa thực sự được chú ý và phát huy hết hiệu quả.
“Thực ra, đây là một vị trí góp phần quan trọng vào việc gắn kết các mối quan hệ
của các thành viên trong gia đình trẻ với nhau, và trẻ với cơ sở trị liệu. Nói một cách
khác, người nhân viên xã hội chính là người liên kết và thống nhất các quan điểm ,
tạo nên sự thông hiểu lẫn nhau” [2, tr.105]. Ngoài ra, ở mỗi một vị trí khác nhau thì
NV CTXH sẽ đóng những vai trò khác nhau và giúp đem lại lợi ích cao nhất cho
thân chủ của mình.
Trong điều kiện thực tế ở nước ta việc trị liệu, hỗ trợ TTK nói chung và trẻ
CPTNN hòa nhập nói riêng, NV CTXH thường giữ vai trò vừa là một GV chuyên
biệt vừa là người hỗ trợ trẻ và gia đình trẻ.
Xuất phát từ thực tế trên, tác giả xin chọn đề tài nghiên cứu “ Vai trò của
nhân viên Công tác xã hội trong hỗ trợ hòa nhập cho trẻ chậm phát triển ngôn
ngữ tại trường mầm non” để thấy được vai trò của NV CTXH khi làm việc với trẻ
CPTNN tại trường mầm non.
2. Tổng quan về những nghiên cứu, can thiệp liên quan đến đề tài
2.1 Tổng quan lịch sử nghiên cứu, can thiệp về trẻ chậm phát triển ngôn
ngữ trên thế giới
Theo Saussure, hoạt động lời nói của cá nhân bao gồm năng lực ngôn ngữ và
ngôn ngữ như hệ thống. Cả hai yếu tố này đều được hiện thực hóa trong lời nói. Nói
cách khác, lời nói là “hành vi hiện thực hóa năng lực của cá nhân nhờ các điều kiện
xã hội, tức nhờ ngôn ngữ và ngôn ngữ trong nghĩa rộng của từ này (tức là hoạt
động lời nói) nếu tách riêng ra là không thể hiểu được, bởi vì nó có tính không

đồng nhất” [11, tr.12 – 13].
Khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ khiến con người khác các loài động vật
khác. Ngôn ngữ nói giúp con người truyền đạt thông tin, biểu đạt cảm xúc và biểu
thị các mối quan hệ xã hội; đồng thời, nó cung cấp cho con người phương tiện tổ
chức tư duy, trí nhớ, cho phép hình thành nên những ranh giới phức tạp của lí trí và
giúp con người suy ngẫm về những sự kiện diễn ra trong quá khứ, tương lai và
mang tính giả thuyết, hơn là giữ chúng trong hiện tại.
Humboldt nói tới hoạt động lời nói và ngôn ngữ của con người như sự kết
nối giữa con người và xã hội. Steintal G. cho rằng hoạt động lời nói cá nhân có ba
yếu tố căn bản: cơ cấu cơ học của cơ thể, cơ cấu tâm lý và nội dung khái niệm hay
thế giới quan được biểu hiện. Lời nói có mục đích là biểu đạt và phản ánh nội dung

8


dựa trên cơ cấu tâm lý và cơ thể. [11]
Sự CPTNN trong 3 năm đầu đời có thể dẫn đến những khó khăn trong giao
tiếp và xã hội hóa các hình tượng quan trọng của trẻ ở thời thơ ấu. Việc CPTNN là
nguyên nhân chung khiến các bậc cha mẹ đi tìm lời khuyên từ các bác sĩ của gia
đình hoặc từ các bác sĩ nhi khoa. Do sự giao tiếp ở con người là phức tạp, nên việc
đánh giá và chẩn đoán những khó khăn của trẻ về ngôn ngữ và lời nói thường là vấn
đề có nhiều thách thức, đòi hỏi ý kiến của chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau như: ngôn ngữ học, thính học, phát triển trẻ em, tâm lý học thần kinh, thần
kinh học nhi và tâm thần học.
Ở những trẻ bình thường, khả năng nắm vững ngôn ngữ diễn ra theo 3 giai
đoạn căn bản sau [22, tr.138]:
- Giai đoạn tiền ngôn ngữ (từ 0 cho đến 12, 13 tháng, đôi khi là 18 tháng):
bắt đầu từ những tiếng kêu không có ý nghĩa nào khác ngoài biểu đạt sự
khó chịu về mặt sinh lý, dần dần những tiền đề của giao tiếp giữa trẻ và
môi trường xung quanh được hình thành. Trên thực tế, những tiếng kêu

này biểu đạt một sắc thái cảm giác của trẻ đòi mẹ phải đáp ứng (giận dữ,
đau đớn, bứt rứt, thỏa mãn, khoái cảm).
- Giai đoạn ngôn ngữ của trẻ bé (từ 10 tháng đến 2 tuổi rưỡi – 3 tuổi): những
từ đầu tiên thường xuất hiện trong tình huống “lắp lời nói”, nghèo nàn về
ý, nghĩa nhưng dễ phát âm. Vào khoảng 12 tháng tuổi, một đứa trẻ có thể
học được 5 đến 10 từ; đến 2 tuổi, vốn từ vựng của trẻ có thể đạt đến 200
từ. Số lượng từ được tích lũy gia tăng theo độ tuổi. Việc hiểu bị động luôn
xảy ra trước sự biểu đạt chủ động; có nghĩa là, trẻ có thể hiểu được một
số lượng từ lớn hơn rất nhiều so với việc trẻ nói các từ.
Ở giai đoạn “từ-câu”, trẻ dùng một từ mà ý nghĩa của nó phụ thuộc vào
điệu bộ, cử chỉ hay hoàn cảnh cụ thể. Ngôn ngữ luôn đi kèm với hành
động, củng cố hành động, nhưng vẫn chưa thay thế được hành động.
Khoảng 18 tháng tuổi, các câu đầu tiên xuất hiện; trẻ bắt đầu học nói phủ
định.

-

Ở giai đoạn này, vai trò của gia đình là rất quan trọng bởi nó là nơi trẻ
được tắm mình trong “biển ngôn ngữ” và học nói ngôn ngữ. Nếu thiếu
vắng sự tác động ngôn ngữ, vốn từ của trẻ trở nên nghèo nàn hoặc trẻ trở
nên chậm trễ trong việc học nói.
Giai đoạn ngôn ngữ (bắt đầu từ 3 tuổi): là giai đoạn dài nhất và phức tạp

9


nhất trong việc nắm vững ngôn ngữ, được đánh dấu bởi sự phong phú cả
về chất lượng và số lượng (khoảng từ 3 tuổi rưỡi đến 5 tuổi, trẻ có thể sở
hữu 1.500 từ mà không phải lúc nào cũng biết chính xác ý nghĩa của từ).
Đồng thời, ngôn ngữ dần trở thành phương tiện để hiểu biết, một sự thay

thế kinh nghiệm trực tiếp. Sự rườm rà cùng với hành động và/hoặc cử chỉ,
điệu bộ dần dần biến mất.
Nói cách khác, các rối loạn ngôn ngữ ở trẻ em thường đóng vai trò quan
trọng cả về ý nghĩa lẫn lý do đến thăm khám của gia đình, đặc biệt là những gia
đình có trẻ từ 4 đến 8 tuổi. Đây là giai đoạn trẻ học ngôn ngữ nói và chuẩn bị cho
việc học đọc và học viết. Sự ảnh hưởng tới những tương tác giữa trẻ và môi trường
(gia đình, trường học, bạn bè) bỗng nhiên có thể xảy đến nếu các rối loạn trở nên
nghiêm trọng và dẫn tới các khó khăn tâm lý khác nhau. Do đó rất khó kể đến các
rối loạn phản ứng thứ phát và những khó khăn ban đầu.
Nghiên cứu về CPTNN ở trẻ em đòi hỏi phải có một nền tảng kiến thức về sự
phát triển ngôn ngữ bình thường, ở cả khía cạnh sinh lý thần kinh (cơ quan cấu âm,
cấu trúc não, cơ quan thính giác bình thường) và khía cạnh tâm lý. Trong CPTNN,
một mặt, các lỗi gặp phải là không cố định; mặt khác, mỗi âm vị có thể được phát
âm chính xác nếu đứng một mình. Khi đối diện với những rối loạn về biểu đạt này,
sự phản ứng của gia đình là rất quan trọng, hoặc yêu cầu trẻ nhắc lại một cách kiên
trì, ngăn cản lời nói tự phát của trẻ, hoặc ngược lại không biết đến rối loạn này và để
cho trẻ tiếp tục chậm phát triển ngôn ngữ.
Trong các trường hợp trẻ CPTNN, người ta tìm thấy một sự kém tích hợp các
âm vị khác nhau cấu thành nên một từ: số lượng, thuộc tính và sự nối tiếp của chúng
có thể bị thay đổi. Không có ý nghĩa cho tới tận 5 tuổi, sự dai dẳng của việc kém
tích hợp khi trẻ trên 5 tuổi báo hiệu một rối loạn về tích hợp và học lời nói, và cần
thiết phải có một tiếp xúc trị liệu đối với trẻ. Về mặt lý thuyết, CPTNN không đi
kèm những bất thường về cú pháp, mà thực tế, nó thường kết hợp với sự chậm ngôn
ngữ.
Chậm ngôn ngữ đơn thuần được đặc trưng bởi sự tồn tại những rối loạn ngôn ngữ ở
một đứa trẻ không có dấu hiệu chậm phát triển trí tuệ, cũng không có tật điếc nặng hoặc bị
loạn thần. Cấu trúc câu, tổ chức cú pháp thường bị nhiễu loạn. Về mặt lâm sàng, yếu tố căn
bản chính là việc chậm xuất hiện câu nói đầu tiên ở khoảng sau 3 tuổi, tiếp theo một giai
đoạn “nói theo kiểu trẻ sơ sinh” kéo dài. Những bất thường được tìm thấy thường đa dạng:
rối loạn trong trật tự các từ của một câu, các lỗi cấu trúc ngữ pháp, động từ dùng ở nguyên


10


thể, khó khăn trong dùng đại từ nhân xưng. Người ta cũng tìm thấy sự bỏ sót từ, các lỗi liên
kết, các từ ngữ phản quy tắc, ... Về mặt nguyên tắc, việc hiểu điều trẻ muốn diễn đạt không
khó, nhưng việc đánh giá mức độ phát triển ngôn ngữ ở trẻ bé đôi khi khó khăn.

Phần lớn các thuật ngữ được dùng để mô tả những trẻ có rối loạn lời nói là:
loạn khớp nối chức năng và loạn phát triển âm vị, rối loạn đa âm vị, CPTNN... Theo
một số tác giả, có hai dạng căn bản trong rối loạn lời nói ở trẻ mà cho đến giờ vẫn
chưa tìm được nguyên nhân: đó là CPTNN và những lỗi dôi dư không chắc chắn,
trong đó CPTNN có tính di truyền, còn lỗi dôi dư không chắc chắn gia tăng do tác
động của các biến môi trường, [21]. Trên thực tế, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về
CPTNN ở trẻ trên khắp thế giới như Beitchman, Nair, Clegg, Patel (1986); St.
Louis, Ruscello và Lundeen (1992); Silva, Justin, McGee và Williams (1984),
[17;26;24]… Những phê phán về phương pháp luận bao gồm các vấn đề liên quan
tới mẫu khách thể nghiên cứu, phương pháp đánh giá hoạt động lời nói, cũng như hệ
thống và các tiêu chí phân loại trẻ có rối loạn lời nói có ý nghĩa về mặt lâm sàng.
Theo Beitchman và cs. (1986), “sự thiếu một hệ thống phân loại phổ quát về các rối
loạn lời nối và ngôn ngữ ... là một rào cản lớn đối với việc phát triển các đánh giá
thường gặp hữu ích và chính xác” [17, tr.98]. Các nghiên cứu ở Mỹ, Canada, New
Zealand và Anh được thực hiện trên trẻ từ 5 đến 8 tuổi. Kết quả của các nghiên cứu
này cho thấy rằng CPTNN thường đi kèm với các thiếu hụt đặc hiệu về ngôn ngữ.
Tỷ lệ trẻ CPTNN giảm dần theo độ tuổi: 11% ở trẻ 5 tuổi, 9,7% ở trẻ 6 tuổi, 6,5% ở
trẻ 7 tuổi và chỉ còn 2-3% ở trẻ 8 tuổi, trong đó, tỷ lệ những trẻ sống ở thành thị bị
CPTNN cao hơn những trẻ sống ở nông thôn. [17], [19], [24], [21, tr.1461-1481]
Một nghiên cứu của Ishikawa, Kajii, Sakuma & Saitoh (1982) trên 155 trẻ
CPTNN ở Nhật cho thấy, về mặt bản chất, việc đánh giá tổng thể hiện tượng
CPTNN ở trẻ liên quan đến các vấn đề về thần kinh, thính giác, xúc cảm và xã hội.

Các trẻ này đều ở độ tuổi từ 3 đến 8 tuổi, tuy nhiên, phần lớn các trẻ khi được bố mẹ
đưa đến thăm khám tại bệnh viện do nhiều nguyên nhân khác nhau thường là dưới 3
tuổi. Nguyên nhân chính khiến bố mẹ đưa con đến khám thường là chậm phát triển
tâm thần hoặc không rõ bệnh căn, còn lại là các nguyên nhân khác như tự kỷ, nghe
kém, hội chứng giảm chức năng não, ...), trong số này có những trẻ phát triển bình
thường. Đối với những trẻ phát triển bình thường, khi xem xét tiểu sử sinh, các tác
giả này phát hiện có 33% trường hợp CPTNN cho thấy những rắc rối ở thời kỳ thứ
hai của thai kỳ (bị ngạt, hút chân không, cân nhẹ, ...).[20, tr. 57- 61]
Theo bảng phân loại bệnh DSM – IV của Hội tâm thần học Hoa Kỳ, một

11


tương phản rõ ràng được rút ra giữa các rối loạn phát triển đặc hiệu và các rối loạn
phát triển lan tỏa khi nói tới sự CPTNN và lời nói. Có hai đặc trưng quan trọng dẫn
đến sự phân biệt này. Đặc trưng thứ nhất chính là đặc trưng về sự suy yếu: trong các
rối loạn phát triển đặc hiệu, người ta tìm thấy sự suy yếu của một lĩnh vực cụ thể,
trong khi các rối loạn phát triển lan tỏa cho thấy sự suy yếu ở nhiều vùng chức
năng. Đặc trưng thứ hai đó là bản chất của sự suy yếu: rối loạn phát triển đặc hiệu
có nguyên nhân từ sự chậm phát triển chứ không phải từ sự bất thường, trong khi
các rối loạn phát triển lan tỏa xuất phát từ những lệch chuẩn hành vi vốn không bình
thường ở bất kỳ giai đoạn phát triển nào.
Theo cách phân biệt này, sự chẩn đoán về rối loạn phát triển ngôn ngữ đặc
hiệu là thích hợp khi ngôn ngữ của trẻ chậm hơn so với độ tuổi, sự phát triển của trẻ
vẫn diễn ra bình thường ở những lĩnh vực khác và không có yếu tố được quan sát
thấy cho sự chậm ngôn ngữ (chẳng hạn môi trường gia đình hoàn toàn bất thường,
chậm phát triển nói chung, mất thính giác hoặc tổn thương thần kinh).
Các yếu tố nguy cơ gây ra CPTNN ở trẻ được một số tác giả liệt kê như sau:
-


CPTNN thường xuất hiện ở trẻ trai nhiều hơn ở trẻ gái: cứ 3, 4 trẻ trai
CPTNN thì có một trẻ gái CPTNN

-

Tiểu sử gia đình của những trẻ CPTNN: 30% trẻ CPTNN có bố/mẹ
CPTNN. Có khoảng 3% đến 10% trẻ CPTNN trong tổng dân số nói
chung.[27, tr.297 – 324]

-

Trẻ CPTNN thường là những trẻ được sinh ra muộn hơn trong một gia
đình lớn

-

Một số tác động về yếu tố y học cũng có thể ảnh hưởng đến sự CPTNN
như bệnh viêm tai giữa, cân nặng tăng chậm, nhưng vẫn không có đủ
bằng chứng chứng minh chúng là những yếu tố chính gây ra rối loạn phát
triển ngôn ngữ đặc hiệu. Ngoài ra, cũng có những yếu tố liên quan đến
gen di truyền trong gia đình. Bên cạnh đó là cả yếu tố môi trường cũng có
tác động tới việc CPTNN ở trẻ.

-

Những khó khăn về lời nói thường tương đối dễ nhận biết, nhưng lại đòi
hỏi phải có các chuyên gia đánh giá.

-


Ở trẻ trước tuổi đến trường, các bệnh lý về ngôn ngữ nói tạo nên một
nhóm tương đối lớn trong số các rối loạn phát triển nhận thức; nó chiếm
tỷ lệ từ 2% đến 12%. Ở đây cần phân biệt nhóm rối loạn này với các rối
loạn phát triển phân ly (hoặc rối loạn đặc hiệu, hoặc chứng khó đọc, viết)

12


và các rối loạn thứ phát (như trong một hoàn cảnh nhất định, đó là rối
loạn cảm xúc thần kinh có nguồn gốc trước, trong và sau sinh, hoặc từ
các dạng châm phát triển hoặc thiếu hụt cảm giác).
Ở những trẻ bé, sự chẩn đoán sai biệt này có thể khó hình thành. Trên thực
tế, đối với phần lớn trẻ, và theo một cách hoàn toàn bình thường, việc nắm vững
ngôn ngữ không phải là một quá trình phát triển liên tục; nó bao gồm những bước
tiến triển, bước thụt lùi, những giai đoạn tăng trưởng lúc nhanh, lúc chậm và thường
bao gồm cả những thoái lui, là kết quả của “việc làm ổn định có lựa chọn các khớp
nối” [19, tr. 268 – 293].
Theo một nghiên cứu mới đây về trẻ CPTNN, cha mẹ cần chú ý rằng trẻ
không theo kịp bạn bè cùng tuổi là do bởi hiện tượng thiểu năng ngôn ngữ kéo dài
liên quan tới các vấn đề sức khỏe tâm thần. Andrew Whitehouse và đồng nghiệp tại
Đại học Tây Úc (2011) đã theo dõi những trẻ CPTNN cho đến tuổi thiếu niên và
nhận thấy rằng những đứa trẻ này không còn cảm thấy e thẹn, trầm cảm hay hung
hăng so với bạn bè cùng trang lứa khi chúng lớn lên. Theo nhóm nghiên cứu này,
“Hiện tượng chậm diễn đạt bằng từ vựng khi trẻ lên hai tuổi không phải là một yếu
tố nguy cơ gây ra những vấn đề rắc rối về hành vi và cảm xúc sau này”. Điều này
đồng nghĩa với phương pháp tiếp cận “chờ xem” có thể mang lại những kết quả tốt
đẹp với những bé CPTNN nếu chúng phát triển bình thường trong các lĩnh vực
khác. Trong một số kiểu tự kỷ, các rối loạn hành vi như rối loạn ngôn ngữ có thể
xuất hiện muộn chỉ vào khoảng 2 đến 3 tuổi, dưới dạng một thoái lui những thành
tích đạt được. Một yếu tố sai biệt quan trọng nằm trong khái niệm khoảng trống;

cho phép tách biệt một mặt là những trẻ mà ngôn ngữ và thậm chí là cả tiền ngôn
ngữ đã sai lệch ngay từ đầu, [21]; mặt khác là những trẻ mà ngôn ngữ cho thấy tình
trạng hư hại, thậm chí là đứt gãy quá trình nắm vững ngôn ngữ, diễn ra đột ngột và
thường có nguồn gốc thương tổn. Phần lớn các rối loạn ngôn ngữ xuất hiện sau
khoảng trống được hình thành bởi một nhóm các chứng mất ngôn ngữ ở trẻ.
Khoảng 7 – 18% trẻ em bị CPTNN lúc hai tuổi, mặc dù đến tuổi bắt đầu đi
học, hầu hết trẻ trong diện này sẽ theo kịp bạn bè. Một số nghiên cứu cho rằng
những bé CPTNN có thể gặp các vấn đề tâm lý. Tuy nhiên, việc các vấn đề này có
ảnh hưởng tới tương lai trẻ hay không vẫn còn chưa được xác định rõ. Nhóm nghiên
cứu của Whitehouse đã tiến hành theo dõi hơn 1400 trẻ hai tuổi. Bố mẹ chúng đã
điền một phiếu khảo sát về những từ ngữ trẻ tự nói ra. Theo Whitehouse và cộng sự,
những dấu hiệu cho thấy nguyên nhân những trẻ CPTNN hơn có các vấn đề về hành

13


vi ở giai đoạn đầu đời có lẽ là do chúng cảm thấy thất vọng vì không thể giao tiếp
hiệu quả, chứ không phải do chúng có vấn đề về sức khỏe.
Trong mọi trường hợp, giai đoạn từ 3 đến 6 tuổi đánh dấu nguy cơ cắm chốt
các rối loạn ngôn ngữ. Để đánh giá và can thiệp trị liệu các trường hợp CPTNN ở
trẻ, phần lớn các tác giả đều đề cập đến các thang đo, trắc nghiệm đánh giá mức độ
phát triển ngôn ngữ ở trẻ như: thang phát triển ngôn ngữ Bristol, trắc nghiệm
Vineland, bảng tổng kê sự phát triển giao tiếp của McArthur…
2.2 Tổng quan lịch sử nghiên cứu, can thiệp về trẻ chậm phát triển ngôn
ngữ tại Việt Nam
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, theo các thống kê chưa đầy đủ, xu
hướng trẻ CPTNN có chiều hướng gia tăng mạnh, đặc biệt ở các thành phố lớn. Tại
các bệnh viện Nhi, số trẻ CPTNN, mắc bệnh tự kỷ hoặc tăng động giảm chú ý phải
điều trị bán trú thường xuyên rơi vào tình trạng quá tải, cao gấp đôi so với quy định.
Ở các bệnh viện tai mũi họng, lượng bệnh nhi CPTNN cũng khá cao, khoảng 100

trẻ/tháng, trong đó, 30% trường hợp bị CPTNN do yếu tố tâm lý.
Khi trẻ CPTNN, các bậc cha mẹ thường chủ quan, không đưa con đến các cơ
sở y học - tâm lý để thăm khám và điều trị, mà tự ứng phó bằng những phương thức
cá nhân. Các phương thức ứng phó tâm lý được các bậc cha mẹ sử dụng nhiều nhất
khi con CPTNN là:
- Cho rằng trước sau con cũng sẽ nói được nên để con tự phát triển.
- Mời chuyên gia về dạy nói cho con và trông cậy toàn bộ vào các chuyên
gia. - Khi con bị CPTNN, nhiều bố mẹ thường tin vào những ý nghĩ nguyện
ước. Cầu nguyện hoặc tín ngưỡng cũng được xem như những chiến lược
ứng phó. Niềm tin tôn giáo cũng có liên quan rõ rệt đến việc sử dụng
phương thức ứng phó tích cực.
- Tăng cường nhận thức, tìm kiếm thông tin: phương thức này làm tăng thêm
thông tin, giúp bố mẹ nâng cao kiến thức về y học, thường rất hiển nhiên
tập trung xoay quanh chẩn đoán về bệnh của đứa trẻ.
- Dự đoán và quy gán bệnh cho con: như con bị tự kỷ, tăng động, ... Đây là
phương thức mà các bố mẹ thường làm.
Một đứa trẻ CPTNN có thể phải đấu tranh để nói ra nhu cầu của mình và
mong muốn được biết đến thông qua điệu bộ, cử chỉ, hành vi hoặc khóc. CPTNN
khiến bố mẹ chịu đựng sự ngăn cách của đứa trẻ và cảm thấy bất lực khi cố gắng
xác định những mong muốn của trẻ.

14


CPTNN ở trẻ em được chia thành hai loại, CPTNN đơn thuần và CPTNN tự
kỷ. Hiện tượng CPTNN đơn thuần là do bị rối loạn trong phát triển ngôn ngữ. Còn
trẻ tự kỷ thường bị CPTNN, không hiểu ngôn ngữ, sống với một thế giới riêng, tách
biệt với thế giới xung quanh.
Đối với các nhà chuyên môn Việt Nam, CPTNN đơn thuần là chứng suy giảm ngôn
ngữ và khả năng phát triển ngôn ngữ khá phổ biến ở trẻ em. Đây là một trạng thái rối nhiễu

tâm lý thường để lại nhiều hậu quả; đồng thời, ở một góc độ nào đó, chứng CPTNN ở trẻ
gửi tới người lớn một thông điệp ngầm ẩn về những khó chịu, về sự đau khổ tâm trí mà trẻ
đang phải chịu đựng. Mặc dù trẻ CPTNN có trí tuệ phát triển bình thường, nhưng do không
thể biểu hiện hay bộc lộ ra bằng ngôn ngữ thông thường nên dễ cáu giận và căng thẳng. Sự
thiếu hụt chăm sóc và những giao tiếp hàng ngày của bố mẹ với trẻ được xem là nguyên
nhân hàng đầu về mặt tâm lý dẫn tới việc CPTNN ở trẻ em.

Giống như mọi dạng khuyết tật khác, nguyên nhân của CPTNN tương đối
khó nhận dạng. Tuy nhiên, khi đánh giá y khoa những trẻ này, các bác sĩ tìm hiểu
quá trình người mẹ mang thai cũng như sự phát triển của trẻ và tìm ra những yếu tố
bất thường. Có trẻ CPTNN vốn là một đứa trẻ được sinh non, có trẻ do bị sốt cao co
giật, bị ngã chấn thương hoặc bị bất cứ một vấn đề gì gây rối loạn, tổn thương thực
thể (vỏ não, hoặc cơ quan phát âm “tai, mũi, họng”), thiếu vắng giao tiếp hai chiều
trong giai đoạn từ 0 -2 tuổi …
Bên cạnh đó, có nhiều yếu tố tác động khác khiến cho quá trình phát triển
ngôn ngữ của trẻ chậm lại:
-

-

Trẻ xem ti vi quá nhiều, bố mẹ ít nói chuyện với con, khiến cho trẻ chỉ
nhận thông tin một chiều, không có sự phản hồi lại những thông tin nhận
được từ ti vi, như vậy trong một thời gian dài sẽ làm trẻ CPTNN;
Trẻ suy dinh dưỡng, thiếu tình thương của bố mẹ, trẻ bị ngược đãi;

-

Bố mẹ phó mặc con cho người giúp việc, vì lo làm công việc trong nhà
nên không có thời gian trò chuyện với trẻ, trẻ không có cơ hội được nói;


-

Trẻ bị tách ra khỏi môi trường xung quanh, không có cơ hội giao lưu, bắt
chước;

- Trẻ xuất thân từ gia đình có “truyền thống” chậm phát triển ngôn ngữ.
Thực trạng chẩn đoán bệnh cho trẻ em khuyết tật tinh thần nói chung và trẻ
em CPTNN nói riêng ở Việt Nam còn mang tính hình thức, mang tính kinh nghiệm
và chưa chính xác. Các công cụ chẩn đoán mới chỉ dựa vào một số trắc nghiệm có
sẵn, chủ yếu là trắc nghiệm Denver – trắc nghiệm đo sự phát triển tâm vận động ở

15


trẻ. Test Denver là công cụ nhằm đánh giá sự phát triển toàn diện của trẻ so với
thang tuổi của trẻ dựa trên 4 lĩnh vực: (1) Cá nhân-xã hội → (2) Vận động tinh tế →
(3) Ngôn ngữ → (4) Vận động thô sơ. Với trẻ CPTNN mà khả năng nhận thức của
trẻ như những trẻ bình thường ta chỉ cần đánh giá sự phát triển ngôn ngữ của trẻ ở
lĩnh vực thứ 3: ngôn ngữ để xác định lại mức độ và vấn đề của trẻ.
Theo chuyên viên tâm lý Lê Khanh - Biên soạn theo tài liệu của Gs. Nguyễn
Văn Thành – Thụy Sĩ có 12 nguyên tắc cơ bản mà các bậc phụ huynh tùy theo tình
trạng chậm nói của trẻ có thể áp dụng:
1. Giúp trẻ xây dựng mối quan hệ gắn bó
2. Giúp trẻ bày tỏ nhu cầu
3. Giúp trẻ tham gia các hoạt động Tâm vận động
4. Trò chơi “Bập bẹ - líu lo” vận dụng các cơ quan phát âm của trẻ
5. Lặp lại một số âm thanh và từ ngữ có trong ngôn ngữ bình thường
6. Giúp trẻ biết cách lắp ráp, kết hợp và sắp xếp các dụng cụ, hình ảnh và
ngôn từ lại với nhau
7. Giúp trẻ nghe và hiểu một số từ thông thường, qua việc thi hành những

mệnh lệnh đơn sơ
8. Giúp trẻ gọi tên từ 25 – 100 đồ dùng và các hoạt động thường ngày
9. Giúp trẻ hiểu biết và nói về các hoạt động trong gia đình
10. Biết trả lời các câu hỏi
11. Giúp trẻ nhận biết và sử dụng chữ và số
12. Xây dựng mối quan hệ tốt và giúp trẻ biết chơi đùa với bạn bè.
Việc chẩn đoán phân biệt chưa được xem trọng nên đôi khi những trẻ chỉ
CPTNN do thiếu hụt môi trường giao tiếp hai chiều ở giai đoạn từ 0 đến 2 tuổi đã có
thể bị liệt kê vào tình trạng của trẻ tự kỷ.
Việc CPTNN ở trẻ gây những lo lắng không nhỏ cho gia đình và ảnh hưởng nhiều
đến sự phát triển tâm lý của trẻ. Thêm nữa, các nghiên cứu ở góc độ khoa học tâm lý về trẻ
chậm phát triển ngôn ngữ hiện nay chưa nhiều và thường dừng ở góc độ các nghiên cứu
trong lĩnh vực giáo dục đặc biệt do quan niệm trẻ CPTNN là trẻ khuyết tật.

3. Ý nghĩa của vấn đề can thiệp
Quá trình và kết quả can thiệp cho thấy các nỗ lực của NV CTXH trong hoạt
động hỗ trợ trẻ CPTNN trong môi trường hòa nhập tại các cơ sở giáo dục. Từ kết
quả nghiên cứu của đề tài để thấy được mặt tích cực của NV CTXH trong vai trò hỗ
trợ hòa nhập cho trẻ CPTNN tại các trường mầm non.

16


4. Mục đích can thiệp
Tìm hiểu những khó khăn của trẻ CPTNN đươc ̣ nghiên cứu thưc ̣ tiêñ trong
đề tài và ứng dụng phương pháp CTXH với cá nhân để can thiêp ̣ hỗtrơ ̣ cho trẻ
CPTNN đểthấy đươc ̣ vai trò của NV CTXH trong hoạt động hỗ trợ hòa nhập cho trẻ
CTPNN. Từ đó NV CTXH có biện pháp hỗ trợ trẻ phù hợp và đưa ra một số đề xuất
cho việc giáo dục hòa nhập cho nhóm trẻ này.
5. Khách thể và vấn đề cần can thiệp

5.1 Khách thể can thiệp
Trẻ CPTNN và các nhân viên CTXH làm việc tại trường Mầm non
5.2 Vấn đề cần can thiệp
Vai trò của nhân viên Công tác xa h ̃ ôị
phát triển ngôn ngữ tại trường Mầm non.

trong hỗ trợ hòa nhập cho trẻ chậm

6. Phƣơng pháp can thiệp
- Phương pháp CTXH với cá nhân: Tác giả tiến hành can thiệp cá nhân trên 2
trẻ CPTNN. Từ kết quả thực nghiệm , tác giả tổng kết vai trò hỗ trợ của NV CTXH
đối với việc giáo dục hòa nhập cho trẻ CPTNN . Tiến trinh can thiêp ̣ cua phương
pháp CTXH với cá nhân gồm 7 bươc sau:

̀̀

̀̉

̀́

Bước 1: Tiếp cận thân chủ:
Tiếp cận thân chủ là bước đầu tiên có thể là thân chủ tự tìm đến với nhân viên
xã hội khi họ gặp vấn đề và cần sự giúp đỡ, song trong một chừng mực nào đó cũng
có thể chính nhân viên xã hội lại là người tìm đến với thân chủ trong phạm vi hoạt
động theo chức năng của mình. Ở bước tiếp cận này nếu nhân viên xã hội tạo được
ấn tượng tốt với thân chủ thì những bước sau sẽ thuận lợi hơn.
Bước 2: Xác định vấn đề:
Sau khi tiếp cận với thân chủ nhân viên xã hội phải xác định được vấn đề thân
chủ đang gặp khó khăn trong việc tìm ra hướng giải quyết. Trong giai đoạn này
nhân viên xã hội cần thu thập thông tin nhằm xác định 3 yếu tố liên quan tới vấn đề

của thân chủ và có ảnh hưởng tới kết quả của quá trình can thiệp cho thân chủ đó là:
yếu tố rào cản, yếu tố rủi ro nguy cơ và yếu tố bảo vệ. Giai đoạn này bao gồm:
- Thu thập các dữ liệu, thông tin liên quan để tìm hiểu hoàn cảnh và vấn đề.
- Phân tích các thông tin, dữ liệu (về tính chất, đặc điểm của vấn đề, phân tích
nguyên nhân, yếu tố tác động, mức độ trầm trọng...)
- Kết hợp ghi chép, lưu giữ những thông tin cần thiết về đối tượng và vấn đề.

17


Bước 3: Thu thập dữ liệu:
Nhân viên xã hội có thể dựa vào 4 nguồn tin:
- Chính thân chủ là nguồn tin trực tiếp (lời kể, hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ...)
- Những nguời có quan hệ thân thiết như gia đình, bạn bè thân, đồng nghiệp,
hàng xóm...
- Tài liệu, biên bản, hồ sơ về thân chủ có liên quan đến vấn đề.
- Trắc nghiệm tâm lý để xác định chức năng xã hội,nguyên nhân, thông tin
tiềm ẩn mà quan sát bình thường không có được của thân chủ.
Bước 4: Chuẩn đoán:
Gồm 3 bước: Chẩn đoán, phân tích và thẩm định.
Bên cạnh đó còn sử dụng các phương pháp như: phương pháp thu thập thông
tin tại cơ sở, phương pháp quan sát địa bàn và các nhóm thân chủ tại cơ sở thực tập,
tham vấn cá nhân và các kỹ năng trong công tác xã hội như: kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng lắng nghe, kỹ năng quan sát, kỹ năng tự bộc lộ, kỹ năng hỗ trợ tâm lý, tham
vấn, xử lý khủng hoảng.
Bước 5: Lên kế hoạch can thiệp:
Trong giai đoạn này NV CTXH sẽ xác định mục đích trị liệu và các mục tiêu
cụ thể để đạt được mục đích dựa trên những yếu tố liên quan tới vấn đề và quá trình
giải quyết vấn đề cho thân chủ.
Bước 6: Can thiệp:

NV CTXH cùng với thân chủ thực hiện các hoạt động cụ thể để đi đến mục
tiêu đề ra.
Bước 7: Lượng giá:
Xem xét lại toàn bộ những bộ phận trong tiến trình công tác xã hội với cá nhân
để thẩm định kết quả. Sau khi lượng giá phải nhìn về tương lai gần để phục vụ cho
việc hình thành một số kế hoạch sâu hơn giúp đỡ của công tác xã hội trong tiến
trình công tác xã hội cá nhân.
- Phương pháp xin ý kiến chuyên gia: Xin ý kiến chuyên gia trong lĩnh vực
trẻ CTPNN nhằm kiểm định lại các phương pháp mà tác giả đã sử dụng để hoàn
thành đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát thực tiễn: Phương pháp này được sử dụng trong đề
tài nghiên cứu nhằm quan sát những hành vi, kỹ năng, sự tương tác của trẻ với bạn
học, cô giáo, người hỗ trợ khi tham gia các hoạt động học tập, vui chơi trong môi
trường mẫu giáo để phát hiện khả năng giao tiếp, tương tác của trẻ.

18


- Phương pháp trò chuyện: Phương pháp này giúp NV CTXH có thể trò
chuyện, trao đổi thông tin với nhóm cha mẹ trẻ và những giáo viên dạy trẻ, giao tiếp
với trẻ nhằm tìm hiểu thông tin về trẻ CPTNN để thấy được mức độ hòa nhập của
trẻ đang ở mức độ nào từ đó có biện pháp hỗ trợ tích cực đồng thời thu thập dữ liệu
cần thiết cho quá trình nghiên cứu.
- Các thang đánh giá: Test CARS, test DENVER II, PEP 3 , BAYLEY (Xem
thêm phần phu l ̣ uc ̣)
7. Phạm vi của vấn đề can thiệp
7.1. Phạm vi thời gian
- Thời gian tiến hành can thiệp từ tháng 9 năm 2013 đến hết tháng 6 năm 2014
- NV CTXH trực tiếp đến trường cùng trẻ để hỗ trợ các hoạt động học và
chơi với thời gian 3 buổi/ tuần

7.2. Phạm vi không gian
- Nghiên cứu được tiến hành trên địa bàn thành phố Hà Nội và tập trung tại
khu vực Mỹ Đình – Từ Liêm – Hà Nội
7.3 Giới hạn nội dung can thiệp
Do hạn chế về thời gian nghiên cứu, thực nghiệm nên trong đề tài này tác giả
xin tập trung vào hai vai trò của Nhân viên Công tác xã hội là người giáo viên can
thiệp trực tiếp và vai trò là người kết nối các nguồn lực trong quá trình can thiệp cho
thân chủ, áp dụng phương pháp Công tác xã hội với cá nhân thông qua các hoạt
động như ngôn ngữ giao tiếp, kỹ năng xã hội (kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng chơi độc
lập, kỹ năng chơi nhóm…).
Nghiên cứu được tiến hành trên 2 trẻ (Nguyễn M – bé gái và Lưu T.Đ – bé
trai) được chẩn đoán CPTNN đã từng học chuyên biệt tại Trung tâm Nắng Mai – Từ
Liêm – Hà Nội và có kết quả học tập tiến bộ và hiện nay đang theo học hòa nhập tại
là trường Mầm non Kid’s Color (Mỹ Đình).
Tác giả lựa chọn 2 trẻ là nam và nữ có cùng độ tuổi để can thiệp vì sự phát
triển về ngôn ngữ giữa bé trai và bé gái có sự khác nhau. Ở bé gái kỹ năng ngôn ngữ
thường tốt hơn bé trai. Nhiều chuyên gia đã chứng minh được rằng ở cùng một độ
tuổi nhưng não của bé trai và bé gái có tốc độ phát triển khác nhau. Ở bé gài vùng
kiểm soát ngôn ngữ và cảm xúc phát triển mạnh hơn, vì các bé gái thường rất nhạy
cảm, đặc biệt là sự vận động tinh tế của các ngón tay, hay sự cử động của cơ miệng.
Còn ở các bé trai khả năng thị lực lại có phần phát triển mạnh mẽ hơn. Bé trai thích
vận động, chạy nhảy, nô đùa hơn là việc tập trung vào ngôn ngữ.

19


NỘI DUNG CHÍNH
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ
LUẬN 1.1 Các khái niệm công cụ
1.1.1 Khái niệm Chậm phát triển ngôn ngữ

Ngôn ngữ là hệ thống ký hiệu (âm thanh hoặc chữ viết) dưới dạng từ ngữ chứa đựng ý
nghĩa nhất định (tượng trưng cho sự vật, hiện tượng cũng như thuộc tính và các mối quan hệ
của chúng) được con người quy ước và sử dụng trong quá trình giao tiếp. [3, tr.222]

Ngôn ngữ có hai dạng chính là ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Đối với một trẻ bình thường sẽ bắt đầu bập bẹ một số từ đơn lúc 12 -15
tháng. Chậm phát triển ngôn ngữ là sau 16 tháng trẻ chưa nói được từ đơn và sau 24
tháng trẻ chưa nói được câu 2-3 từ. Trẻ cũng có thể bắt đầu nói muộn hơn khi bắt
đầu nói từng từ đơn lúc 4-5 tuổi. Những từ đầu tiên của trẻ nhiều khi không rõ,
ngọng nghịu. Trẻ càng bị chậm phát triển trí tuệ thì học nói càng muộn.
1.1.2 Khái niệm Vai trò của Nhân viên Công tác xã hội trong hỗ trợ hòa
nhập cho trẻ chậm phát triển ngôn ngữ
Có rất nhiều khái niệm về các vai trò khác nhau của NV CTXH với mỗi vị trí
khác nhau trong hoạt động can thiệp. Tuy nhiên mỗi thân là một trường hợp có những
đặc điểm riêng do vậy chưa có một khái niệm cụ thể nào cho mỗi vai trò cụ thể của NV
CTXH. Ví dụ, đối với vai trò là giáo viên chúng ta có thể hiểu NV CTXH sẽ là người
tham gia trực tiếp vào quá trình giáo dục cho thân chủ với tư cách như là một giáo viên
có đủ kỹ năng và được đào tạo chuyên môn trong lĩnh vực cụ thể đó. Vậy trong đề tài
này, NV CTXH với vai trò là giáo viên sẽ trực tiếp lên lớp và tiến hành dạy học, hướng
dẫn thân chủ về kiến thức, kỹ năng cho thân chủ của mình tại trường mầm non.
Tuy nhiên do thân chủ xuất phát điểm là trẻ chậm phát triển ngôn ngữ đi học
hoà nhập tại môi trường bình thường nên không thể tránh khỏi những khó khăn mà bản
thân trẻ chưa thể ứng phó ngay được. Chính vì vậy, trẻ cần sự hỗ trợ hoà nhập từ phía
giáo viên, NV CTXH, nhà trường, gia đình và các bạn học. Như thế sự hỗ trợ hoà nhập
có thể hiểu “là thay đổi thái độ và thói quen của các cá nhân tổ chức và hiệp hội để các
em có thể tham gia một cách đầy đủ, bình đẳng và đóng góp vào cuộc sống của cộng
đồng mình, nền văn hóa của mình. Một xã hội hòa nhập là một xã hội trong đó mọi sự
khác biệt đều được tôn trọng và có giá trị, và xã hội đó có các chính sách và chương
trình nhằm xóa bỏ sự phân biệt đối xử thành kiến”, “giáo dục hòa nhập là một quá trình
bắt đầu từ việc xác định mọi rào cản trong và xung quanh nhà trường,


20


những gì cản trở việc học của các em, tới việc giảm bớt và xóa bỏ những trở ngại
này”. [14, tr.16]
Giáo dục hòa nhập là hệ thống giáo dục bao gồm tất cả các đối tượng học
sinh khác nhau. Điều này đồng nghĩa với việc nhóm trẻ khuyết tật và và TTK cũng
là một trong những đối tượng của giáo dục hòa nhập. “Điều này có nghĩa là tất cả
trẻ em có quyền được giáo dục mà không phải chịu bất kỳ sự phân biệt đối xử nào;
và mọi trẻ em phải có cơ hội học tập và phát triển như nhau, bất kể cha mẹ hay
người bảo hộ của các em thuộc chủng tộc gì, màu da gì, giới tính, ngôn ngữ, tôn
giáo, chính kiến, quốc tịch, nguồn gốc dân tộc, (....), khuyết tật, thành phần xuất
thân. Giáo viên đứng lớp có nhiệm vụ phải tìm ra những phương pháp sư phạm
thích hợp để giúp mọi trẻ em học theo khả năng tối đa của các em.” Năm 1994 tại
Hội nghị Quốc tế về giáo dục đặc biệt của UNESCO: “Những nước không có hoặc
có rất ít trường chuyên biệt nên thành lập các trường hòa nhập chứ không nên thành
lập trường chuyên biệt” [1, tr.12], [7, tr.29]
Với những lý giải cụ thể về CPTNN, về vai trò và giáo dục hoà nhập chúng ta
có thể hiểu ngắn gọn về khái niệm “Vai trò của Nhân viên Công tác xã hội trong hỗ trợ
hòa nhập cho trẻ chậm phát triển ngôn ngữ” là các tác động của những nhân viên xã
hội có trình độ chuyên môn, hoạt động có cơ sở khoa học nhằm trợ giúp/giúp đỡ trẻ
chậm biết nói có thể học tập, vui chơi, phát triển ngôn ngữ và các kỹ năng xã hội một
cách tự chủ, linh hoạt trong môi trường giáo dục bình thường với các trẻ cùng lứa tuổi.

1.1.3 Sự khác nhau giữa Nhân viên Công tác xã hội với một số ngành
nghề trong hoạt động can thiệp cho trẻ chậm phát triển ngôn ngữ
Ở nước ngoài việc trị liệu cho trẻ tự kỷ hoặc trẻ CPTNN thường có ít nhất 4
thành viên chính. Đó là: bác sĩ tâm thần Nhi, chuyên gia Tâm lý, giáo dục viên đặc
biệt, và NV CTXH. Ngoài ra có thể có thêm 2 vị trí của chuyên viên tâm lý lâm

sàng và chuyên viên chỉnh âm. Hiện nay, nhiều gia đình còn nhờ tới sự trợ giúp của
các chuyên gia dinh dưỡng để hỗ trợ trị liệu cho trẻ.
Bác sĩ tâm thần Nhi có trách nhiệm theo dõi tiến trình can thiệp của trẻ để
trao đổi, động viên hay nhắc nhở các thành viên trong nhóm trị liệu và chia sẻ các
vấn đề của trẻ với phụ huynh. Đây cũng được coi là người chị trách nhiệm chính về
kết quả của việc trị liệu. [5,tr.104]
Chuyên viên Tâm lý là người hiểu biết vàcó khả năng v ận dụng các phương
pháp can thiệp với sự thống nhất của nhóm. Chuyên viên này sẽ chịu trách nhiệm

21


trước nhóm về kết quả can thiệp của mình, cũng như có quyền đưa ra các yêu cầu
cần thiết cho hoạt động can thiệp. [5,tr.104]
Giáo dục viên đặc biệt là người dạy trẻ, theo dõi và hướng dẫn cho trẻ trong
các buổi học có thể được tổ chức trong nhà trường hay trong bệnh viện... Giáo dục
viên đặc biệt này là người có trách nhiệm củng cố những kết quả đạt được sau các
buổi can thiệp tâm lý, trao đổi với nhà Tâm vận động những thông tin về trẻ trong
thời gian trẻ sinh hoạt tại lớp và nhắc nhở, động viên phụ huynh của trẻ. [5,tr.104]
Nhân viên CTXH là người liên kết và thống nhất các quan điểm, tạo nên sự
thông hiểu giữa các thành viên. NV CTXH sẽ đến thăm gia đình trẻ, quan sát môi
trường sống của trẻ và đưa ra những góp ý về tổ chức, cách chăm sóc trẻ dựa trên
lịch hoạt động, đồng thời ghi nhận thái độ, phản ứng, mối tương tác giữa các thành
viên trong gia đình trẻ, để cùng với ê kíp trị liệu xây dựng kế hoạch can thiệp gia
đình theo lý thuyết Hệ Thống. [5,tr.104]
Ở Việt Nam, việc can thiệp cho trẻ CPTNN và trẻ tự kỷ chủ yếu có sự tham
gia của bác sĩ tâm thần Nhi hoặc chuyên gia tâm lý và giáo viên chuyên biệt. Trong
đó, giáo viên chuyên biệt có thể được đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng có
chuyên khoa về giáo dục đặc biệt, tâm lý và cả công tác xã hội. Do vậy, khi NV
CTXH làm việc với trẻ, họ không chỉ là người kết nối mà ở mỗi vị trí khác nhau họ

sẽ đảm nhận những vai trò cụ thể khác nhau và đều hướng tới mục đích là bảo vệ lợi
ích cao nhất của thân chủ, giúp thân chủ tự đương đầu và giải quyết vấn đề.
1.1.4. Nhận biết trẻ chậm phát triển ngôn ngữ. Nguyên nhân trẻ chậm
phát triển ngôn ngữ
1.1.4.1. Nhận biết trẻ chậm phát triển ngôn ngữ.
a. Các giai đoạn phát triển bình thường về ngôn ngữ của trẻ từ 0 – 9 tuổi
Bảng 1.1: Các giai đoạn phát triển ngôn ngữ của trẻ (từ 0 – 6 tuổi)
Giai
đoạn
tuổi
0–5
tháng

Đặc điểm
-Trẻ chăm chú nhìn vào người nói chuyện;
- Quay đầu về phía có tiếng động phát ra; Phân biệt được các tiếng động
khác nhau phát ra từ các vị trí khác nhau; Phát ra các âm thanh khi được
hỏi chuyện. Có thể đáp lại các âm thanh khi được hỏi: mỉm cười
-Tự chơi một mình với các âm thanh

22


6–11
tháng

1–1,5

-Biết phối hợp các hoạt động
-Theo dõi sự chuyển động của các vật theo các hướng khác nhau

-Hiểu một vài từ
- Nối kết các âm thanh để tạo nên vần
-Bắt chước gần đúng âm của người khác
-Dùng cử chỉ, điệu bộ nét mặt để giao tiếp
-Tạo ra được một vài âm gần giống với các phụ âm
-Tùy theo mỗi trẻ nhưng khi được khoảng mười một tháng hay một tuổi
trẻ nói được khoảng hai ba từ đơn khá rõ, có thể là: bố, bà. Thông thường
các trẻ thường bắt đầu bằng các âm phát ra bằng âm đầu môi như các p,
m, k. Và thông thường ở trẻ em gái độ tuổi nói thường xuất hiện sớm hơn
khoảng khi trẻ được tầm tám chín tháng tuổi. Còn ở trẻ em trai thường nói
chậm hơn trung bình trẻ nói được từ đầu tiên khi trẻ được khoảng một tuổi
thậm chí khi trẻ được mười ba, mười bốn tháng tuổi mới bập bập bẹ nói ê a
các âm không rõ. Các từ đầu tiên trẻ nói được thường là các từ thường có liên
quan đến người, đồ vật hoặc sự kiện xung quanh liên quan đến trẻ hoặc các
nhu cầu bản thân của trẻ ví dụ: gọi bố, mẹ; ạ, dạ, xin; ô tô, bíp bíp hoặc tiếng
kêu các con vật: meo meo, con chó, con mèo, gà. Tùy vào bản thân mỗi trẻ
cũng như tùy vào môi trường, vùng văn hóa mà trẻ sống mà trẻ phát âm ra
các từ đầu tiên có khác nhau ở các trẻ khác nhau.
-Khi trẻ được 18 tháng tuổi trẻ bắt đầu nói và tự nối ghép được hai từ với
nhau. Ở giai đoạn này trẻ nói bắt đầu hình thành các trật tự câu. Trẻ biết chỉ
được ít nhất là sáu bộ phận trên cơ thể, chỉ được một hai hình ảnh quen thuộc
khi cho trẻ nhìn tranh như: hình bố,hình con cá hoặc hình con chó…
-Thực hiện các mệnh lệnh đơn giản: “ném bóng cho mẹ, cầm cốc cho bố”…
-Phân biệt được các đồ vật thường dùng

tuổi

-Nhận ra được một số bức tranh về các đồ vật ở xung quanh. Ví dụ: tranh
về cái cốc, bàn
-Nói một vài từ

-Biết khởi xướng các trò chơi
-Tạo ra chuỗi âm không có nghĩa với các ngữ điệu khác nhau
-Có khả năng bắt chước được từ đơn

2–3
tuổi

-Trẻ hiểu các khái niệm về vị trí trong không gian: phái trước, bên phải,
bên ngoài, hiểu một vài chức năng công dụng của đồ vật và các bộ phận
của cơ thể như: cốc để uống nước, lược để chải đầu, hay mũi để ngửi,

23


×