I HC QUC GIA H NI
TRNG I HC KHOA HC X HI V NHN VN
----------------------------
TRN THI DUNG
NGHệ THUậT CHUYểN THể TáC PHẩM VĂN HọC SANG
ĐIệN ảNH NHìN Từ PHƯƠNG DIệN CốT TRUYệN Và NHÂN VậT
(QUA TRĂNG NƠI ĐáY GIếNG, CáNH ĐồNG BấT TậN)
LUN VN THC S
Chuyờn ngnh: Ly lun Lich s va Phờ binh iờn nh Truyn hinh
H Ni - 2016
I HC QUC GIA H NI
TRNG I HC KHOA HC X HI V NHN VN
----------------------------
TRN THI DUNG
NGHệ THUậT CHUYểN THể TáC PHẩM VĂN HọC SANG
ĐIệN ảNH NHìN Từ PHƯƠNG DIệN CốT TRUYệN Và NHÂN VậT
(QUA TRĂNG NƠI ĐáY GIếNG, CáNH ĐồNG BấT TậN)
Lun vn Thc s chuyờn ngnh Ly luõ n Lich
s va Phờ bin
h iờ n anh Truyờ n hin
h
Mó s: 60210231
Ngi hng dn khoa hc: PGS. TS Lý Hoi Thu
H Ni - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn “Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn
học sang điện ảnh nhìn từ phương diện cốt truyện và nhân vật (qua Trăng nơi
đáy giếng, Cánh đồng bất tận)” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, những
phân tích và kết quả nghiên cứu đề tài đưa ra đều dựa trên thực tế tìm hiểu, nghiên
cứu và chưa từng được ai công bố.
Nếu những thông tin tôi cung cấp không chính xác, tôi xin chịu hoàn toàn
trách nhiệm trước những cá nhân, tổ chức có thẩm quyền.
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Tác giả
Trần Thị Dung
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn PGS. TS Lý Hoài Thu – người
không chỉ hướng dẫn, góp ý trao đổi về phương pháp luận, nội dung nghiên
cứu và các hướng dẫn khoa học khác mà còn động viên, khích lệ đảm bảo cho
luận văn hoàn thành có chất lượng.
Xin chân thành cảm ơn các thầy giáo cô giáo trong khoa Văn học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQGHN đã tạo mọi điều
kiện cho việc học tập nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với gia đình, bạn bè đồng
nghiệp đã luôn động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong
suốt quá trình thực hiện luận văn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Học viên
Trần Thị Dung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 4
2. Mục tiêu nghiên cứu...................................................................................... 5
3. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 10
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 11
6. Đóng góp mới của luận văn ........................................................................ 12
7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 12
NỘI DUNG..................................................................................................... 13
CHƢƠNG 1: KHÁI LƢỢC CHUNG VỀ TỰ SỰ VÀ HIỆN TƢỢNG
CHUYỂN THỂ TÁC PHẨM ....................................................................... 13
1.1. Giới thuyết về tự sự học và chuyển thể tác phẩm: .................................. 13
1.2. Khái niệm cốt truyện trong tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh. ........ 22
1.2.1. Khái niệm và đặc trưng cốt truyện trong tác phẩm văn học ................ 22
1.2.2. Khái niệm và đặc trưng cốt truyện trong tác phẩm điện ảnh ............... 26
1.3. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học và
tác phẩm điện ảnh............................................................................................ 29
1.3.1. Khái niệm, đặc trưng và vai trò nhân vật trong tác phẩm văn học ...... 29
1.3.2. Khái niệm, đặc trưng và vai trò nhân vật trong tác phẩm điện ảnh .... 33
1.4. Giới thiệu về “Trăng nơi đáy giếng” và “Cánh đồng bất tận” trên bình
diện tác phẩm văn học và điện ảnh. ................................................................ 36
1.4.1. Trăng nơi đáy giếng .............................................................................. 36
1.4.2. Cánh đồng bất tận ................................................................................. 39
CHƢƠNG 2: NGHỆ THUẬT CHUYỂN THỂ TÁC PHẨM VĂN HỌC
SANG ĐIỆN ẢNH NHÌN TỪ CỐT TRUYỆN ........................................... 42
1
2.1. Những tiếp thu, bổ sung và cải biên đường dây cốt truyện chính qua
“Trăng nơi đáy giếng” và “Cánh đồng bất tận”. ............................................. 42
2.2. Nghệ thuật chuyển thể qua tổ chức không gian – thời gian. .................. 49
2.3. Nghệ thuật chuyển thể qua mở đầu và kết thúc ...................................... 53
CHƢƠNG 3: NGHỆ THUẬT CHUYỂN THỂ TÁC PHẨM VĂN HỌC
SANG ĐIỆN ẢNH NHÌN TỪ NHÂN VẬT ................................................ 63
3.1. Nghệ thuật chuyển thể nhân vật qua hệ thống: ....................................... 63
3.2. Nghệ thuật chuyển thể nhân vật qua hành động, tính cách. ................... 72
3.3. Nghệ thuật chuyển thể nhân vật qua ngôn ngữ ....................................... 77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 89
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nhà nghiên cứu phê bình điện ảnh Timothy Corrigan đã từng nhận
xét về mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh như sau: “Lịch sử quan hệ giữa
phim ảnh và văn chương là một lịch sử yêu ghét lẫn lộn, đương đầu và phụ
thuộc lẫn nhau.” Quả đúng thế, ngay từ khi điện ảnh ra đời (từ cuối thế kỷ 19),
văn chương và điện ảnh vẫn luôn song hành cùng nhau trong toà lâu đài nghệ
thuật. Thông thường hai ngành nghệ thuật ấy vẫn song song đi bên nhau, tự
kiến tạo cho mình những đặc trưng riêng biệt nhưng không ít lần văn chương
rất tự nhiên đi vào thế giới điện ảnh để toả sáng. Việc chuyển thể tác phẩm văn
học sang tác phẩm điện ảnh đã xuất hiện từ lâu và đang là hiện tượng rất phổ
biến trong đời sống văn hoá nghệ thuật trên thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng. Bởi điện ảnh thật khó vượt qua được sức hấp dẫn từ kho tàng văn học
phong phú và giá trị được làm đầy qua hàng ngàn năm lịch sử. Bởi thế,
nghiên cứu về vấn đề chuyển thể các tác phẩm văn học sang điện ảnh như một
cầu nối tự nhiên để gắn kết mối nhân duyên của hai ngành nghệ thuật này.
1.2. Tự sự học là một ngành nghiên cứu còn non trẻ, được định hình từ
những năm 60-70 của thế kỷ XX ở Pháp, nhưng đã nhanh chóng vượt ra khỏi
biên giới và có nhiều đóng góp trong nghiên cứu khoa học cơ bản. Bởi chiếm
lĩnh tri thức rộng lớn nên tự sự học là bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu tiềm
năng. Nó không chỉ giới hạn trong tự sự văn học mà còn được vận dụng để
nghiên cứu nhiều hình thức tự sự khác như: tôn giáo, lịch sử, triết học, âm
nhạc, mỹ thuật, điện ảnh… Cho nên Roland Bathes có nói đại ý tự sự xuất hiện
cùng bản thân lịch sử loài người. Trong đó, tự sự văn học là đối tượng nghiên
cứu lâu đời nhất, phức tạp nhất. Còn điện ảnh lại là có tuổi đời trẻ hơn, thế nên
tự sự điện ảnh cũng là em út trong nghiên cứu tự sự học. Tuy nhiên, sự bắt rễ
của điện ảnh với văn học cũng tạo nên một mối quan hệ hữu cơ mới khi so
3
sánh tự sự văn học với tự sự điện ảnh, tuy có nhiều điểm chung nhưng cũng có
không ít điểm khác biệt vì chất liệu và phương thức tác động của hai loại hình
nghệ thuật là khác nhau. Không thể đánh giá về một tác phẩm điện ảnh được
chuyển thể từ tác phẩm văn học là bản sao của tác phẩm văn học gốc. Bởi khi
đi vào môi trường điện ảnh, với những nhân tố điện ảnh thì tác phẩm văn học
đã có sự chuyển biến khá nhiều. Cho nên, việc vận dụng lý thuyết của tự sự đặc
biệt là cốt truyện và nhân vật để nghiên cứu vấn đề chuyển thể tác phẩm văn
học sang tác phẩm điện ảnh là cần thiết khi muốn nhìn nhận lại giá trị của
những tác phẩm này một cách đầy đủ và công bằng nhất.
1.3. Mặt khác, người viết với niềm yêu thích văn chương và điện ảnh
mong muốn khám phá sâu hơn vào địa hạt của hai lĩnh vực này, bổ sung cho
mình cũng như những người yêu văn chương và điện ảnh có thêm những kiến
thức quý báu, phát hiện ra vẻ đẹp bí ẩn đằng sau “tảng băng trôi” của mỗi tác
phẩm văn học và điện ảnh. Đồng thời cũng mong muốn tìm ra bí quyết để một
bộ phim chuyển thể từ tác phẩm văn học sang một tác phẩm điện ảnh có thể
thành công từ góc nhìn cốt truyện và nhân vật.
Từ những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Nghệ thuật chuyển thể tác
phẩm văn học sang điện ảnh nhìn từ phương diện cốt truyện và nhân vật (qua
Trăng nơi đáy giếng, Cánh đồng bất tận)” cho luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Hiện tượng chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh là để tài không
mới, tuy nhiên mỗi nhà nghiên cứu lại có một góc nhìn khác nhau về vấn đề
này. Người viết thiết nghĩ đem một vấn đề đã cũ ra để mổ xẻ, bàn bạc lại có lẽ
không tránh khỏi những ý kiến trái chiều. Nhưng thiết nghĩ, việc đặt lại vấn đề
chuyển thể ở một góc nhìn cụ thể, đi sâu vào nội dung chi tiết của hiện tượng
chuyển thể là cần thiết trong thời buổi hiện nay. Nghiên cứu hiện tượng đó trên
hai phương diện cốt truyện và nhân vật, tức là đi vào cốt lõi của vấn đề chuyển
4
thể, khai thác công cụ để bất kì một nhà văn cũng như nhà làm phim nào muốn
xây dựng một bộ phim thành công đều cần đến, người viết mong muốn có một
phương thức khái quát nhất cho những người làm phim chuyển thể hay nghiên
cứu về phim chuyển thể khai thác cái hay, cái đặc sắc của truyện – phim. Bởi
vậy, đề tài không hướng đến những điều cao xa như mối quan hệ giữa văn học
– điện ảnh, vận dụng các yếu tố của tự sự văn học vào nghiên cứu tự sự điện
ảnh… mà nhằm khai thác tối đa việc vận dụng cốt truyện và nhân vật trong tác
phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh như thế nào để tạo nên một bộ phim
chuyển thể thành công, có dấu ấn của nhà làm phim trong một bộ phim độc lập
chứ không phải là bản dịch của tác phẩm văn học.
Đối với điện ảnh thế giới và điện ảnh Việt Nam gần đây, nhiều bộ phim
chuyển thể thành công, vậy họ cũng có những bí quyết riêng khi chuyển thể.
Cho nên đối với nhà làm phim trẻ hay với những người nghiên cứu điện ảnh,
biết được bí kíp qua chuyển thể cốt truyện và nhân vật là đã thành công được
một nửa. Vì vậy, người viết mong muốn đề tài “Nghệ thuật chuyển thể tác
phẩm văn học sang điện ảnh nhìn từ phương diện cốt truyện và nhân vật (qua
Trăng nơi đáy giếng, Cánh đồng bất tận)” sẽ tiếp cận với nhiều người làm
nghề trong lĩnh vực điện ảnh và cả người yêu điện ảnh để có những thước đo
chuẩn xác khi chuyển thể, khi xem và đánh giá một bộ phim chuyển thể.
3. Lịch sử vấn đề
3.1. Lịch sử nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh.
Sự phát triển như vũ bão của kỹ thuật nghe nhìn đã tạo ra cho công chúng
những nhu cầu thưởng thức văn học nghệ thuật theo cách mới mẻ. Điện ảnh là
ngành nghệ thuật đáp ứng đầy đủ nhu cầu mới này bởi điện ảnh tích hợp được
những đặc tính ưu việt của các ngành nghệ thuật khác từ âm nhạc, hội hoạ, văn
học… Các nhà làm phim hoàn toàn có thể làm cho tác phẩm điện ảnh của mình
thành công hơn nếu biết vận dụng càng nhiều sức sáng tạo của kỹ thuật phim ảnh
5
cũng như sự tham gia của các: kịch gia, diễn viên, nhạc sĩ, hoạ sĩ… để biến những
con chữ trong trang văn trở thành những thực thể sinh động, có hồn. Chính vì vậy,
mối quan hệ đa chiều giữa văn học và điện ảnh là một thực tế sống động không
thể phủ nhận. Ngay từ những ngày đầu có mối giao duyên ấy, nhiều nhà lí luận đã
khẳng định: bên cạnh quá trình điện ảnh hấp thụ và cải tiến những kinh nghiệm
nghệ thuật của văn học, một hiện tượng không kém phần quan trọng là tác động
ngược lại rất to lớn của điện ảnh đối với văn học. Nghiên cứu về mối quan hệ này,
cuốn Văn học với điện ảnh (Mai Hồng dịch, NXB Văn học, 1961) là cuốn sách
tập hợp những bài giảng của M.Rôm, I. Khây-phít-xơ, E. Ga-bơ-ri-lô-vi-trư đã
đưa ra mấy đặc trưng quan trọng trong việc viết truyện phim, đặc điểm thành phần
văn xuôi trong truyện phim… nhằm “nâng cao tác dụng của văn học trong điện
ảnh, để sáng tạo những truyện phim và những bộ phim kiểu mới thể hiện đời sống
vô cùng phong phú một cách chân thực”. Cuốn sách mới chỉ dừng lại ở mặt gợi
mở cho những nhà làm phim khi chuyển thể từ tác phẩm văn học chứ chưa chỉ ra
một cách có hệ thống và chuyên sâu mối quan hệ giữa văn học với điện ảnh.
Gần đây, cuốn Dẫn luận và nghiên cứu “Điện ảnh và văn học”
(Timothy Corrigan) đã chỉ ra khá nhiều điểm đồng thuận cũng như khác biệt
giữa văn học và điện ảnh trên cơ sở tái hiện một loạt giai đoạn lịch sử, các
phong tục văn hoá và phương pháp phê bình. Phần một phác hoạ những khác
biệt và động lực lịch sử hình thành nên chủ đề, nhấn mạnh những đặc thù và
di sản theo sau cuộc tranh luận trong suốt những năm 1990. Phần hai, tác giả
trình bày về những khái niệm chủ đạo mà văn học và điện ảnh chia sẻ, cái
thường tạo nên đặc thù của mỗi chuyên ngành. Phần ba là trọng tâm cuốn
sách, đem đến những tuyên bố chủ đạo về mối quan hệ giữa điện ảnh và văn
chương đã xuất hiện. Nhờ vậy, người nghiên cứu có được cái nhìn tổng quan
nhất về mối quan hệ của hai loại hình nghệ thuật này. Tuy nhiên, xét về góc
độ cốt truyện và nhân vật có ý nghĩa như thế nào trong việc chuyển thể dường
như vẫn chưa được người viết chú trọng.
6
Hai cuốn sách cho thấy lịch sử của hai ngành nghệ thuật này, đặc trưng
của văn học và điện ảnh: chủ đề, tự sự và những yếu tố phong cách… thiên về
tìm hiểu phim chứ không chuyên sâu về mối quan hệ chuyển thể và phương
thức chuyển thể.
Ngoài ra, ở Việt Nam cũng có một số công trình nghiên cứu nhưng vẫn ở
quy mô nhỏ lẻ:
-
Về cái gọi là tính văn học trong điện ảnh (Tạp chí Nghiên cứu
Nghệ thuật, số 6 -1984, Lê Châu)
-
Từ văn học đến điện ảnh (Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, số 6 -1999,
Phạm Vũ Dũng)
-
Bài viết “Văn học trong điện ảnh và điện ảnh với văn học” (Phim
Việt Nam thưởng thức – bình luận, NXB Văn hoá văn nghệ TP. Hồ Chí Minh,
Trần Trọng Đăng Đàn).
-
Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh (Tạp chí Văn hoá nghệ thuật,
số 10-2002, Minh Trí).
Mặc dù các bài nghiên cứu đã đề cập đến cuộc giao duyên của hai ngành
nghệ thuật nhưng dường như chỉ có tính chất giới thiệu khái quát về mối quan
hệ giữa văn học và điện ảnh, trong đó chủ yếu nhấn mạnh vai trò, ảnh hưởng
của văn học với điện ảnh qua việc chuyển thể tác phẩm văn học sang tác
phẩm điện ảnh chứ chưa đi vào những phân tích cụ thể ảnh hưởng ở điểm nào,
tác động như thế nào đến điện ảnh và có tác dụng ra sao.
3.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn
học sang điện ảnh từ góc nhìn tự sự.
Không chỉ đến ngày hôm nay, khi những bộ phim chuyển thể ngày càng
trở nên gần gũi với khán giả, các nhà làm phim mới chú ý đến việc chuyển thể
tác phẩm văn học sang điện ảnh. Ngay từ những ngày đầu văn học – điện ảnh
đã có mối quan hệ đặc biệt gắn bó, tuy nhiên việc nghiên cứu một cách bài
bản, có hệ thống về việc chuyển thể này thì chưa có nhiều công trình.
7
Cuốn “Bàn về cải biên tiểu thuyết thành phim” (Hạ Diễn – Mao Thuẫn –
Dương Thiên-Hỉ, NXB Văn hoá – nghệ thuật, 1964) là cuốn sách nói về vấn
đề cải biên khá sớm giữa văn học – điện ảnh. Tuy nhiên, người viết ở đây lại
đứng trên góc nhìn khách quan để tổng hợp các ý kiến khác nhau xung quanh
việc đánh giá giá trị của việc cải biên tác phẩm chỉ trong vài trang ít ỏi.
Trên cơ sở của mối quan hệ văn học – điện ảnh cùng với sự thành công
của một số phim chuyển thể và tác động sâu rộng của chuyển thể nên đã có
một số chuyên luận nghiên cứu về vấn đề này ở Việt Nam như:
Từ Chùa Đàn đến Mê Thảo: Liên văn bản trong văn chương và điện ảnh
của nhà nghiên cứu Nguyễn Nam.
Về quá trình chuyển thể tiểu thuyết thành phim (qua tác phẩm Triệu phú
ổ chuột) của Phạm Ngọc Hiến.
Luận án tiến sỹ Từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh (Khảo sát
việc chuyển thể truyện văn học thành phim truyện điện ảnh trong lịch sử văn
học và điện ảnh Việt Nam) của tác giả Phan Bích Thuỷ – ĐH Sư phạm TP Hồ
Chí Minh năm 2012 đã đề cập một cách khá căn bản và chi tiết về mối quan
hệ giữa văn học – điện ảnh, chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt của
hai loại hình tự sự này. Từ đó, tác giả có chỉ ra và phân tích những nhân tố
tham gia vào quá trình chuyển thể, những thành tố quyết định việc chuyển thể
tác phẩm thành công hay không.
Đặc biệt là Luận văn thạc sỹ Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang
tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự) của Đỗ Thị Ngọc Diệp – ĐH Khoa học
xã hội và nhân văn Hà Nội năm 2010 cung cấp một cái nhìn toàn diện và đầy
đủ về vấn đề chuyển thể. Trên cơ sở phân tích một số bộ phim chuyển thể như
Mê thảo thời vang bóng, Thời xa vắng, Mùa len trâu, Chuyện của Pao, tác giả
đã có những nhận xét và phát hiện khá tinh tế về vấn đề chuyển thể tác phẩm
văn học sang tác phẩm điện ảnh. Từ đó làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản mà
điện ảnh có thể khai thác được từ văn học để tạo nên một tác phẩm thành công.
8
Bên cạnh đó, báo chí cũng có một số bài viết về vấn đề này như trên báo
Người lao động online có bài Văn học – điện ảnh: Hiệu ứng cộng sinh
( nói về ảnh hưởng của mối quan hệ này đồng thời chỉ
ra những áp lực của nhà làm phim trước áp lực từ phía khán giả khi chuyển thể
một bộ phim từ tác phẩm văn học nổi tiếng. Báo An ninh thế giới online có bài
Chuyển thể tác phẩm văn học thành tác phẩm điện ảnh: Khó để so sánh
( tác giả Mỹ Trân đã tổng hợp về tình hình của các bộ
phim chuyển thể gần đây dưới sự đánh giá đa chiều của người xem và chính tác
giả của những tác phẩm văn học. Dù nhìn nhận thế nào thì phim cũng là một
tác phẩm điện ảnh riêng biệt chứ không phải là bản sao của văn học.
Mỗi bài báo hay công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước dù ở góc
độ nào cũng là những tư liệu quý báu để chúng tôi có cách nhìn tổng quát và
toàn diện, sâu sắc hơn về vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm
điện ảnh. Đặc biệt, lý thuyết của ngành tự sự học đã giúp chúng tôi có “bộ
công cụ cơ bản nhất, sắc bén nhất giúp cho người ta có thể đi sâu vào các lĩnh
vực nghiên cứu điện ảnh, giao tiếp, phương tiện truyền thông, nghiên cứu văn
hoá” [19, tr.11]. Cũng nhờ lý thuyết tự sự học, chúng tôi có thêm nhiều kiến
thức và có ý thức so sánh giữa các ngành nghệ thuật, đó chính là yếu tố căn
cốt, là phương tiện quan trọng để chúng tôi tìm hiểu những điểm tương đồng
và khác biệt giữa hai loại hình tự sự trên và phát hiện, lý giải được quá trình
chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh là một phạm trù khá phức tạp,
rộng lớn. Hơn nữa, việc chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh là công
việc đòi hỏi trình độ chuyên môn cao, nghiên cứu vấn đề này một cách chung
9
đã có khá nhiều công trình đề cập đến. Trên cơ sở vận dụng lý thuyết tự sự
học hiện đại, người viết không có tham vọng muốn tìm hiểu tất cả về cấu trúc
tự sự, kết cấu của tầng bậc trần thuật, mô hình trần thuật, ngôn ngữ tự sự, loại
hình cốt truyện… Vì vậy, trong khả năng của mình, người viết luận văn chỉ
nghiên cứu nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh từ phương
diện cốt truyện và nhân vật là đối tượng nghiên cứu chính. Để làm rõ nội
dung của hai đối tượng trên, người viết khảo sát qua hai trường hợp:
-
Chuyển thể truyện ngắn Trăng nơi đáy giếng của nhà văn Trần
Thuỳ Mai thành bộ phim cùng tên (chuyển thể kịch bản: Châu Thổ, đạo diễn:
Nguyễn Vinh Sơn).
-
Chuyển thể truyện ngắn Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn
Ngọc Tư thành bộ phim cùng tên (chuyển thể kịch bản: Nguỵ Ngữ, đạo diễn:
Nguyễn Phan Quang Bình).
Chọn hai bộ phim được chuyển thể từ những tác phẩm văn học gây
được tiếng vang trên văn đàn và khi ra công chiếu trước công chúng cũng có
nhiều ý kiến trái chiều, người viết thiết nghĩ sẽ khai thác được những phần
được và chưa được mà nhà làm phim chuyển thể đã làm. Phim Trăng nơi đáy
giếng – giải Cánh diều bạc năm 2008; Hồng Ánh vai Hạnh đoạt giải nữ diễn
viên chính xuất sắc trong Liên hoan phim Quốc tế Dubai 2008, giải nữ diễn
viên chính xuất sắc của giải Cánh diều vàng năm 2008 tuy còn nhiều ý kiến
khen chê về cách xây dựng nhân vật, tình huống vô lý… nhưng đó lại là một
phương thức nhà làm phim khám phá cuộc sống, khai thác cuộc sống ở một
mảng đặc trưng nhất. Hay phim Cánh đồng bất tận đạt khá nhiều giải thưởng
phụ như: Cánh diều vàng 2010 cho nhạc sĩ phim truyện nhựa, cho diễn viên
nữ chính, cho diễn viên nam phụ nhưng chung cuộc lại chỉ được Cánh diều
bạc 2010 cho phim truyện nhựa. Bên cạnh những lời khen về góc quay không
thể đẹp hơn của Nguyễn Tranh làm người xem ngạc nhiên vì vẻ đẹp bình dị
10
mà rất nên thơ của vệt khói lam chiều, của dòng sông buổi chiều hôm hay của
đầm sen… cộng thêm sự diễn xuất xuất sắc của dàn diễn viên sao như Dustin
Nguyễn, Đỗ Hải Yến, Tăng Thanh Hà đến những gương mặt mới như Ninh
Dương Lan Ngọc, Thanh Hoà… Cũng còn những điểm trừ vì tinh thần truyện
ngắn không được chuyển tải một cách trọn vẹn cũng như một số chi tiết đắt
giá trong truyện đã không được nhà làm phim dựng lại thành công.
Nhìn chung, hai bộ phim đều rất đáng để lưu tâm trong số những bộ
phim truyện Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn học gần đây và có thể coi là dẫn
chứng tiêu biểu để nghiên cứu cốt truyện và nhân vật trong bộ phim chuyển thể.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng trong luận văn:
-
Phương pháp liên ngành là nhu cầu, là thuộc tính của mọi khoa học
xã hội và nhân văn. Chính vì thế, người viết cũng không thể bỏ qua phương
pháp này trong nghiên cứu luận văn. Vận dụng các nghiên cứu trong lĩnh vực
lịch sử, văn học, văn hoá, điện ảnh… đã giúp người viết có nhiều kiến thức để
khai thác, đào sâu và làm phong phú, toàn diện cho đề tài của mình.
-
Phương pháp phân tích tổng hợp được vận dụng triệt để trong khai
thác tài liệu liên quan đến nội dung luận văn. Từ việc phân tích những nghiên
cứu về nhân vật và cốt truyện trong văn học và điện ảnh, người viết tổng hợp
và đưa ra những ý kiến đánh giá riêng về việc chuyển thể tác phẩm văn học
sang tác phẩm điện ảnh trên hai phương diện đó.
-
Phương pháp so sánh, đối chiếu là phương pháp không thể thiếu khi
nhìn nhận, đánh giá giữa tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh trên bình
diện nhân vật và cốt truyện. Việc vận dụng phương pháp này giúp luận văn có
cái nhìn thấu đáo, sâu sắc khi phân tích tác phẩm gốc và tác phẩm chuyển thể.
-
Thao tác thống kê, phân loại được sử dụng linh hoạt trong từng luận
điểm của luận văn, nhất là khi chỉ ra các khía cạnh khác biệt trong tác phẩm văn
học và tác phẩm điện ảnh (qua “Trăng nơi đáy giếng” và “Cánh đồng bật tận”).
11
6. Đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở vận dụng lý thuyết tự sự học, chúng tôi chỉ ra những nhân tố
chính tạo nên một bộ phim chuyển thể có giá trị, đồng thời chỉ ra tác động qua
lại sâu sắc của hai ngành nghệ thuật này. Từ đó cung cấp cho những nhà làm
phim một mẫu khái quát nhất để khai thác kho tàng văn học làm nên những bộ
phim điện ảnh có giá trị nghệ thuật cao. Không phải yếu tố nào của tác phẩm văn
học cũng cần xuất hiện trong tác phẩm điện ảnh, dù rằng đối với tác phẩm văn
học đó, chi tiết đó là đắt giá, có ý nghĩa ám gợi. Quan trọng hơn cả là tác phẩm
điện ảnh vẫn giữ được hồn cốt của tác phẩm văn học nhưng lại gợi cho người
xem những cung bậc cảm xúc riêng. Vẫn là cốt truyện ấy, là nhân vật ấy nhưng
khi bước chân vào ngành nghệ thuật thứ bảy thì nó phải khác đi, phải mới lạ và
có nhiều chiều kích khác nhau. Để làm được điều đó, cần không ít dụng công, tài
năng và tầm văn hoá của những người làm phim chuyển thể. Cho nên, khi đi vào
môi trường điện ảnh, những yếu tố nào của tự sự cần được lược bỏ, yếu tố nào
nên khai thác sâu cho phù hợp cũng là một việc quan trọng. Từ việc đi sâu vào
hai yếu tố cốt truyện và nhân vật, chúng tôi lý giải hiện tượng thành công của
một tác phẩm chuyển thể và tác động “ngược trở lại” của nó đối với văn học,
giúp nhà văn hiện đại có những cách xây dựng nhân vật, cốt truyện, cấu trúc tác
phẩm… của mình mới lạ, đem đến nhiều tác phẩm có giá trị cho người đọc.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 3 phần.
Chƣơng 1: Khái lược chung về tự sự và hiện tượng chuyển thể tác phẩm.
Chƣơng 2: Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh nhìn
từ cốt truyện.
Chƣơng 3: : Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh
nhìn từ nhân vật.
12
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: KHÁI LƢỢC CHUNG VỀ TỰ SỰ VÀ HIỆN TƢỢNG
CHUYỂN THỂ TÁC PHẨM
1.1. Giới thuyết về tự sự học và chuyển thể tác phẩm
Tự sự học (Narratology) đến nay không còn là một ngành nghiên cứu
mới mẻ trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Ngọn nguồn của truyền thống lí
luận tự sự phương Tây có thể truy đến tận cùng từ thời Platon và Aristotle
nhưng phải đến khi Tezvetan Todorov, một trong những đại biểu lớn của Cấu
trúc luận Pháp xuất bản Ngữ pháp Câu chuyện mười ngày (1969), ngành
nghiên cứu này mới chính thức có danh xưng Tự sự học và trở thành một
ngành nghiên cứu có tính độc lập vì nội hàm văn hoá của nó. Ông định nghĩa:
“Tự sự học là lí luận về cấu trúc của tự sự. Để phát hiện cấu trúc và miêu tả
cấu trúc ấy, người nghiên cứu tự sự đem hiện tượng tự sự chia thành các bộ
phận hợp thành, sau đó cố gắng xác định chức năng và mối quan hệ qua lại
của chúng” (Ngữ pháp “Câu chuyện mười ngày”).
Tự sự học là bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng vì “nghiên
cứu tự sự học phải liên kết với ngôn ngữ học, sử học, nhân loại học. Tự sự
học không đóng khung trong tiểu thuyết mà vận dụng cả vào các hình thức
“tự sự” khác, như tôn giáo, lịch sử, điện ảnh, khoa học, triết học, chính trị. Nó
là một ngành văn hoá, bởi vì các hình thức tự sự khác nhau có thể có chung
với nhau những nguyên tắc siêu tự sự.” [19, tr. 12]. Cho đến ngày nay, tự sự
học đã trải qua một quá trình lịch sử phát triển lâu dài với cuộc đấu tranh của
nhiều trường phái. Kể từ khi tự sự học hiện đại manh nha hình thành từ cuối
thế kỉ XX, có thể chia làm ba thời kì: tự sự học trước chủ nghĩa cấu trúc, tự sự
học cấu trúc chủ nghĩa và tự sự học hậu cấu trúc chủ nghĩa. Trong đó, thời kì
trước chủ nghĩa cấu trúc, tự sự học nghiên cứu các thành phần và chức năng
của tự sự. Các nhà nghiên cứu B.Tomasepxki, V.Shoklovski, V.Propp,
13
Bakhtin… với những nghiên cứu về cấu trúc và chức năng trong truyện cổ
tích (1928-V.Propp) hay mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật, ngôn từ trần
thuật và tính đối thoại của nó (Bakhtin) đã trở thành những người tiên phong
cho tự sự học hiện đại. Sang giai đoạn thứ hai của lí thuyết tự sự là chủ nghĩa
cấu trúc mở đầu với công trình Dẫn luận phân tích tác phẩm tự sự của
R.Barthes năm 1968. Đặc điểm của nhóm này là lấy ngôn ngữ học làm hình
mẫu, xem tự sự học là sự mở rộng của cú pháp học, còn trữ tình là sự mở rộng
của ẩn dụ. Với việc lấy G.Genette làm hình mẫu xem nguồn gốc của tự sự là
dùng ngôn ngữ nói hay viết để biểu đạt nên vai trò của người trần thuật được
coi là quan trọng bậc nhất. Vì vậy họ chú ý đến các yếu tố như điểm nhìn,
giọng điệu… của người trần thuật. Giai đoạn thứ ba của tự sự học gắn liền với
kí hiệu học, một bộ môn quan tâm đến các phương thức biểu đạt ý nghĩa khác
nhau, lấy văn bản làm cơ sở. Đại điện cho nhóm này như Gerald Prince và
Seymour Chatman là những người coi trọng phương pháp nghiên cứu tổng
thể hay dung hợp.
Như vậy, có nhiều trường phái định nghĩa khác nhau về ngành tự sự học,
nhưng tựu chung nội dung chính của ngành này là nghiên cứu cấu trúc văn
bản tự sự và những vấn đề liên quan. Mỗi thời kì có sự phân tách cấu trúc tự
sự theo khuynh hướng lưỡng phân Fabula/ Xiuzhet theo chủ nghĩa hình thức
Nga đến xu hướng tam phân (G.Genette, M.Bal) thêm lớp “tự sự” (kể chuyện)
hay xu hướng lưỡng phân hiện đại: histoire/ récit (chuyện/ kể, bản kể), story/
discours (chuyện/ lời kể), récit/ naration (bản kể, hành vi kể) nhưng tựu chung
lại tự sự học phân biệt rõ giữa việc kể “cái gì” và “kể như thế nào”. Chính
những nghiên cứu này đã cho thấy: sự phức tạp của cấu trúc tự sự; vấn đề ý
thức của chủ thể tự sự; kết cấu của tầng bậc trần thuật, loại hình cốt
truyện…Hơn nữa, nghiên cứu tự sự học còn có ý nghĩa văn hoá rộng lớn vì tự
sự học giúp hiểu rõ hơn mọi hình thức tự sự, nghệ thuật và phi nghệ thuật.
14
Những điều này là cơ sở lý luận để chúng tôi khám phá việc chuyển thể tác
phẩm văn học sang điện ảnh qua lăng kính tự sự ở hai góc nhìn: cốt truyện và
nhân vật, để thấy rõ những điểm tương đồng và khác biệt, kế thừa và cách tân
ở hai loại hình tự sự này.
Liên văn bản (Intertextuality) là khái niệm được nhiều nhà nghiên cứu
trong nhiều ngành nghệ thuật sử dụng để nói về mối quan hệ qua lại, tác động
của những tác phẩm nghệ thuật. Một cách khái quát, người ta chia làm hai
loại liên văn bản: kinh điển và hậu hiện đại. Theo quan điểm kinh điển được
biểu hiện bởi sự liên hệ trực tiếp giữa văn bản này với văn bản khác (thiên về
hình thức). Ví như việc sử dụng chú thích trong các bài nghiên cứu Truyện
Kiều lấy các sự kiện, hình ảnh nào; hoặc như việc ghi rõ nguồn tài liệu gốc
trong các bài nghiên cứu khoa học nói chung và văn học nói riêng. Nếu nhìn ở
góc độ này, liên văn bản bị bó hẹp cực kỳ trong nội dung và hình thức vận
dụng, đó chẳng khác gì người sau chỉ làm công việc vay mượn sao chép chứ
không có tính sáng tạo khi vận dụng. Cho đến những nhà nghiên cứu lý luận
hậu hiện đại, đại diện tiêu biểu là Jacques Derrida, Roland Barthes và Julia
Kristeva – những lý thuyết gia tiên phong trong trào lưu giải cấu trúc và phê
bình hậu hiện đại đã chỉ ra mỗi văn bản không chỉ tồn tại trong câu chữ hay tác
phẩm văn học đó, mỗi văn bản khi đã bắt đầu, nhờ tính chất liên văn bản sẽ tạo
ra một chuỗi dây chuyền để làm nên nhiều văn bản khác. Khái niệm này trong
văn học về cơ bản có thể hiểu: chiều ngang (chủ thể – người tiếp nhận) và
chiều dọc (văn bản – văn cảnh) được xuất hiện không chỉ trong tác phẩm gốc
mà có sự liên kết trong nhiều tác phẩm khác nhau, thậm chí là các ngành nghệ
thuật khác nhau. Cho nên liên văn bản không những kết hợp, trộn lẫn mà còn
xoá đi ranh giới của các thể loại. Ví như vẫn trên đề tài chiến tranh nhưng lịch
sử tái hiện qua truyền hình khác, qua phim ảnh lại dựa từ lịch sử mà có sự thay
đổi và âm nhạc, mỹ thuật, văn học cũng có điểm khác biệt dù có khi vay mượn
15
của nhau. Vì vậy khái niệm liên văn bản trong trào lưu hậu hiện đại sẽ dẫn đến
những cách đọc hiểu văn bản khác nhau, mới và lạ hơn. Bởi văn bản ấy không
thuần tuý chỉ là văn bản gốc, bị giới hạn trong thể loại mà nó hoà lẫn rất nhiều
những yếu tố lịch sử văn hoá cũng như ảnh hưởng bởi loại hình nghệ thuật
khác. Một kịch bản điện ảnh được chuyển thể từ tác phẩm văn học là một ví dụ
điển hình cho việc xoá nhoà đi biên cương của văn bản.
Cải biên (Adaptation) cũng là một dạng của liên văn bản, trong đó khai
thác, sàng lọc những yếu tố cơ bản của tác phẩm gốc để sáng tạo ra một sản
phẩm mới. Đó là việc chuyển từ cách đọc này sang cách đọc khác, từ tác
phẩm văn học là sản phẩm của ngôn từ sang điện ảnh là sự kết hợp của nhiều
yếu tố. Dĩ nhiên, cải biên không phải là sao chép nguyên xi mà là sự học hỏi
có sáng tạo trên cái gốc là tác phẩm văn học để tạo ra một tác phẩm điện ảnh
có giá trị.
Trong kho tàng đồ sộ của sử thi, truyền thuyết, thần thoại, tiểu thuyết,
truyện ngắn,… mà văn học đã dày công vun trồng qua bao thế hệ, nhà làm phim
hẳn đã nắm bắt được những câu chuyện hay, phát hiện ra những hình tượng nhân
vật đặc sắc để tạo dựng nên những thước phim kinh điển. Cũng nhờ vậy những
tác phẩm văn học cổ điển và nhân vật trở nên sống động hơn, gần gũi hơn. Đến
nay, nhiều tác phẩm điện ảnh kinh điển được ra đời từ chính mối giao duyên với
văn học như: bản anh hùng ca Iliát và Ôđixê, Thần thoại Hy Lạp, Nghìn lẻ một
đêm… cho đến những câu chuyện chứa đựng tinh thần nhân văn cao cả trong
truyện cổ tích của anh em nhà Grim, truyện cổ Andersen hay những tác phẩm
văn học kinh điển thế kỷ 18 đến nay cũng trở thành nguồn tài nguyên vô cùng
quý giá đối với điện ảnh. Khán giả không thể quên Chiến tranh và hoà bình (Lev
Nikolayevich Tolstoy, 1865), Kiêu hãnh và định kiến (Jan Austen, 1813), Cuốn
theo chiều gió (Margaret Mitchell, 1936), Bố già (Mario Puzo, 1969), Giết con
chim nhại (Harper Lee, 1960), Bay trên tổ chim cúc cu (Ken Kesey,1962)… Hay
16
đạo diễn nước láng giềng Trung Hoa cũng sớm khai thác cánh đồng văn học vô
tận của dân tộc để tạo nên những bộ phim kinh điển từ Tam Quốc diễn nghĩa (La
Quán Trung), Thuỷ Hử (Thi Nại Am), Tây du ký (Ngô Thừa Ân), Hồng lâu
mộng (Tào Tuyết Cần)… Về sau, sự xuất hiện của nhà văn Kim Dung – cây bút
tiểu thuyết kiếm hiệp xuất sắc đã tạo dựng mảnh đất màu mỡ cho các nhà làm
phim khai thác như: Thần điêu đại hiệp, Lộc đỉnh ký, Anh hùng xạ điêu, Tiếu
ngạo giang hồ, Ỷ thiên đồ long ký… Gần đây, những tác phẩm văn học hiện đại
sau khi được độc giả đón nhận nồng nhiệt dường như cũng gây sự chú ý của nhà
làm phim, và chẳng bao lâu, những bộ phim bom tấn hút khách lại được sản sinh
ra từ những tác phẩm best-seller như: bộ truyện Harry Potter (J.K.Rowling, xuất
bản từ 1997 đến 2007), bộ phim Life of Pi (Jann Martel), bộ tiểu thuyết năm
phần The Twilight Saga (Chạng vạng, Trăng non, Nhật thực, Hừng đông I&II)
của nữ nhà văn Anh Stephenie Meyer…
Điện ảnh Việt Nam cũng không nằm ngoài sức hút của điện ảnh thế giới.
Chẳng bao lâu ngay sau khi điện ảnh được du nhập vào Việt Nam là xuất hiện
ngay mối tương tác giữa văn học và điện ảnh. Trong các bộ phim đầu tiên của
nước ta sản xuất vào những năm 20 của thế kỷ trước như Kim Vân Kiều
(1923) do công ty Chiếu bóng Đông Dương thực hiện cũng được chuyển thể
từ Truyện Kiều nổi tiếng của đại thi hào Nguyễn Du. Những sự gắn bó, giao
thoa, phối hợp giữa văn học và điện ảnh trong buổi ban đầu của nước ta trước
1945 là tiền đề quan trọng để mối quan hệ này càng gắn bó, phát triển trong
những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Về sau, các nhà làm phim
không chỉ khai thác cốt truyện mà còn xây dựng thành công hình tượng nhân
vật trong mỗi tác phẩm văn học. Sau khi phim Chung một dòng sông (1959)
ra đời từ kịch bản Tình không giới tuyến (Cao Đình Báu), một năm sau điện
ảnh lại đón nhận bộ phim Vật kỷ niệm được chuyển thể từ truyện ngắn Vật kỷ
niệm của người đã mất (Cường Tráng – Văn Ngữ). Người xem khó lòng quên
17
cô Mị (diễn viên Đức Hoàn) trong bộ phim do chính nhà văn Tô Hoài
chuyển thể kịch bản từ tác phẩm cùng tên Vợ chồng A Phủ (1961) hay cô gái
bé nhỏ nhưng anh dũng trong Chim vành khuyên (1962) dựa theo truyện
ngắn Câu chuyện về một bài ca của tác giả Nguyễn Văn Thông. Hai trong ba
phim sản xuất năm 1963 cũng dựa theo tác phẩm văn học: phim Câu chuyện
quê hương dựa theo truyện ngắn Chị Mẫn, Đêm đông và Con trâu bạc của
các nhà văn Bùi Hiển, Chu Văn, Nguyễn Tiến Thuyết; còn phim Chị Tư Hậu
là dựa theo tiểu thuyết Một chuyện chép ở bệnh viện của nhà văn Bùi Đức
Ái… Theo một thống kê, trong 130 phim truyện nhựa do Việt Nam sản xuất
từ năm 1959 đến 1980 có đến 14 phim hoặc là dựa theo, hoặc là phỏng theo,
hoặc là cải biên từ tiểu thuyết, truyện ngắn; có 16 phim hoặc là dựa theo
kịch bản sân khấu, hoặc là phim sân khấu, bao gồm cả cải lương, chèo,
tuồng và cả kịch nói. Phim Nổi gió (1966) dựa trên vở kịch cùng tên của
Đào Hồng Cẩm, Loan mắt nhung (1970) dựa theo truyện cùng tên của
Nguyễn Thuỵ Long, Trống mái và Gánh hàng hoa (1971) dựa theo tiểu
thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn, Điệu ru nước mắt và Vết thù trên lưng
ngựa hoang chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà văn Duyên Anh, Chân
trời tím (1970) chuyển thể từ tiểu thuyết Chân trời tím của Văn Quang…
Đến 1980, chị Dậu (Lê Vân) trong bộ phim cùng tên được chuyển thể từ tiểu
thuyết Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố và những nhân vật như Chí Phèo
(Bùi Cường), Thị Nở (Đức Lưu), thầy giáo Thứ (Hữu Mười), Lão Hạc (Kim
Lân)… cũng in dấu trong phim Làng Vũ Đại ngày ấy (1983) được chuyển
thể từ nhiều truyện ngắn của nhà văn Nam Cao như Chí Phèo, Lão Hạc,
Sống mòn đã đem đến nhiều giải thưởng cao quý và được đánh giá là đạo
diễn hàng đầu của nên điện ảnh cách mạng Việt Nam cho đạo diễn – nghệ sĩ
nhân dân Phạm Văn Khoa. Thật thiếu sót nếu nhìn lại chặng đường điện ảnh
nước nhà đã qua đi mà không nhắc đến những bộ phim cũng chuyển thể từ
18
tác phẩm văn học khác như: Ván bài lật ngửa (gồm 8 tập được thực hiện từ
1982 đến 1987: Đứa con nuôi vị giám mục, Quân cờ di động, Phát súng trên
cao nguyên, Cơn hồng thuỷ và bản tango số 3, Trời xanh qua kẽ lá, Lời cảnh
cáo cuối cùng, Cao áp và nước lũ, Vòng hoa trước mộ được chuyển thể từ
tiểu thuyết tình báo cùng tên của nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý), Đêm hội
Long Trì (1989) được chuyển thể từ tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng, Tướng về hưu (1988) và Những người thợ xẻ (1998) được chuyển thể
từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, Người đi tìm dĩ
vãng (1992) được chuyển thể từ tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng của nhà văn Chu
Lai, Đời cát (1999) chuyển thể từ truyện ngắn Ba người trên sân ga của nhà
văn Hữu Phương, Đất và người (2002) chuyển thể từ tiểu thuyết Mảnh đất
lắm người nhiều ma của nhà văn Nguyễn Khắc Trường, Thời xa vắng (2004)
chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Lê Lựu, Mê thảo – Thời vang
bóng (2003) chuyển thể từ tác phẩm Chùa đàn của Nguyễn Tuân, Mùa len
trâu (2004) dựa trên hai truyện ngắn: Một cuộc bể dâu và Mùa len trâu của
nhà văn Sơn Nam, Chuyện của Pao (2007) chuyển thể từ truyện ngắn Tiếng
đàn môi bên bờ rào đá của nhà văn Đỗ Bích Thuý, Trăng nơi đáy giếng
(2008) chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Trần Thuỳ Mai, Cánh
đồng bất tận (2010) chuyển thể từ truyện ngắn Cánh đồng bất tận của nhà
văn Nguyễn Ngọc Tư… Trong vài năm trở lại đây, dưới sự nhào nặn công
phu của các biên kịch và đạo diễn nên nhiều bộ phim chuyển thể đã gây được
tiếng vang và giành nhiều giải thưởng điện ảnh lớn: Hương Ga (2014) chuyển
thể từ tiểu thuyết Phiên bản của nhà văn Nguyễn Đình Tú, Nước (2014) được
chuyển thể từ truyện ngắn Nước như nước mắt của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư,
bộ phim Dịu dàng được chuyển thể từ truyện ngắn Người đàn bà dịu dàng
của nhà văn Nga Fyodor Dostoyevsky, phim Quyên (2015) được chuyển thể
từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Văn Thọ và đặc biệt là phim Tôi
19
thấy hoa vàng trên cỏ xanh (2015) chuyển thể từ cuốn sách cùng tên của nhà
văn Nguyễn Nhật Ánh đã thổi những luồng gió mới cho phim chuyển thể
nước nhà và hứa hẹn nhiều bộ phim hấp dẫn sẽ ra đời theo xu thế chuyển thể.
Ghi nhận những thành quả mà văn học đem lại cho điện ảnh, giải thưởng
luôn song hành cùng giải Oscar cho Kịch bản gốc hay nhất (Best Writing –
Original Screenplay) là giải Oscar cho Kịch bản chuyển thể hay nhất (Best
Writing – Adapted Screenplay) trong danh sách giải thưởng của Oscar – một
trong những giải thưởng điện ảnh danh giá nhất hành tinh ngay từ kỳ trao giải đầu
tiên (năm 1928 – 1929). Đây là giải thưởng được trao hàng năm cho những người
viết kịch bản được chuyển thể từ một nguồn khác, thường là từ kịch, tiểu thuyết
hoặc truyện ngắn, đôi khi là từ một bộ phim khác. Những kì trao giải Oscar gần
đây, nhiều bộ phim chuyển thể được giới chuyên môn đánh giá cao cũng như
nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của khán giả. Oscar lần thứ 87: bộ phim The
Imitation Game – Graham Moore, chuyển thể từ Alan Turing: The Enigma bởi
Andrew Hodges, phim The Theory of Everything – Anthony McCarten được
chuyển thể từ Travelling to Infinity: My Life with Stephen bởi Jane Wilde
Hawking, Whiplash – Damien Chazelle, chuyển thể từ phim ngắn cùng tên của
anh. Trong lễ trao giải Oscar lần thứ 88 gần đây nhất, bộ phim The Big Short –
Adam McKay và Charles Randolph được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của
Michael Lewiss, phim Room – Emma Donoghua được chuyển thể từ kịch bản
gốc Room của Emma Donoghue… đều là những bộ phim được đề cử giành giải
thưởng lớn trong lễ trao giải Oscar. Chính sức hấp dẫn và tác động của văn học
đã khiến không chỉ người làm phim mà báo giới đều quan tâm đến những bộ
phim chuyển thể, tờ Celeb bình chọn “10 bộ phim xuất sắc nhất chuyển thể từ tác
phẩm văn học”; trang Premiere tổng hợp “Top 10 bộ phim hay hơn sách”, tạp chí
Mỹ Forbes cũng công bố “những bộ phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại (tại
thị trường Mỹ) được chuyển thể từ các cuốn sách bán chạy nhất”…
20
Những con số và sự kiện trên đã phần nào cho thấy mảnh đất văn học và
điện ảnh dường như đi gần nhau hơn, điện ảnh vừa “chịu ơn” văn học nhưng
đồng thời cũng mở rộng biên độ cho văn học, giúp văn học thăng hoa hơn.
Các nhà làm phim cả trong và ngoài nước sẽ thật khó lòng bỏ qua những
cuốn sách best-seller để đánh vào thị hiếu và tâm lý công chúng, đồng thời
cũng giúp văn học đến gần hơn với mọi người. Cho nên, mặc dù đã có
không ít những nghiên cứu về mối quan hệ của hai ngành nghệ thuật này
nhưng vẫn còn rất nhiều miền đất hứa để người viết tiếp tục khơi sâu, nghiên
cứu nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh từ góc nhìn cốt
truyện và nhân vật.
Vận dụng những kiến thức của liên văn bản và cải biên, người viết
muốn đề cập đến vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh
– một trong những hoạt động điển hình của sự giao lưu văn học và điện ảnh,
mô tả sự chuyển hoá tiểu thuyết, kịch, truyện ngắn cùng những nguồn văn học
khác của phim. Nhìn chung, khi chuyển thể một tác phẩm văn học thành tác
phẩm điện ảnh người ta thường khai thác những yếu tố như vốn sống, tâm lý
nhân vật, thân phận con người, các mối quan hệ xã hội… trên cơ sở ban đầu
người chuyển thể phải nhìn nhận được khuôn hình điện ảnh, chất điện ảnh
chứa đựng trong tác phẩm văn học. Vì vậy, khi đánh giá về tính trung thành
của phim chuyển thể người ta thường đặt ra câu hỏi: các chi tiết trong bối
cảnh và kịch bản được duy trì và tái dựng ở mức độ nào? Tính đặc trưng và
phức tạp của các nhân vật tồn tại tới mức nào trong tác phẩm chuyển thể? Các
chủ điểm và ý tưởng của tác phẩm gốc được truyền tải trong tác phẩm chuyển
thể thế nào? Bối cảnh lịch sử và văn hoá trong tác phẩm gốc được thay đổi tới
đâu? Sự thay đổi trong tư liệu hay mô hình giao tiếp (một trang, một sân khấu,
35 thước phim) đã thay đổi ý nghĩa của tác phẩm với người đọc hay người
xem thế nào? Trả lời những câu hỏi trên cũng là cách để người xem định hình
21