Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

KỸ NĂNG KHAI THÁC KÊNH HÌNH SÁCH GIÁO KHOA KẾT HỢP LỒNG GHÉP GIÁO DỤC HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (816.32 KB, 17 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mã số: …………………………………….
1. Tên sáng kiến: “KỸ NĂNG KHAI THÁC KÊNH HÌNH SÁCH GIÁO
KHOA KẾT HỢP LỒNG GHÉP GIÁO DỤC HỌC SINH TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Bộ môn Lịch sử ở trường trung học cơ
sở
3. Mô tả bản chất của giải pháp
3.1. Tình trạng giải pháp đã biết
Bộ môn Lịch sử với những đặc trưng riêng của nó có vai trò và tác động
to lớn trong việc giáo dục thế hệ trẻ hiện nay. Tuy nhiên ngày nay việc học sinh
không thích học cũng như tìm hiểu về lịch sử dân tộc ngày càng nhiều. Nhiều
em cho rằng đây là một môn học thuộc lòng mất nhiều thời gian lại khô khan,
nhàm chán. Thiếu hiểu biết lịch sử là điều vô cùng nguy hiểm khi văn hóa Việt
Nam, con người Việt Nam hội nhập với văn hóa và con người của nhiều dân tộc
trên thế giới.
Vậy tại sao học sinh lại thiếu hiểu biết và không thích học Lịch sử? Cũng
có nhiều nguyên nhân. Song không thể phủ nhận nguyên nhân xuất phát từ việc
dạy và học Lịch sử của chúng ta từ trước đến nay còn nặng về cung cấp kiến
thức gây ra tình trạng quá tải cho học sinh.
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, đặc trưng của bộ môn Lịch sử và yêu
cầu đổi mới giáo dục, cũng như thực tiễn dạy học bộ môn, việc biên soạn sách
giáo khoa Lịch sử Trung học cơ sở có nhiều đổi mới về nội dung và phương
pháp. Sách giáo khoa Lịch sử hiện nay được biên soạn không chỉ là tài liệu
giảng dạy của giáo viên mà còn là tài liệu học tập ở lớp và ở nhà của học sinh
theo định hướng mới. Đó là học sinh không phải học thuộc lòng sách giáo khoa
mà cần tìm tòi, nghiên cứu những sự kiện có trong sách giáo khoa dưới dạng tổ
chức giúp đỡ, hướng dẫn của giáo viên. Tuy nhiên, trên thực tế đa số giáo viên


đổi mới phương pháp giảng dạy nhưng còn chưa quan tâm khai thác kênh hình
hoặc xem kênh hình là hình ảnh minh hoạ mà quên đi chính đó là tư liệu không
thể thiếu được trong việc dạy học lịch sử. Nhiều bài còn quá nặng kiến thức do
vậy trong quá trình soạn giảng buộc giáo viên phải bù đầu vào nói sao cho đủ
kiến thức trong chương trình, còn học sinh chỉ lo học thuộc lòng số lượng kiến
thức trong 1 tiết nên không còn thời gian để suy ngẫm đưa ra câu hỏi tại sao? thế
nào?
Vì vậy việc khai thác nội dung của kênh hình là vấn đề quan trọng trong
việc thực hiện vấn đề tái tạo lịch sử, biểu tượng lịch sử. Nhưng làm thế nào để


phát huy tính tích cực học tập của học sinh qua việc khai thác đồ dùng trực quan
mới là điều quan trọng từ đó giúp các em nắm chắc, nhớ lâu được kiến thức, tự
giác chủ động lĩnh hội kiến thức, tăng thêm sự hứng thú trong học tập.
Bênh cạnh đó cũng do ảnh hưởng của những mặt trái của nền kinh tế thị
trường cũng như xu thế toàn cầu hóa và đặc biệt một bộ phận thanh thiếu niên
nói chung đang có những biểu hiện tiêu cực như chạy theo lối sống buông thả,
thích hưởng thụ, ngại lao động, chuộng những sinh hoạt thiếu lành mạnh, không
có ý thức trong bảo vệ môi trường, xa vào tệ nạn xã hội thậm chí vi phạm pháp
luật …Đó cũng là một vấn đề luôn được xã hội quan tâm. Vì vậy Đảng ta đã xác
định giáo dục đào tạo có một vị trí rất quan trọng, phải lấy giáo dục con người
làm gốc.
Như vậy việc khai thác kênh hình như thế nào để đạt hiệu quả tốt nhất và
thông qua những hình ảnh đó người giáo viên lồng ghép giáo dục được những
gì. Đó là một trong những vấn đề đòi hỏi chúng ta cần phải thực hiện. Từ đó tôi
chọn đề tài “Kỹ năng khai thác kênh hình sách giáo khoa kết hợp lồng ghép giáo
dục học sinh trong dạy học Lịch sử”.
3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến
a) Mục đích của giải pháp
Trong cuộc sống của mỗi con người, mỗi dân tộc là sự chuyển biến liên

tục từ quá khứ đến hiện tại và đến tương lai. Hiện tại còn in hình bóng của quá
khứ và đi lên từ quá khứ. Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng sức lực ngày
nay nhưng cũng bằng sức lực của những ngày đã qua, bằng vốn có từ trước của
dân tộc và của các nước trên thế giới. Vì vậy đề tài này hướng đến chính là khơi
dậy khả năng tư duy, sáng tạo của học sinh, thông qua đồ dùng trực quan về các
bản đồ, sơ đồ, về các nhân vật lịch sử cũng như về các sự kiện lịch sử của Việt
Nam và thế giới, học sinh được khắc sâu và ghi nhớ những nội dung của bài
học. Từ đó các em có những hiểu biết nhất định về lịch sử của nhân loại, thêm
yêu quý và tự hào về những trang sử hào hùng của dân tộc, tôn thờ và ngưỡng
mộ những danh nhân thế giới nói chung và danh nhân Việt Nam nói riêng. Đặc
biệt trong xu thế toàn cầu hoá, ảnh hưởng của nền kinh tê thị trường, môi
trường, xã hội, biến đổi khí hậu, lối sống thực dụng của thanh niên hiện nay…
Chính vì thế chúng ta cần phải học lịch sử. Từ đó thế hệ mai sau biết quý trọng
những gì mình đang có, cũng như biết mình phải làm gì cho đất nước. Do đó, để
đạt mục tiêu trên cần hướng dẫn học sinh khai thác triệt để nội dung kênh hình sách
giáo khoa để học sinh khắc sâu, nắm chắc kiến thức qua nội dung bài học là phương
tiện thông tin có hiệu quả nhất về quá khứ lịch sử vừa là phương tiện làm việc của
học sinh. Nó là chiếc “cầu nối” giữa quá khứ xa xôi với hiện tại. Nhưng trong một
tiết học làm thế nào để học sinh hoạt động là chính, giáo viên chỉ là người tổ chức
hướng dẫn các hoạt động của học sinh, lựa chọn phương pháp phù hợp với nội dung
bài dạy để truyền đạt - học sinh lĩnh hội và từ đó giáo viên lồng ghép giáo dục học

2


sinh cho phù hợp với nội dung kênh hình một cách tự nhiên, nhẹ nhàng mà không
nặng nề quá tải. Đó chính là mục đích chính của đề tài này.
Không những thế, đề tài “Kỹ năng khai thác kênh hình sách giáo khoa kết
hợp lồng ghép giáo dục học sinh trong dạy học Lịch sử” còn có những mục đích
sau:

- Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Lịch sử trong trường
Trung học cơ sở;
- Nhằm tạo sự say mê hứng thú cho các em đối vối lịch sử dân tộc và cả lịch
sử thế giới;
- Khắc phục tình trạng học vẹt, ghi nhớ máy móc;
- Phát triển năng lực nhận thức, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, hình thành
nhân cách đạo đức học sinh thông qua việc lồng ghép giáo dục ;
- Nhằm rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho bản thân;
- Thu thập được kinh nghiệm của quí đồng nghiệp thông qua việc tiếp thu ý
kiến.
b) Nội dung của giải pháp
* Những điểm khác biệt, tính mới của giải pháp
Kênh hình không những minh hoạ, làm cơ sở cho việc tạo biểu tượng lịch
sử mà còn là một nguồn cung cấp kiến thức cho học sinh, vì một số bài viết
trong sách giáo khoa còn có nhiều nội dung để bỏ ngỏ, yêu cầu học sinh thông
qua làm việc với tranh ảnh, lược đồ, sơ đồ... để tìm tòi, khám phá những kiến
thức mới, cần thiết liên quan đến nội dung bài học. Hiện nay, nhiều giáo viên đã
khai thác đồ dùng trực quan sách giáo khoa để đổi mới phương pháp dạy học
bằng nhiều phương tiện khác nhau và phương pháp khác nhau...nhưng kết quả
đạt được ở những mức độ không đồng đều. Thực tế như sau:
- Không ít giáo viên hiểu chưa hết nội dung, ý nghĩa của các kênh hình,
nên chưa vận dụng đúng đắn vào trong bài giảng, vì vậy hiệu quả bài giảng
không cao;
- Nhiều giáo viên nhận thức đầy đủ giá trị ý nghĩa của kênh hình nhưng
lại ngại sử dụng, sợ mất thời gian hoặc sử dụng mang tính chất hình thức, minh
hoạ cho bài giảng;
- Có giáo viên lại sưu tầm nhiều hình ảnh sinh động, có nội dung liên
quan đến kênh hình trong sách giáo khoa, nhưng chỉ mang tính giới thiệu, chứ
chưa mang tính chất khai thác để nâng cao chất lượng dạy học;
- Giáo viên chỉ hướng dẫn khai thác kênh hình để học sinh lĩnh hội kiến

thức mà quên đi việc lồng ghép giáo dục để góp phần định hướng hình thành
nhân cách cho học sinh;
- Người dạy giáo dục một cách nặng nề không phù hợp với nội dung kiến
thức thông qua đồ dùng trực quan.
3


Ở đây, điểm mới của đề tài chính là việc khắc phục những hạn chế nêu
trên thông qua một số kĩ năng hướng dẫn khai thác đồ dùng trực quan một cách
hiệu quả mà nội dung giáo dục học sinh lại nhẹ nhàng, phù hợp . Đồng thời sẽ
tạo nên một không gian sinh động trong giờ học, giúp học sinh chủ động tiếp thu
kiến thức và học sinh sẽ nhớ kĩ, hiểu sâu hơn những kiến thức đã học, đã được
giáo dục nhắn nhủ của người thầy. Bên cạnh đó, còn góp phần phát triển kĩ năng
quan sát, phân tích, nhận xét, đánh giá, tổng hợp, suy luận so sánh và tư duy
ngôn ngữ cho học sinh …từ đó góp phần hình thành nhân cách đạo đức, tư
tưởng và lối sống cho các em trở thành những con người hoàn thiện.
Tuy nhiên, làm thế nào để khai thác tốt, nhằm phát huy đúng vị trí, vai trò
của đồ dùng trực quan trong sách giáo khoa Lịch sử và trong một thời gian ngắn
các em có khả năng nắm được kiến thức từ kênh hình kết hợp với kênh chữ để
hiểu bài học, không những thế mà còn mở rộng, hệ thống hoá được các kiến
thức đã học và vận dụng vào thực tế thì kĩ năng hướng dẫn khai thác đồ dùng
trực quan và lựa chọn nội dung để lồng ghép giáo dục cho phù hợp của giáo viên
đóng vai trò quyết định. Vì vậy nắm được những kỹ năng cơ bản để khai thác đồ
dùng trực quan hướng tới việc giáo dục phục vụ cho việc giảng dạy - giáo dục là
sự cần thiết về chuyên môn của giáo viên nói chung và giáo viên Lịch sử nói
riêng hiện nay. Đây là điểm khác biệt và điểm mới của đề tài nhằm phát huy tính
tích cực chủ động của học sinh.
* Cách thức, các bước thực hiện của giải pháp
Người giáo viên khi lên lớp trong bất kì 1 giáo án nào đều cũng có mục
tiêu của nó gồm có kiến thức cần đạt, kỹ năng và giáo dục tư tưởng. Tuy nhiên

nếu từ kênh hình mà chúng ta khai thác tốt để từ đó lồng ghép giáo dục một nội
dung thích hợp thì nó có giá trị nhiều lần so với các phương pháp giáo dục khác.
Để khai thác kênh hình có hiệu quả cần thực hiện một số yêu cầu sau:
- Về phía giáo viên:
+ Nắm chắc nội dung chương trình;
+ Xác định rõ kiến thức, nội dung trong bài mà học sinh cần lĩnh hội qua
kênh hình;
+ Chuẩn bị một số câu hỏi phù hợp với trình độ học sinh gợi ý để các em
biết tự giác khai thác kiến thức từ đồ dùng trực quan;
+ Giáo viên phải đặt ra tình huống có vấn đề, hướng dẫn, tổ chức học sinh
khai thác tìm ra;
+ Kịp thời động viên, khuyến kích và đánh giá học sinh và tổ chức cho
học sinh tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau;
+ Giáo viên phân tích tổng hợp và kết luận hoạt động của học sinh.
+ Người dạy phải xác định nội dung cần lồng ghép, thời điểm lồng ghép,
cách lồng ghép như thế nào cho phù hợp với bài dạy… Cần phải chọn lọc, linh
hoạt vận dụng nội dung giáo dục phù hơp qua đồ dùng trực quan đó để lồng
4


ghép vào bài dạy. Khi áp dụng phải chú ý đến thời gian phân bố trong tiết học.
Không được “tham” kiến thức, sa đà, ảnh hưởng thời gian lên lớp.
- Về phía học sinh: Khi hướng dẫn học sinh khai thác nội dung đồ dùng
trực quan qua tranh ảnh lịch sử, giáo viên cần chú ý rèn luyện cho học sinh
những kỹ năng sau:
+ Kỹ năng quan sát, nhận xét;
+ Kỹ năng mô tả;
+ Kỹ năng phân tích, nhận định, đánh giá (tự đánh giá và đánh giá lẫn
nhau)
+ Kỹ năng tự liên hệ bản thân.

** Các bước khai thác kênh hình sách giáo khoa
- Hướng dẫn học sinh tham gia một chuyến du lịch bằng cách giới thiệu
sơ lược và hấp dẫn những hình ảnh trong hệ thống kênh hình:
+ Cho học sinh quan sát tranh ảnh để xác định một cách khái quát nội
dung tranh ảnh cần khai thác;
+ Nêu mục đích làm việc với tranh ảnh;
+ Đưa ra những câu hỏi gợi ý để cho học sinh có cơ sở khai thác kiến thức
từ tranh ảnh;
+ Tổ chức cho học sinh trả lời câu hỏi trên cơ sở các em tự phát hiện;
+ Tạo cơ hội cho học sinh nhận xét, bổ sung trước khi đi đến kết luận.
Dạy học tích cực thực chất là quá trình hướng dẫn học sinh cách học, quá
trình đó không chỉ là do người truyền thụ mà quan trọng hơn phải là do chính
các em tìm tòi khám phá, giải quyết. Việc khai thác vốn kiến thức sẵn có của học
sinh trong dạy học lịch sử có nhiều cách tùy thuộc vào khả năng của mỗi giáo
viên, vào đối tượng học sinh, vào thiết bị và phương tiện dạy học. Song có thể
sử dụng một cách phổ biến sau:
- “Đặt câu hỏi cho học sinh trả lời” với cách này câu hỏi đưa ra phải tạo
cơ hội cho học sinh bộc lộ sự hiểu biết vốn có của mình, tránh trường hợp chỉ
cần đọc tài liệu là trả lời được và để học sinh tự liên hệ bản thân qua gợi ý của
giáo viên.
- Hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức từ tranh ảnh chính là cách khai
thác vốn hiểu biết sẵn có của học sinh để các em tự nói lên những hiểu biết vốn
có của mình làm được như vậy học sinh sẽ hiểu bài sâu và nhớ lâu những kiến
thức đã học.
** Kỹ năng khai thác kênh hình sách giáo khoa
Để đạt hiệu quả cao khi khai thác đồ dùng trực quan trong sách giáo khoa
Lịch sử nhằm phục vụ cho việc giảng dạy, giáo viên nên yêu cầu học sinh quan
sát và tìm hiểu thông tin liên quan đến kênh hình của bài học mới ở nhà. Đồng
5



thời phải có kế hoạch cụ thể công việc của thầy và trò trong quá trình làm việc
trên lớp.
Trước hết để khai thác tốt đồ dùng trực quan và đạt mục tiêu giáo dục
lồng ghép trong phục vụ cho việc giảng dạy bộ môn lịch sử, bằng những kinh
nghiệm thực tế, xin trình bày một số kỹ năng cơ bản sau:
Thứ 1: Nắm được phương pháp cơ bản khai thác các loại đồ dùng trực
quan
- Về cơ bản, hệ thống đồ dùng trực quan lịch sử hiện nay, gồm có hai loại
chính sau: Lược đồ, biểu đồ và hình ảnh lịch sử
Trong loại hình ảnh lịch sử lại có hai nhóm chính:
Nhóm 1: Hình ảnh minh họa tình hình quân sự, kinh tế, văn hoá, chính trị,
khoa học kĩ thuật...
Nhóm 2: Hình ảnh về nhân vật lịch sử.
Do mỗi loại kênh hình thể hiện một nội dung khác nhau, nên phương pháp
khai thác cũng khác nhau và phải phù hợp, cụ thể là:
- Loại lược đồ, biểu đồ: Phương pháp là khai thác từng bước những vấn
đề lịch sử đặt ra để đi đến hoàn thiện ;
- Nhóm hình ảnh minh hoạ: Phương pháp là khai thác những chi tiết của
hình ảnh để đi đến đến hoàn thiện ;
- Nhóm hình ảnh nhân vật lịch sử. Phương pháp là tìm hiểu hoạt động của
nhân vật lịch sử để đi đến hoàn thiện.
Thứ 2: Phải nắm được kiến thức cơ bản của các loại đồ dùng trực quan.
Việc nắm được kiến thức cơ bản của các loại đồ dùng trực quan đóng một
vai trò rất quan trọng, giúp giáo viên chủ động, linh hoạt trong quá trình tổ chức
khai thác các loại đồ dùng trực quan trên lớp.
Để nắm được kiến thức cơ bản của các loại đồ dùng trực quan, bên cạnh
những tài liệu như các loại sách tham khảo, sách giáo khoa, sách giáo viên, sách
chuẩn kiến thức kỹ năng... thì Internet đang trở thành công cụ đắc lực và được
phổ biến trong việc khai thác thông tin, tìm tài liệu hiệu quả nhất. Hầu hết cách

các loại đồ dùng trực quan và những thông tin liên quan đều đã có trên một số
trang Web của Internet, nên việc tìm thông tin trên Internet, có nhiều lợi ích,
như:
- Hình ảnh màu, sắc nét và sinh động hơn hình ảnh trong sách giáo khoa;
- Thông tin phong phú và có những đánh giá về vấn đề lịch sử mang tính
hiện đại, phù hợp với quan điểm hiện nay hơn;
- Tiết kiệm được thời gian tìm kiếm thông tin...
Thứ 3: Xác định mục đích cần hướng đến khi khai thác đồ dùng trực
quan
6


Việc xác định mục đích cần hướng đến khi khai thác các loại đồ dùng trực
quan là nhằm tránh sự chệch hướng trong quá trình khai thác và để đạt hiệu quả
cao nhất là phải giáo dục được gì sau khai thác.
Thứ 4: Thiết kế câu hỏi hợp lý, trọng tâm
Câu hỏi hợp lý, trọng tâm, có ý nghĩa rất quan trọng, nó không những
phát huy được tính tích cực, phát triển khả năng tư duy của học sinh mà còn
giúp học sinh hiểu sâu, nhớ kĩ những kiến thức được tìm hiểu và thấm nhuần nội
dung giáo dục cần hướng đến, tránh giáo dục không phù hợp.
** Nguyên tắc khai thác đồ dùng trực quan
Giáo viên đứng lớp cần phải có sự chuẩn bị chu đáo cẩn thận, nghiên cứu
kỹ trước nội dung các loại đồ dùng trực quan trước khi lên lớp. Chuẩn bị lời nói
ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu và gây hứng thú cho học sinh. Chính yêu cầu đó sẽ
giúp người giáo viên nâng cao ý thức tự giác, tinh thần trách nhiệm trong các
giờ lên lớp và xác định nội dung lồng ghép giáo dục là gì : giáo dục tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh, học tập tấm gương phong cách đạo đức Hồ Chí Minh,
giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu, pháp luật, dân số, lòng yêu
nước, tinh thần dũng cảm, cần cù lao động...
Ngoài ra, khi sử dụng kênh hình trong dạy học giáo viên chủ yếu đóng vai

trò hướng dẫn, chỉ đạo, còn học sinh phải tự quan sát nghiên cứu để rút ra kiến
thức. Giáo viên phải khắc phục khó khăn sưu tầm các tài liệu có liên quan đến
đồ dùng trực quan, trao đổi chuyên môn tổ, cụm chuyên môn để có cách sử dụng
các loại đồ dùng trực quan trong sách giáo khoa một cách hiệu quả nhất.
Bên cạnh đó học sinh học sinh phải tự giác tìm hiểu các loại đồ dùng trực
quan dưới sự hướng dẫn gợi mở của giáo viên, tiếp nhận kiến thức một cách chủ
động.
Để nâng cao hiệu qủa sử dụng các loại đồ dùng trực quan cần đảm bảo
các nguyên tắc sau:
Một là: Sử dụng đúng mục đích
Trong quá trình dạy học giáo viên phải đề ra được đúng mục đích dạy
học, tiến trình các hoạt động lên lớp. Hoạt động của giáo viên cũng như việc sử
dụng kênh hình trong sách giáo khoa quy định mục đích học tập của học sinh.
Mục đích của mỗi bài chính là học sinh lĩnh hội được tri thức, hình thành và
phát triển kỹ năng, nhân cách. Mỗi một loại đồ dùng trực quan trong sách giáo
khoa có một chức năng riêng nên chúng phải được nghiên cứu cụ thể để sử dụng
đúng mục đích, phù hợp với yêu cầu bài học.
Hai là: Sử dụng đúng lúc
Nghĩa là kênh hình lúc nào cũng phải được sử dụng hợp lý nhất, trong
trình bày kiến thức mới hay là củng cố kiến thức đã học hoặc ra bài tập về nhà.
Tóm lại cần được đưa ra khi học sinh cần được minh họa, cần tìm hiểu nhất về
nội dung bài học, tránh đưa ra đồng loạt phân tán sự chú ý của học sinh và nội
dung giáo dục phù hợp với kiến thức của kênh hình.
7


Ba là: Sử dụng đúng mức độ, cường độ
Tùy vào từng nội dung, mục đích sử dụng mà giáo viên đưa ra những yêu
cầu khác nhau đối với học sinh. Trong giờ giảng bài mới nếu điều kiện thời gian
không cho phép thì giáo viên chỉ tập trung giới thiệu, thuyết minh một số hình

vẽ, sơ đồ, lược đồ, tranh ảnh điển hình nhất (nếu bài nhiều tranh ảnh). Với
những hình ảnh khác giáo viên chỉ dừng lại ở việc cho học sinh quan sát sơ lược
để học sinh nắm được những biểu tượng ban đầu mà thôi. Hoặc với những đồ
dùng để minh họa cho bài giảng giáo viên không nên cho học sinh đứng lên
thuyết trình về đồ dùng trực quan đó vì điều đó vượt quá sức của học sinh, giáo
viên có thể giao cho học sinh tìm hiểu thêm ở nhà. Hơn nữa cần phải bố trí thời
gian ở những đồ dùng trực quan một cách hợp lý mà không bỏ qua phần cơ bản
là kênh chữ.
Bốn là: Kết hợp sử dụng đồ dùng trực quan trong sách giáo khoa với các
đồ dùng được trang bị
Như bản đồ, sơ đồ, tranh ảnh phóng to, các tài liệu thành văn có liên quan.
Với những kênh hình khó quan sát, mờ hoặc chưa cụ thể, giáo viên có thể phóng
to, sưu tầm ảnh màu trên Internet hoặc cụ thể hóa để các em dễ nhận biết và tiếp
thu hơn.
Năm là: Nội dung thuyết minh đồ dùng trực quan phải sinh động, hấp
dẫn, kết hợp với những lời nói truyền cảm thì mới có sức thuyết phục cao đối
với học sinh.
Sáu là: Phương pháp thường hay sử dụng để khai thác các loại đồ dùng
trong sách giáo khoa lịch sử: Hướng dẫn học sinh quan sát (từ tổng thể đến chi
tiết), kết hợp miêu tả, phân tích, đàm thoại thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở
của giáo viên để học sinh tự rút ra được ý nghĩa của đồ dùng đó. Giáo viên có
thể tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm, cá nhân hoặc toàn lớp…
Hiệu quả sử dụng đồ dùng trực quan còn phụ thuộc vào sự ham muốn của
học sinh, giáo viên phải là người đưa ra tình huống có vấn đề để kích thích sự
hiểu biết của học sinh, khơi dậy niềm đam mê của học sinh đối với môn học.
Phải lấy kiến thức lịch sử làm nội dung chính và từ đó lồng ghép giáo dục
phù hợp hướng việc dạy học lịch sử vào các chức năng, nhiệm vụ giáo dục học
sinh để làm cho hiệu quả dạy học có chất lượng cao hơn chứ không làm cho việc
dạy học bộ môn thêm nặng nề, quả tải làm hiệu quả giáo dục không cao.
** Ví dụ cụ thể

Ví dụ về việc sử dụng khai thác lược đồ sách giáo khoa
Khi tổ chức các hoạt động dạy học có sử dụng lược đồ, bản đồ nhất thiết
phải lưu ý sử dụng và khai thác các kĩ năng sau: vẽ lược đồ, tường thuật, miêu
tả, quan sát, so sánh, nhận định đánh giá, rút ra quy luật, bài học lịch sử và nội
dung lồng ghép giáo dục. Quá trình khai thác việc đầu tiên cần thực hiện là
hướng dẫn học sinh đọc tên lược đồ, bản đồ; xác định ranh giới, chú giải bản đồ,
lược đồ, sau đó thực hiện các bước theo trình tự như đã nêu trên.
8


- Hình 33 – Lược đồ chiến thắng Bạch Đằng – năm 1288 (sách giáo
khoa Lịch sử 7 trang 64)

Kiến thức cơ bản được khai thác
Nhìn vào lược đồ ta thấy, Bạch Đằng là con sông lớn do sông Đá Bạc,
sông Giá và nhiều sông nhánh khác đổ vào. Lòng sông rộng mênh mông, bên
phải có dãy núi đa vôi Tràng Kênh ăn sát ra bờ sông, bên trái là rừng cây um
tùm. Nắm được kế hoạch rút quân của địch, Trần Quốc Tuấn huy động nhân dân
lên rừng đẵn gỗ (lim, táu), đẽo nhọn làm cọc, rồi bịt sắt ở đầu cọc, đem cắm
xuống lòng sông, tạo thành trận địa cọc ngầm khổng lồ. Thủy quân của ta mai
phục trong các nhánh và vũng sông; bộ binh giấu kín trong núi đá Tràng Kênh
và rừng rậm bên trái sông Bạch Đằng; Đại quân do Vua Trần và Trần Quốc Tuấn
chỉ huy sẵn sàng tiếp ứng cho trận quyết chiến chiến lược.

9


Bãi cọc ngầm trên sông Bạch Đằng
Sáng sớm ngày 9-04-1288, đoàn thuyền giặc do Ô Mã Nhi chỉ huy, có bộ
binh hộ tống từ Vạn Kiếp tiến ra cửa sông Bạch Đằng về nước . Một đội thuyền

của ta ra khiêu chiến, rồi vờ thua chạy. Ô Mã Nhi ra lệnh cho quân đuổi theo.
Khi quân giặc lọt vào trận địa mai phục, quân ta bất ngờ quay lại phản công.
Cùng lúc đó nước triều rút xuống, thuyền địch bị dồn về bãi cọc ngầm, một số bị
va vào cọc nhọn bị vỡ và đắm. Quân ta từ hai bờ sông đổ ra đánh, những bè lửa
được phóng vào đốt cháy thuyền địch. Đồng thời, hàng trăm chiếc thuyền của ta
từ các nhánh sông nhất loạt lao tới. Quân giặc không kịp trở tay, chết rất nhiều.
Chiều tối, toàn bộ quân thủy địch bị tiêu diệt, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp… bị bắt
sống. Chiến thắng Bạch Đằng làm quân giặc khiếp sợ, phải từ bỏ mộng xâm
lược nước ta.
Phương pháp sử dụng
Lược đồ chiến thắng Bạch Đằng – năm 1288 được sử dụng khi dạy mục
III, ý 3 – Chiến thắng Bạch Đằng. Để tiện cho học sinh theo dõi, giáo viên
phóng to lược đồ hoặc sử dụng bản đồ có sẵn (nếu có). Khi sử dụng, trước hết
giáo viên giới thiệu hệ thống kí hiệu trên lược đồ, yêu cầu HS quan sát, kết hợp
với nội dung theo dõi SGK và gợi mở một số câu hỏi:
Câu 1. Nhìn trên lược đồ em có nhận xét gì về sông Bạch Đằng ?
Câu 2. Đoán được âm mưu rút quân của địch bằng đường thủy qua sông
Bạch Đằng, Trần Quốc Tuấn đã làm gì ?
Câu 3. Khi thuyền địch đến gần bãi cọc quân ta đã làm gì ? Kết quả của
trận đánh ra sao ?...
Câu 4. Để trận địa cọc ngầm Bạch Đằng có thể phát huy tác dụng, góp
phần đánh bại thủy quân Nguyên, quân ta cần lưu ý đến yếu tố tự nhiên nào?
Sau khi HS thảo luận, giáo viên tường thuật chốt lại nội dung trận đánh
(như trên). Kết thúc tường thuật, giáo viên yêu cầu học sinh trả lời:
Câu 5. Kế hoạch đánh giặc của Trần Quốc Tuấn chủ động và độc đáo ở
điểm nào?
Câu 6. Nêu ý nghĩa chiến thắng Bạch Đằng năm 1288?
Yêu cầu thảo luận: Cách đánh quân Nguyên ở trận Bạch Đằng?
Nội dung giáo dục được lồng ghép: biết phát huy mặt lợi - hại của chế độ
thủy triều đối với vùng ven biển, con người đã khai thác lợi thế môi trường tự

nhiên vào mục đích chiến lược quân sự, góp phần bảo vệ độc lập dân tộc.
Ví dụ về việc hướng dẫn khai thác sử dụng tranh vẽ, hình ảnh
- Hình 8 –Tranh khắc trên tường đá một lăng mộ ở Ai Cập thế kỉ XIV
TCN (Sách giáo khoa Lịch sử 6 trang )

10


Tranh miêu tả cảnh làm ruộng của người Ai Cập cổ đại thế kỉ XIV TCN
Kiến thức cơ bản được khai thác:
Chu kì lên - xuống của dòng sông Nin cũng là chu kỳ lao động của người
Ai Cập cổ đại. Hằng năm vào khỏng từ tháng 1 đến tháng 2 năm sau, khi nước
lũ sông Nin rút đi để lại những lớp phù sa màu mỡ, cũng là lúc bắt đầu gieo hạt.
Người ta dùng cày gỗ do cừu kéo để làm đất, người tra hạt đi sau tra vào các lỗ
do chân cừu tạo nên hoặc dùng một cọc gỗ tạo các lổ cho một tra hạt..Đến mùa
thu hoạch, cư dân dùng liềm cắt lúa cho vào sọt do hai người khiêng….năng
suất lao động tăng. Đến thế kỉ XIV TCN, kĩ thuật làm ruộng của người Ai Cập
cổ đại đã đạt đến trình độ cao.
Phương pháp sử dụng
Tranh miêu tả cảnh làm ruộng của người Ai Cập cổ đại được sử dụng để
dạy bài 4: Các quốc gia cổ đại phương đông mục 1: Các quốc gia cổ đại phương
Đông đã được hình thành ở đâu và từ bao giờ?
Nội dung lồng ghép để giáo dục: Điều kiện tự nhiên của lưu vực những
dòng sông lớn như thế nào? Thuận lợi cho việc sản xuất ra sao?
Giáo viên cung cấp cho học sinh những thông tin các quốc gia cổ đại
phương đông: tên quốc gia, thời gian ra đời, địa điểm thành lập...
Hướng dẫn học sinh quan sát bức tranh đồng thời giới thiệu cho học sinh
thấy những hình ảnh không chỉ khẳng định giá trị về mặt văn hoá mà còn là
nguồn tư liệu quý, giúp chúng ta khôi phục lịch sử thế giới thời cổ đại
Giáo viên tổ chức hoạt động dạy học: trên cơ sở tư liệu sách giáo khoa,

thông tin của Giáo viên cung cấp, học sinh hoạt động nhóm tìm hiểu các nội
dung sau:
1. Những hình ảnh khắc trên lăng mộ phản ánh điều gì?
2. Vì sao các quốc gia cổ đại phương Đông lại được hình thành ở lưu vực
các sông lớn?
11


3. Tại sao kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước lại phát triển ở các quốc gia
cổ đại phương Đông?
4. So sánh cuộc sống của người dân ở các quốc gia cổ đại phương Đông
với cuộc sống của người Tinh khôn thời nguyên thủy em có nhận xét gì? Giải
thích vì sao?
Giáo viên kết luận: từ chỗ dựa vào tự nhiên để tồn tại, con người đã phát
triển lên giai đoạn biết khai thác và sử dụng điều kiện tự nhiên để nâng cao cuộc
sống, làm phân hóa người giàu – nghèo, xã hội nguyên thủy tan rã dần nhường
chỗ cho sự ra đời của nhà nước.
Nội dung giáo dục được lồng ghép: con người đã biết khai thác và sử
dụng, hạn chế tác hại của điều kiện tự nhiên một cách hợp lý để nâng cao cuộc
sống con người.
- Hình 107 – Tàu đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin (Sách giáo khoa Lịch sử 8
trang 148) (Lớp 8 bài Phong trào yêu nước chống Pháp từ đầu thế kỉ XX
đến năm 1918)

Kiến thức cơ bản được khai thác
Tàu đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin thuộc loại tàu viễn dương lớn nhất của
Pháp, còn gọi là hãng “Năm sao” vì trên ống khói của tàu có hình vẽ 5 ngôi sao.
Tàu dài 124,10 m, rộng 15,20 m chạy bằng hơi nước trọng tải 5572 tấn. Taa2u từ
Hải Phòng vào cảng Nhà Rồng để lấy hàng và chờ khách trước khi tiếp tục cuộc
hành trình trở lại Mác-xây và La-hơ-vơ ở Pháp.

Xuất phát từ lồng yêu nước thương dân, từ bến cảng nhà rồng , ngày 5
tháng 6 năm 1911. Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Văn Ba, xin làm phụ
bếp cho tàu La-tu-sơ Tơ-rê-vin để sang phương Tây tìm đường cứu nước. Công
việc hàng ngày rất nặng nề, mỗi ngày phải làm từ 4 giờ sáng quét dọn sạch sẽ
12


nhà bếp, đốt lữa trong lò…người ta thấy anh Ba ướt đẫm mồ hôi, mình đầy bụi
than….
Phương pháp sử dụng
Tổ chức cho học sinh quan sát ảnh kết hợp sách giáo khoa gợi mở một số
câu hỏi
Câu 1. Vì sao Nguyễn Tất Thành lại ra đi tìm đường cứu nước mới?
Câu 2. Người đã làm những công việc việc gì và cuộc sống ra sao?
Câu 3. Hướng đi của Người có gì mới so với những nhà yêu nước chống
Pháp trước đó?
Giáo viên kết luận: Hướng đi tìm đường cứu nước của Người khác với
các bậc tiền bối là đi sang phương Tây, một trung tâm kinh tế khoa học –kĩ thuật
của thế giới và tìm hiểu về kẻ thù của chính dân tộc mình để tìm cách giải phóng
dân tộc.
Nội dung lồng ghép giáo dục: sẽ khơi dậy cho các em lòng khâm phục và
kính yêu Người trong cuộc hành trình đầy gian khổ vì độc lập tự do cho Tổ
quốc. Qua đó để giáo dục cho học sinh tinh thần yêu nước, ý chí quyết tâm tìm
con đường cứu nước cho dân tộc, càng biết ơn Bác đã tìm ra con đường cứu
nước đúng đắn cho dân tộc ta để có cuộc sống như ngày nay
- Hình 11. Hội nghị cấp cao ASÊAN VI họp tại Hà Nội (Sách giáo
khoa Lịch sử 9 trang 25) (Lớp 9 bài 5 Các nước Đông Nam Á)

Kiến thức cơ bản được khai thác
Hội nghị cấp cao ASEAN VI được tổ chức tại Hà Nội (Việt Nam), từ ngày

15 đến 16-12-1998 dưới sự chủ toạ của thủ tướng nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam- Phan Văn Khải. Tham gia hội nghị gồm có nước chủ nhà Việt
Nam, Bru- nây, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a, Mi-an-ma, Phi13


lip-pin và Lào. Hội nghị đã tổng kết 31 năm phát triển của ASEAN, đề ra các
biện pháp để đối phó với những thách thức trong khu vực khi bươc vào thế kỷ
XXI.
Chủ đề của hội nghị cấp cao lần này là “Đoàn kết và họp tác vì một
ASEAN hoà bình, ổn định và phát triển đồng đều” hội nghị cũng đưa ra tuyên
bố Hà Nội cùng một văn kiện quan trọng, được các nguyên thủ quốc gia
ASEAN thông qua là “Chương trình Hà Nội- bước triển khai cụ thể của tầm
nhìn ASEAN năm 2020” (đã được các nguyên thủ quốc gia thông qua tại hội
nghị thượng đỉnh không chính thức ở Cua-la- lăm-pơ cuối năm 1997). Chương
trình này bao gồm những kế hoạch hợp tác của ASEAN trên tất cả các lĩnh vực,
kể cả chính trị, kinh tế, hợp tác chuyên ngành và quan hệ ngoại giao.
Ngày 15-12-1998, tại hội nghị VI, các nhà lãnh đạo ASEAN đã nhất trí
kết nạp Cam-pu-chia trở thành thành viên thứ 10 của Hiệp hội. Như vậy, quá
trình phát triển từ ASEAN 6 đến ASEAN 10 đã được lịch sử ghi nhận. Trong
ảnh là 9 thành viên đại diện cho 9 nước tham dự hội nghị (thủ tướng Phan Văn
Khải- người đứng thứ 5 từ trái sang) cùng nắm tay nhau giơ lên cao thể hiện
một tinh thần hợp tác, hoà bình và cùng nhau phát triển, vì một ASEAN “hoà
bình, ổn định và phát triển đồng đều”.
Những thành viên của hội nghị cấp cao lần thứ VI một lần nữa đã khẳng
định vai trò, vị trí của nước Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á. Điều đáng
lưu ý ở đây là trong hội nghị này Việt Nam đã bước đầu cho thấy khả năng tập
hợp và dàn xếp những vấn đề nội bộ của hiệp hội các nước Đông Nam Á.
Phương pháp sử dụng
Trước khi tiến hành khai thác kênh hình, giáo viên cho học sinh quan sát
toàn cảnh bức ảnh, tập trung sự chú ý của các em bằng một số câu hỏi:

Câu 1. Có bao nhiêu đại biểu trong bức ảnh này?
Câu 2. Họ đại diện cho những quốc gia nào?
Câu 3. Bức ảnh này được chụp khi nào, tại đâu? và nói lên điều gì?
Sau khi đặt câu hỏi cho học sinh trả lời, giáo viên tóm tắt và kết => Sự
phát triển về quy mô của ASÊAN. Giáo viên tiếp tục nâng cao với câu hỏi tư
duy cho học sinh:
Câu 4. Tại sao nói: Từ đầu những năm 90 của thế kỉ XX, “một chương
trình mới đã mở ra trong lịch sử khu vực Đông Nam Á”?
Nội dung giáo dục: tinh thần đoàn kết giữa các quốc gia trên tinh thần hoà
bình, ổn định, hợp tác và phát triển giữa các nước trong khu vực và Việt Nam
ngày càng có vị thế cao trong khu vực.
Trên đây là một số ví dụ minh họa về kỹ năng hướng dẫn khai thác các
loại đồ dùng trực quan trong sách giáo khoa lịch sử kết hợp lồng ghép giáo dục
nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh.

14


Đối với những bài học không có kênh hình trong sách thì giáo viên nên
chủ động tìm kiếm những hình ảnh, lược đồ có liên quan đến nội dung bài học
để phân tích và minh họa làm cho tiết học Lịch sử thêm sinh động, hấp dẫn.
Những kênh hình nhỏ tuy đơn giản nhưng ý nghĩa lại vô cùng lớn. Song cái lớn
nhất mà người thầy đạt được đó là lôi cuốn học sinh học môn Lịch sử, tránh
nhàm chán, tránh tâm lý nặng nề, làm cho học sinh yêu thích môn học Lịch sử
hơn và đạt được mục tiêu giáo dục trong việc lồng ghép giáo dục học sinh. Đó
chính là mục tiêu của bộ môn Lịch sử trong việc đổi mới phương pháp dạy học
lịch sử hiện nay.
3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp
Biện pháp trên có thể áp dụng ở nhiều bài dạy Lịch sử, ở hầu hết các khối
lớp ở trường trung học cơ sở để tăng tính hiệu quả và hấp dẫn trong tiết học Lịch

sử. Khi thực hiện giáo viên phải phối hợp linh hoạt các biện pháp khác nhau phù
hợp với nội dung của từng bài học, lựa chọn nội dung giáo dục học sinh phù hợp
... để tăng tính hiệu quả của tiết dạy, nếu không sẽ đơn điệu và nhàm chán.
Chương trình Lịch sử ở trường phổ thông trình bày và cung cấp cho học
sinh tiến trình Lịch sử thế giới và dân tộc trên tất cả các mặt. Vì vậy để hiểu rõ
cũng như tránh nhận thức một cách rời rạc, tản mạn, thì việc chuẩn bị và vận
dụng kiến thức liên ngành là rất cần thiết để làm tăng hiệu quả của việc sử dụng
đồ dùng trực quan và phương pháp giáo dục hiệu quả từ đó thu hút gây sự chú ý
cho học sinh.
3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng các giải pháp
Bản thân tôi giảng dạy môn Lịch sử nhiều năm, trong quá trình giảng dạy
với ý thức vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập bộ môn của học sinh vừa
tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy. Và sau mỗi tiết dạy có sử dụng đồ
dùng trực quan tôi lại rút ra được kinh nghiệm cho bản thân để những tiết học
sau tôi sẽ phân tích hay hơn, hấp dẫn hơn, nội dung bài học càng được in đậm
hơn, giáo dục tư tưởng cho học sinh thấm nhuần hơn. Và tất nhiên việc khai thác
nội dung đồ dùng trực quan không phải bao giờ cũng thực hiện một chiều tức là
chỉ có giáo viên trình bày cho học sinh nghe mà người giáo viên phải biết khơi
gợi để học sinh tự phát hiện thông tin, tự trình bày theo ý hiểu của mình. Qua đó
còn rèn luyện được tính mạnh dạn, tự tin và khả năng thuyết trình trước tập thể
trong mọi hoạt động của học sinh, đạt mục tiêu bộ môn: ngoài mục tiêu giảng
dạy còn đạt mục tiêu đó là giáo dục ý thức học sinh.
Qua kết quả thống kê, trước khi nghiên cứu áp dụng đề tài thì tỉ lệ % học
sinh mạnh dạn, tự tin, thuyết trình trước tập thể và gây sự chú ý, hứng thú học
tập bộ môn như sau:
Năm học

Trình bày tốt


Biết trình bày

2017 – 2018

40%

40%

Trình bày kém
20%

15


- Học sinh chú ý đến bài giảng và hứng thú học tập bộ môn: 40% - 60%
và học sinh lơ là thụ động là 30 – 40%;
- Học sinh chỉ xem các đồ dùng trực quan trong sách giáo khoa là nhằm
để giải trí mà thôi;
- Lười biếng học bài, không chuẩn bị bài;
- Việc tiếp thu kiến thức mới có mức độ, các em có cảm giác giờ học lịch
sử rất khô khan.
Sau khi nghiên cứu áp dụng đề tài “Kỹ năng khai thác kênh hình sách
giáo khoa kết hợp lồng ghép giáo dục học sinh trong dạy học lịch sử ” trong năm
học 2018-2019 và trong năm học này này kết quả như sau:

Năm học

Trình bày tốt

Biết trình bày


Trình bày kém

2018 – 2019

80%

17%

3%

2019 - 2020

88%

10%

2%

- Học sinh chú ý đến bài giảng và hứng thú học tập bộ môn: 96% và còn
lại 4% là học sinh bắt đầu có sự chuyển biến tốt về thái độ học tập bộ môn.
Từ kết quả thu được tôi nhận thấy nếu tận dụng tốt những kỹ năng khai
thác đồ dùng trực quan kết hợp lồng ghép giáo dục trong tiết dạy sẽ đem lại hiệu
quả cao, đây cũng là một trong những nội dung thể hiện sự đổi mới phương
pháp dạy học, phát huy tính tích cực năng động của học sinh, làm cho kết quả bộ
môn không ngừng được nâng cao. Điều đó cho thấy đổi mới phương pháp dạy
học là một định hướng đúng đắn. Dạy học là một nghệ thuật đòi hỏi người thầy
phải không ngừng học hỏi và rèn luyện, nắm vững những nguyên tắc cơ bản đã
nêu trên cùng với sự sáng tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy lấy học sinh làm
trung tâm để phát huy tính tích cực, độc lập học tập của học sinh. Có như thế lớp

trẻ mà ta đang đào tạo mới thực sự là con người mới năng động, sáng tạo.
Để có được kết quả này trong quá trình thực hiện tôi cũng gặp không ít
khó khăn, vì phải thường xuyên theo dõi, động viên, khuyến khích, kiểm tra nắm
khả năng để điều chỉnh và chọn biện pháp hiệu quả hơn nhưng được bù lại là
điểm số và chất lượng các giai đoạn tăng lên đó là dấu hiệu đáng mừng đối với
giáo viên.
Tôi đã áp dụng biện pháp này ở rất nhiều bài, rất nhiều lớp khác nhau, kết
quả đạt được là rất khả quan, các em rất chăm chú khi tôi phân tích, rất muốn
16


được tham gia cùng tìm hiểu, rất hăng say suy nghĩ phát biểu khi tôi đưa ra
những câu hỏi về các sự kiện.
Với giáo viên Lịch sử, việc kết hợp kĩ năng, nguyên tắc khai thác đồ dùng
trực quan trong sách giáo khoa với ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ cho
giảng dạy, sẽ góp phần tích cực đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Nếu thực
hiện tốt, không những hoàn thiện những kĩ năng sư phạm, nâng cao được trình
độ chuyên môn của người thầy mà còn phát huy tính tích cực của học sinh trong
quá trình học bộ môn.
Trên đây là những nghiên cứu của tôi bằng kinh nghiệm thực tiễn tôi đã
giúp cho các em học sinh có ý thức cao trong học tập, chịu khó tìm tòi, học hỏi
để nắm được bài một cách tốt nhất, khiến các em ngày càng yêu thích môn học
Lịch sử hơn, từ đó góp phần hình thành nhân cách đạo đức, tư tưởng và lối sống
cho các em trở thành những con người hoàn thiện cả về đức - trí - thể - mĩ và
đặc biệt là không quay lưng lại với lịch sử dân tộc.
3.5. Tài liệu kèm theo: Không
Bến Tre, ngày … tháng … năm ……..

17




×