Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

.Lí Thường Kiệt- Trần Quang Khải.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (47.45 KB, 2 trang )

Lý Thường Kiệt
Năm 1019 tại căn nhà của một võ quan ở phường Thái Hoà, con trai đầu lòng của ông Ngô An
Ngữ và bà họ Hàn ra đời đặt tên là Ngô Tuấn.
Năm Thiên Thành đời Lý Thái Tông, ông An Ngữ được cử đi tuần vùng phía nam Thanh Hoá, ít
lâu sau bị lâm bệng qua đời.
Chồng của cô ruột là Tạ Ðức đem ông về nuôi dậy văn võ. Năm 18 tuổi mẹ mất (1036), Ngô Tuấn
cùng em lo đủ tang lễ mai táng. Hết tang, ông được bổ chức kỵ mã hiệu uý. Do tính siêng năng,
cần mẫn lại hết lòng trung thành, càng được vua tin yêu thăng thưởng dẫn lên đến chức Ðô Tri và
được đổi sang họ Vua gọi là Lý Thường Kiệt.
Năm 1061, ông được Vua cử vào trấn giữ vùng núi Thanh - Nghệ hiểm trở, ông đã vỗ về nhân dân
chăm lo sản xuất, khai khẩn đất hoang làm cho nhân dân no ấm, biên cương được bảo vệ vững
vàng.
Năm 1075, Nhà Tống do Vương An Thạch làm Tể tướng âm mưu chuẩn bị xâm lược nước ta,
Thái uý Lý Thường Liệt tâu với Thái hậu ý Lan rằng "Ngồi yên đợi giặc, không bằng đưa quân ra
trước ", Thái Hậu đồng ý cho Lý Thường Kiệt và Tông Ðản đem quân sang đánh phá các căn cứ
tập kết lương thực, vũ khí của Nhà Tống ở Châu Khâm, Châu Liêm, Châu Ung (Quảng Ðông,
Quảng Tây) rồi chủ động rút quân về nước. Lập phòng tuyến chống giặc Tống xâm lược ở bờ nam
sông Cầu.
Ðầu năm 1077 Quách Quỳ và Triệu Triệu Tiết dẫn hơn 10 vạn quân tiến vào xâm lược nước ta,
quân xâm lược bị quân và dân ta chặn lại bên bờ bắc sông Cầu hơn 2 tháng.
Chính trên phòng tuyến sông Cầu, Lý Thường Kiệt đã cho ra đời bài thơ:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tạI thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
Ðấy chính là "Bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của dân tộc ta. Quân Tống phải rút chạy về
nước, bờ cõi nuớc ta lại vững bền.
Lý Thường Kiệt đã có công đánh thắng nhà Tống, lại có công bình Chiêm. Tháng 6 năm ất Dậu
(1105), Ðôn Quốc Thái uý Lý Thường Kiệt mất, thọ 87 tuổi, nhà Vua truy tặng chức; nhập nội điện
đô tri hiển hiệu thái uý bình chương quân quốc trọng sự, tước Việt quốc công.
Thượng Tướng Thái Sư Trần Quang Khải


Trần Quang Khải (1241-1294) là con trai vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh).
Dưới triều vua Trần Thánh Tông (Anh ruột Quang Khải), Trần Quang Khải được phong chức tước
Chiêu Minh đại vương. Năm Giáp Tuất (1274), ông được giao chức Tướng quốc thái úy. Năm
Nhâm Ngọ (1282), dưới triều vua Nhân Tông, Trần Quang Khải được cử làm Thượng tướng thái
sư, nắm toàn quyền nội chính. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai và thứ ba,
Trần Quang Khải là vị tướng chủ chốt thứ 2, sau Trần Quốc Tuấn và có nhiều công lớn. Chính
Trần Quang Khải đã chỉ huy quân Trần đánh tan quân Nguyên ở Chương Dương và Thăng Long,
những trận then chốt nhằm khôi phục kinh thành vào cuối tháng 5 năm ất Dậu (1285).
Bên cạnh năng lực quân sự, Trần Quang Khải còn là một nhà thơ có vị trí không nhỏ trong văn học
sử Việt Nam. Ông là tác giả "Lạc Đạo" đã thất truyền và theo lời bình của Phạm Huy Chú, thơ ông
"thanh thoát, nhàn nhã, sâu xa, lý thú". Đọc bản dịch bài thơ "Vườn Phúc Hưng" của Quang Khải,
thấy rõ hơn tâm hồn ông:
Phúc Hưng một khoảnh nước bao quanh
Vài mẫu vườn quê đất rộng thênh
Hết tuyết chòm mai hoa trắng xóa
Quang mây đỉnh trúc sắc tươi xanh
Nắng lên mời khách pha trà nhấp
Mưa tạnh sai đồng giở thuốc nhanh
Báo giặc ải Nam không khói lửa
Bên giường một giấc ngủ ngon lành
Trần Quang Khải, một cuộc đời lớn, vừa làm Thủ tướng, vừa làm tướng, vừa đánh giặc vừa làm
thơ.

×