1
MỤC LỤC
MỤC LỤC.......................................................................................................... 1
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................... 3
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ ................................................................ 7
1.1 ĐÔ THỊ HOÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ VÀ VIỆC LÀM .............................................................. 7
1.1.1 BẢN CHẤT CỦA ĐÔ THỊ HOÁ ...................................................... 7
1.1.2 TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HOÁ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ VÀ VIỆC LÀM. ................................................................................. 11
1.2 VIỆC LÀM; TẠO VIỆC LÀM VÀ CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI
VIỆC LÀM CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ
HOÁ. ........................................................................................................... 22
1.2.1 VIỆC LÀM, TÌNH TRẠNG THẤT NGHIỆP VÀ THIẾU VIỆC
LÀM......................................................................................................... 22
1.2.2 TẠO VIỆC LÀM VÀ CÁC MÔ HÌNH TẠO VIỆC LÀM. .............. 30
1.2.3 CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC LÀM CHO NGƢỜI LAO
ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ. ......................................... 37
1.3 MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM Ở CÁC ĐỊA PHƢƠNG.......................................................... 41
1.3.1 KINH NGHIỆM Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƢƠNG.................................. 41
1.3.2 MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TRONG VIỆC GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM Ở CÁC ĐỊA PHƢƠNG. ......................................... 48
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƢỜI LAO
ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ Ở CÁC HUYỆN NGOẠI
THÀNH HÀ NỘI ............................................................................................. 49
2.1 TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HOÁ ĐỐI VỚI VIỆC LÀM Ở CÁC
HUYỆN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI........................................................... 49
2.1.1. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở CÁC HUYỆN NGOẠI
THÀNH HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN QUA. ....................................... 49
2.1.2 THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG Ở CÁC HUYỆN NGOẠI THÀNH HÀ
NỘI .......................................................................................................... 60
2.1.3 TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HOÁ ĐỐI VỚI VIỆC LÀM CỦA
NGƢỜI LAO ĐỘNG Ở CÁC HUYỆN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI. ........ 68
2.2 THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở CÁC HUYỆN NGOẠI
THÀNH HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ ........................ 75
2.2.1 TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG
TRONG THỜI GIAN QUA. .................................................................... 75
2.2.2 PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG. ........................................................... 76
2
2.3 NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI. ..................................................... 91
2.3.1 TỶ LỆ THẤT NGHIỆP Ở KHU VỰC NGOẠI THÀNH HÀ NỘI
CÒN CAO VÀ MANG TÍNH PHỨC TẠP. ..................................................... 91
2.3.2. CƠ CẤU LAO ĐỘNG CHUYỂN ĐỔI THEO HƢỚNG CÔNG
NGHIỆP CÒN CHẬM ............................................................................. 94
2.3.3 SỨC ÉP TẠO VIỆC LÀM CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG NGOẠI
THÀNH TRONG ĐIỀU KIỆN TỐC ĐỘ ĐÔ THỊ HOÁ NHANH ĐANG
LÀ VẤN ĐỀ CẤP BÁCH ........................................................................ 95
2.3.4. VIỆC LÀM Ở KHU VỰC NGOẠI THÀNH ĐƢỢC TẠO RA CÓ
TĂNG NHƢNG CHẤT LƢỢNG KHÔNG CAO, THIẾU TÍNH ỔN ĐỊNH
VÀ BỀN VỮNG. .................................................................................... 96
2.3.5. SỰ QUAN TÂM CỦA THÀNH PHỐ CHO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
KHU VỰC NGOẠI THÀNH THỂ HIỆN QUA CƠ CHẾ TẠO VIỆC LÀM
CÒN CHƢA ĐỦ MỨC. ........................................................................... 97
CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO
NGƢỜI LAO ĐỘNG Ở CÁC HUYỆN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI TRONG
QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ. ........................................................................... 99
3.1 QUAN ĐIỂM VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG THÔN
NGOẠI THÀNH HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ . ........ 99
3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NGOẠI
THÀNH HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ ........................ 99
3.2.1 KHUYẾN KHÍCH MỌI THÀNH PHẦN KINH TẾ THAM GIA
PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM. ...................... 105
3.2.2 GIẢI PHÁP VỀ ĐÀO TẠO, NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ CHO NGƢỜI
LAO ĐỘNG. .......................................................................................... 111
3.2.3 PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG LAO ĐỘNG NÔNG THÔN NGOẠI
THÀNH VÀ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG ĐỂ GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM. ........................................................................................... 113
3.2.4 CÁC GIẢI PHÁP KHÁC. ............................................................. 120
KẾT LUẬN .................................................................................................... 130
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 132
3
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguồn lực con ngƣời có vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển bền vững
của mỗi quốc gia, dân tộc. Vấn đề nguồn lực con ngƣời đƣợc Đảng ta hết sức
coi trọng, là tƣ tƣởng cơ bản xuyên suốt trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt từ Đại
hội VII đến nay “... Con ngƣời Việt Nam có truyền thống yêu nƣớc, cần cù sáng
tạo, có nền tảng văn hóa, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công
nghệ... đó là nguồn lực quan trọng nhất”. Con ngƣời Việt Nam trong thời kỳ mới
đã có những bƣớc chuyển biến đáng kể, thực sự say mê, sáng tạo trong lao động,
học tập, nghiên cứu... góp phần quan trọng trong việc tạo ra bộ mặt mới của đất
nƣớc.
Tuy nhiên để phát huy đƣợc những tiềm năng đó thì phải đƣợc thể hiện
qua quá trình lao động sản xuất mà một trong những biểu hiện cụ thể của nó đó
chính là việc làm và hiệu quả về mặt kinh tế – xã hội mà nó tạo ra. Vì vậy, trong
văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: “Giải
quyết việc làm là nhân tố quyết định để phát huy nhân tố con ngƣời, ổn định và
phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và
yêu cầu bức xúc của nhân dân”.
Trƣớc yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nƣớc nói chung và của Hà
Nội nói riêng, đặc biệt là ở các huyện ngoại thành Hà Nội. Trƣớc những chuyển
biến về kinh tế – xã hội, trƣớc yêu cầu của hội nhập, đặc biệt là sự biến đổi
mạnh mẽ, tốc độ đô thị hóa cao, các khu công nghiệp mới ra đời, đã đặt ra yêu
cầu mới, cấp thiết hơn, cao hơn đối với vấn đề giải quyết việc làm ở các huyện
ngoại thành.
4
Vì vậy, việc nghiên cứu về giải quyết việc làm ở các huyện ngoại thành
Hà Nội và đƣa ra các giải pháp khác nhau để giải quyết việc làm ở đây mang
tính lý luận và thực tiễn cao. Đó cũng chính là lý do tác giả chọn đề tài này.
2. Tình hình nghiên cứu:
Trƣớc yêu cầu bức bách của thực tiễn, vấn đề giải quyết việc làm đã đƣợc
nhiều tác giả quan tâm:
- “Giải pháp nâng cao chất lƣợng đào tạo nghề đáp ứng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa thủ đô”, đề tài nghiên cứu khoa học của tác giả Cao Minh Châu –
Sở Lao động – Thƣơng binh và xã hội Hà Nội.
- “Ảnh hƣởng của đô thị hóa đến nông thôn ngoại thành Hà Nội, thực
trạng và giải pháp “Trƣờng ĐHKTQD HN, của TSKH Lê Du Phong, 2002
- “Nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành trong quá trình đô thị hóa trên
địa bàn thành phố Hà Nội” của tác giả Nguyễn Tiệp...
Việc nghiên cứu về giải quyết việc làm cũng nhƣ các chính sách hỗ trợ ở
các huyện ngoại thành Hà Nội là những bƣớc khởi đầu quan trọng, tuy nhiên
vẫn chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu thực tiễn đặt ra. Vì vậy, vấn đề này vẫn đòi hỏi
phải đƣợc nhận thức rõ hơn và các giải pháp hữu hiệu để giải quyết việc làm cho
ngƣời lao động ở các huyện ngoại thành Hà Nội.
Theo hƣớng đó, luận văn tiếp tục khảo sát về việc làm ở các huyện ngoại
thành Hà Nội và đƣa ra các giải pháp trên cơ sở kế thừa và phát triển công trình
của các tác giả trƣớc.
3. Mục đích nghiên cứu
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận về việc làm và đô thị hoá.
- Phân tích thực tiễn lao động và vấn đề giải quyết việc làm ở các huyện
ngoại thành Hà Nội.
5
- Đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả vấn đề giải quyết việc
làm ở các huyện ngoại thành Hà Nội.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài: việc làm cho ngƣời lao động trong thời
kỳ CNH, HĐH đất nƣớc.
- Phạm vi nghiên cứu: Giải quyết việc làm cho ngƣời lao động ở các
huyện ngoại thành Hà Nội, từ năm 2000 trở lại đây.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
làm phƣơng pháp luận cơ bản. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng nhiều phƣơng
pháp khác nhau nhƣ: phƣơng pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp, sử
dụng bảng biểu, số liệu thực tế để luận chứng.
6. Đóng góp của luận văn
- Phân tích thực trạng việc làm ở các huyện ngoại thành Hà Nội, từ đó
vạch ra các vấn đề còn tồn tại mà theo tác giả đó chính là nguyên nhân làm cho
giải quyết việc làm ở các huyện ngoại thành Hà Nội còn nhiều bất cập.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để giải quyết việc làm cho ngƣời lao
động các huyện ngoại thành Hà Nội và đáp ứng đƣợc yêu cầu mới.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề chung về giải quyết việc làm trong quá
trình đô thị hoá.
Chƣơng 2:Thực trạng giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong
quá trình đô thị hoá ở các huyện ngoại thành Hà Nội.
6
Chƣơng 3: Quan điểm và giải pháp giải quyết việc làm cho ngƣời lao
động ở các huyện ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thi hoá.
7
Chƣơng 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ
1.1 Đô thị hoá và tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế và việc
làm
1.1.1 Bản chất của đô thị hoá
Với những bƣớc tiến sự phát triển kinh tế - xã hội, thì quá trình đô thị hoá
cũng đồng thời diễn ra. Lịch sử các đô thị hiện đại đã ra đời trong quá trình công
nghiệp hoá. Đô thị là nơi tập trung những ƣu thế của nền văn minh công nghiệp,
đồng thời cũng là nơi tích tụ nhiều mặt trái và nhiều khi đƣợc gọi là những vấn
nạn của quá trình đô thị hoá.
Bƣớc sang thế kỷ 21, khi nhu cầu phát triển bền vững ngày càng trở thành
nhu cầu, xu hƣớng chủ đạo của thời đại chúng ta, thì những vấn nạn trong quá
trình đô thị hoá và trong quan hệ giữa đô thị với nông thôn trở thành những vấn
đề lớn của xã hội. Các đô thị hiện đại đã hình thành và phát triển và lịch sử của
chúng gắn liền với các giai đoạn phát triển của kinh tế thị trƣờng: giai đoạn kinh
tế công nghiệp kéo dài 300 năm qua và giai đoạn kinh tế tri thức mới bắt đầu từ
cuối thế kỷ 20. Trong thời đại ngày nay, thời đại mà khoa học- công nghệ phát
triển nhanh nhƣ vũ bão, kinh tế tri thức đang dần đi vào cuộc sống; Toàn cầu
hoá là một xu thế không gì có thể cƣỡng lại đƣợc, thì công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là con đƣờng giúp các nƣớc chậm phát triển rút ngắn thời gian so với các
nƣớc đi trƣớc. Đồng thời với quá trình đó thì đô thị hoá cũng sẽ đƣợc đẩy mạnh.
Thực tiễn phát triển của nhiều quốc gia trong những năm gần đây cho thấy,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá là nhân tố quyết định làm thay đổi
căn bản phƣơng thức sản xuất; Chuyển nền kinh tế từ sản xuất nông nghiệp
truyền thống, nền kinh tế tiểu nông sang phƣơng thức sản xuất mới, hiện đại và
8
do đó cũng làm thay đổi nội dung kinh tế – xã hội nông thôn. Trong bối cảnh
hiện nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá có sự gắn bó chặt chẽ với
nhau, tạo thành một tiến trình thống nhất thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội.
Về mặt kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá làm thay đổi
phƣơng thức sản xuất và cơ cấu nền kinh tế, chuyển nền kinh tế sang một bƣớc
phát triển mới về chất, đó là nền kinh tế dựa trên nền đại công nghiệp và dịch vụ
chất lƣợng cao; Về mặt xã hội, đó là quá trình đô thị hoá và hình thành các khu
vực đô thị mới. Trong đời sống kinh tế - xã hội, đô thị hoá không chỉ đơn thuần
là sự hình thành các đô thị mới mà đó là một nấc thang tiến hoá vƣợt bậc của xã
hội với một trình độ văn minh mới, một phƣơng thức phát triển mới. Đó là cách
thức tổ chức, bố trí lực lƣợng sản xuất, cơ cấu lại nền kinh tế và tổ chức lại đời
sống xã hội.
Trong quá trình đô thị hoá, hiện đại hoá, tiến trình phát triển xã hội đã có sự
thay đổi cơ bản, đó là:
Thứ nhất: Phát triển đô thị kèm theo sự thu hẹp xã hội nông thôn.
Thứ hai: Làm thay đổi căn bản xã hội nông thôn theo hƣớng công nghiệp.
Hiện tƣợng đô thị hoá đƣợc coi là một trong những nét đặc trƣng nhất của
sự biến đổi xã hội trong thời đại ngày nay. Cùng với quá trình công nghiệp hoá,
đô thị hoá đƣợc coi nhƣ một khía cạnh quan trọng của sự vận động đi lên của xã
hội. Đô thị hoá là cả một quá trình biến đổi về kinh tế - xã hội và do đó góp phần
nâng cao vai trò của đô thị trong sự phát triển mọi mặt của xã hội. Quá trình này
bao gồm sự thay đổi trong phân bố lực lƣợng sản xuất, trƣớc hết là trong sự
phân bố dân cƣ, trong kết cấu nghề nghiệp – xã hội, kết cấu dân số, trong lối
sống, văn hoá.
Vì vậy có thể thấy rằng: Đô thị hoá là quá trình biến đổi và phân bố lại lực
lƣợng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cƣ, hình thành, phát triển
các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị đồng thời phát triển đô thị theo
9
chiều rộng và theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và
tăng quy mô dân số ở các đô thị. Đó là quá trình tập trung, tăng cƣờng, phân
hoá các hoạt động trong đô thị và nâng cao tỷ lệ số dân thành thị trong các
vùng, các quốc gia cũng nhƣ trên toàn thế giới. Đồng thời, đô thị hoá cũng là
quá trình phát triển của các thành phố lớn và phổ biến rộng rãi lối sống thành thị
trong dân cƣ. Nhƣ vậy, về bản chất của đô thị hoá là sự phát triển các cụm kinh
tế công nghiệp, dịch vụ, kết cấu cơ sở hạ tầng cơ sở, phát triển các cụm dân cƣ
theo hình thức và điều kiện sống mang tính chất công nghiệp, đô thị. Đây là một
xu thế xảy ra đối với tất cả các quốc gia, các thành phố lớn khi thực hiện chuyển
đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và từng bƣớc tiếp
cận với nền kinh tế tri thức.
Khái niệm pháp quy về đô thị hoá ở Việt Nam: Điểm dân cƣ đƣợc coi là đô
thị hoá phải có các tiêu chí cơ bản sau:
-
Là trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát
triển kinh tế – xã hội trong phạm vi cả nƣớc, một miền lãnh thổ, của một
tỉnh, một huyện hoặc một vùng trong huyện.
-
Có quy mô dân số nội thị nhỏ nhất là 4000 ngƣời (vùng núi có thể thấp
hơn).
-
Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp chiếm 60% trở lên trong tổng số lao
động của nội thị, là nơi sản xuất và dịch vụ thƣơng mại phát triển.
-
Có kết cấu hạ tầng kỹ thuật và các công trình công cộng phục vụ dân cƣ
đô thị hoá từng phần hoặc đồng bộ.
-
Mật độ dân số tối thiểu phải đạt 2000 ngƣời/km2.
Về phậm vi thì đô thị hoá có thể diễn ra theo hai xu hƣớng:
Một là, đô thị hoá theo chiều rộng, trong đó quá trình đô thị hoá diễn ra
tại các khu vực trƣớc đây không phải là đô thị. Đó cũng chính là quá trình mở
10
rộng quy mô diện tích các đô thị hiện có trên cơ sở hình thành các khu đô thị
mới, các quận, phƣờng mới. Với hình thức này, dân số và diện tích đô thị
không ngừng gia tăng, các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp và các hoạt động
của kinh tế đô thị không ngừng mở rộng; các hoạt động sản xuất kinh doanh và
điểm dân cƣ ngày càng tập trung. Sự hình thành các đô thị mới đƣợc tạo ra trên
cơ sở phát triển các khu công nghiệp và trung tâm công nghiệp, thƣơng mại,
dịch vụ ở vùng nông thôn và ngoại ô là xu hƣớng tất yếu của sự phát triển, là
nhân tố mở đƣờng thúc đẩy lực lƣợng sản xuất phát triển. Đô thị hoá theo chiều
rộng là hình thức phổ biến hiện nay ở các nƣớc đang phát triển trong thời kỳ đầu
công nghiệp hóa.
Hai là, đô thị hoá theo chiều sâu, đó là quá trình hiện đại hoá và nâng
cao trình độ của các đô thị hiện có. Mật độ dân số có thể tiếp tục tăng cao,
phƣơng thức và các hoạt động kinh tế ngày càng đa dạng, thực lực khoa học kỹ
thuật, công nghệ ngày càng tăng cƣờng; hiệu quả kinh tế – xã hội cũng ngày
càng đƣợc cải thiện và nâng cao. Đô thị hoá theo chiều sâu là quá trình thƣờng
xuyên và là yêu cầu tất yếu của quá trình tăng trƣởng và phát triển. Quá trình đó
đòi hỏi các nhà quản lý đô thị và các thành phần kinh tế trên địa bàn đô thị
thƣờng xuyên vận động và phải biết điều tiết, tận dụng tối đa những tiềm năng
sẵn có và hoạt động có hiệu quả cao trên cơ sở hiện đại hoá trên mọi lĩnh vực
kinh tế – xã hội ở đô thị.
Đô thị hoá là một tiến trình rất đa dạng, chứa đựng nhiều hiện tƣợng và
biểu hiện khác nhau trong quá trình phát triển. Trên quan điểm một vùng, đô thị
hoá là quá trình hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu
đô thị. Trên quan điểm kinh tế quốc dân, đô thị hoá là một quá trình biến đổi về
phân bố các lực lƣợng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cƣ những
vùng không phải đô thị thành đô thị, đồng thời phát triển các đô thị hiện có theo
chiều sâu. Đô thị hoá là quá độ từ hình thức sống nông thôn lên hình thức sống
đô thị của các nhóm dân cƣ, gắn liền với những biến đổi sâu sắc về kinh tế – xã
11
hội của đô thị và nông thôn trên cơ sở phát triển công nghiệp, giao thông vận tải,
xây dựng, dịch vụ.v.v. Do vậy, đô thị hoá gắn liền với sự phát triển kinh tế – xã
hội. Đô thị hoá nông thôn cũng là một xu hƣớng có tính quy luật; đó là quá
trình phát triển nông thôn và phổ biến lối sống thành phố cho các vùng nông
thôn (cách sống, hình thức nhà cửa, phong cách sinh hoạt…); Thực chất đó là
CNH,HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Đô thị hoá ngoại vi là quá trình
phát triển mạnh vùng ngoại vi của thành phố do kết quả phát triển công nghiệp,
dịch vụ và kết cấu hạ tầng, tạo ra các cụm đô thị, liên đô thị, góp phần đẩy
nhanh đô thị hoá nông thôn.
Trong quá trình CNH, HĐH, sự hình thành các đô thị hiện đại có vai trò
đặc biệt quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Bên cạnh nông thôn,
đô thị là hình thái quần cƣ cơ bản thứ hai của xã hội loài ngƣời. Trên thế giới, đô
thị ra đời rất sớm, nhƣng chỉ thật sự phát triển mạnh mẽ từ cuối thế kỷ 19, đầu
thế kỷ 20 và đến nay, đô thị đã trở thành một hiện tƣợng xã hội, một hiện tƣợng
kinh tế có ảnh hƣởng hết sức quan trọng tới mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống
kinh tế xã hội.
1.1.2 Tác động của đô thị hoá đối với sự phát triển kinh tế và việc làm.
* Đối với kinh tế.
Đô thị là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, có vai trò thúc đẩy sự
phát triển kinh tế – xã hội của một đất nƣớc. Sự phát triển đô thị kích thích tăng
trƣởng và phát triển của các vùng lãnh thổ xung quanh và toàn bộ nền kinh tế
thông qua quá trình phân bố lại các cơ sở kinh tế, lan truyền tiến bộ công nghệ,
văn hoá, xã hội. Với sự phát triển của hệ thống các đô thị, nhiều nƣớc đã từng
bƣớc hình thành đƣợc những vùng lãnh thổ phát triển không chỉ đảm nhận chức
năng động lực thúc đẩy sự phát triển toàn bộ kinh tế - xã hội đất nƣớc mà còn
đảm nhận chức năng hợp tác và hội nhập quốc tế, vừa đảm nhận vai trò tiếp
12
nhận thông tin, các thành tựu về phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hoá
của thế giới rồi lan rộng ra các vùng xung quanh.
+ Các đô thị có vai trò to lớn trong việc tạo ra thu nhập quốc dân, tích
luỹ của nền kinh tế và nguồn thu cho ngân sách quốc gia. Chẳng hạn, chỉ tính
riêng bốn thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà
Nẵng năm 2004, chiếm khoảng 14% dân số, tạo ra 36,4% GDP, 45,7% giá trị
sản lƣợng công nghiệp, và gần 50% giá trị xuất khẩu của cả nƣớc. Các đô thị
này đã trở thành những vùng động lực có tốc độ tăng trƣởng cao và có đóng góp
quan trọng vào việc tăng quy mô của nền kinh tế, tăng giá trị công nghiệp, dịch
vụ và xuất khẩu của cả nƣớc.
+ Với quy mô sản xuất, diện tích, dân số lớn và không ngừng gia tăng, sự
tập trung lớn các năng lực sản xuất, các đô thị cũng có khả năng cung cấp một
khối lƣợng đáng kể các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ với chất lƣợng tốt đáp
ứng nhu cầu của nhiều vùng trong nƣớc và nguồn hàng cho xuất khẩu. Số liệu
sau đây cho thấy rõ vai trò của bốn đô thị lớn nhất ở Việt Nam.
Biểu 1.1: Một số chỉ tiêu kinh tế – xã hội chủ yếu của cả nƣớc
và các đô thị lớn năm 2004
Chỉ tiêu
Cả nƣớc Hà Nội TP HCM
Hải
Đà Nẵng Phần còn
Phòng
Dân số (1.000 ngƣời)
Tỷ trọng dân số (%)
GDP (Tỷ đồng)
82069,8 3082,8
100,0
3,75
362092 30526,7
lại
6063,0
1772,5
763,3
70388,2
7,38
2,15
0,93
85,79
79121
12521,5 9564,4 230358,4
Tỷ trọng GDP (%)
100,0
8,43
21,85
3,45
2,64
63,63
Tốc độ tăng GDP (%)
7,69
11,12
11,6
11,39
13,26
……
GDP bình quân (Tr. Đ)
8,69
18,2
21,7
10,01
12,5
…….
Hệ số GDP bình quân so với
1,0
2,09
2,49
1,15
1,43
…….
cả nƣớc (lần)
13
GTSX công nghiệp (Tỷ đồng) 354030 35365,8 102063 18269,9 7059,5 191271,8
Tỷ trọng GTSXCN (%)
100,0
9,9
28,8
5,1
1,9
54,3
Giá trị xuất khẩu (Tr. USD)
26003
2164,2
9816,0
700,5
310,4
13011,9
Tỷ trọng GTXK (%)
100,0
8,3
37,7
2,7
1,2
50,1
Giải quyết việc làm (ngƣời)
……
78000
221600
39100
24400
…….
Nguồn: Tính từ số liệu của Niên giám thống kê Hà Nội 2004, Cục Thống kê
Hà Nội.
+ Các đô thị lớn thực sự là các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa
học kỹ thuật, thƣơng mại của các vùng và cả nƣớc, là những “đầu tàu” trong
nhiều lĩnh vực, đặc biệt là hợp tác và giao lƣu quốc tế. Các hoạt động dịch vụ
quan trọng nhƣ xuất nhập khẩu, tài chính, tiền tệ, vận tải, du lịch, khoa học công
nghệ từ các đô thị lớn bắt đầu có sức lan toả và thúc đẩy sự phát triển chung của
các lãnh thổ trên phạm vi cả nƣớc.
+ Các đô thị có ƣu thế về nhân lực đƣợc đào tạo chất lƣợng cao, có khả
năng nhanh chóng tiếp cận trình độ công nghệ tiên tiến, trên cơ sở đó tạo ra các
công nghệ và các trang thiết bị hiện đại không chỉ phục vụ cho sự phát triển của
bản thân đô thị mà còn đáp ứng cho nhu cầu của các vùng lãnh thổ khác trên
toàn quốc.
+ Với những ƣu thế về hệ thống kết cấu hạ tầng so với các lãnh thổ khác,
các đô thị từng bƣớc bảo đảm sự tiếp cận nhanh chóng, kịp thời các nguồn thông
tin, đặc biệt là thông tin kinh tế, thông tin về thị trƣờng… để lại tiếp tục cung
cấp, chuyển tải và phản hồi các thông tin này, tạo điều kiện cho các vùng cùng
tham gia trao đổi thông tin và hoà nhập vào sự phát triển của thị trƣờng trong
nƣớc, khu vực và quốc tế.
+ Sự phát triển các đô thị góp phần nâng cao năng suất và chất lƣợng lao
động cho toàn bộ nền kinh tế. Chẳng hạn, tại các đô thị của Việt Nam đã bƣớc
14
đầu hình thành đội ngũ lao động và cán bộ quản lý có trình độ và tác phong lao
động công nghiệp hiện đại. Hầu hết lực lƣợng lao động có trình độ từ cao đẳng
và đại học trở lên của cả nƣớc tập trung tại các đô thị. Tay nghề của ngƣời lao
động đƣợc nâng cao cùng các kinh nghiệm quản trị kinh doanh… đƣợc tiếp tục
lan toả sang các lãnh thổ còn lại của đất nƣớc thông qua việc phát triển của các
chi nhánh, các cơ sở sản xuất kinh doanh đặt tại các địa phƣơng khác, góp phần
từng bƣớc nâng cao trình độ và hiệu quả quản lý kinh doanh, nâng cao năng suất
và chất lƣợng lao động cho toàn bộ nền kinh tế nói chung, các vùng kém phát
triển nói riêng.
+ Với lợi thế về lực lƣợng và tiềm lực khoa học kỹ thuật, sự tập trung số
lƣợng lớn các cơ sở đào tạo và khoa học, trong đó có các trƣờng đại học, các
viện nghiên cứu khoa học đầu ngành, các đô thị lớn còn giữ vai trò đào tạo
nguồn nhân lực chất lƣợng cao cho đất nƣớc, góp phần từng bƣớc nâng cao chất
lƣợng nguồn lao động cho nền kinh tế.
+ Do GDP/ngƣời tăng nhanh, cộng với sự phát triển của các cơ sở công
nghiệp chế biến, xuất khẩu làm cho sức mua của các đô thị tăng nhanh, trong đó
phải kể đến sức mua về hàng nông lâm thuỷ sản với chất lƣợng cao. Việc các đô
thị trở thành nơi tiêu thụ hàng nông sản chất lƣợng cao sẽ tác động đến sự phát
triển các cơ sở cung cấp nguyên liệu và dịch vụ, góp phần chuyển đổi tập quán
sản xuất truyền thống của nhiều vùng nông thôn, mở ra khả năng nâng cao chất
lƣợng và giá trị nông sản, mở rộng thị trƣờng … Nhƣ vậy, sự phát triển các đô
thị sẽ tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn
và của cả nƣớc theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
+ Sự phát triển của các đô thị cũng đƣợc đánh giá là đã tạo điều kiện để
bổ sung nguồn vốn đầu tƣ cho sự phát triển của các vùng nông thôn, vùng kém
phát triển thông qua việc các cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức từ các thành phố
lớn chuyển vốn đầu tƣ phát triển các cơ sở sản xuất kinh doanh công nghiệp, du
15
lịch, văn hoá… đến các vùng kém phát triển. Thông qua việc thu hút lao động
tới các đô thị, một phần đáng kể trong thu nhập của ngƣời lao động đƣợc đƣa
trở về các vùng nông thôn, vùng kém phát triển để giúp đỡ gia đình xây dựng,
sửa sang nhà cửa, đƣờng sá, phát triển kinh tế nông hộ...v.v.
Tóm lại, đô thị tƣợng trƣng cho thành quả kinh tế, văn hoá, xã hội của
mỗi quốc gia, là sản phẩm mang tính kế thừa của nhiều thế hệ cả về cơ sở vật
chất kỹ thuật và văn hoá. Sự phát triển của các đô thị có vai trò quan trọng thúc
đẩy phát triển kinh tế – xã hội của một quốc gia. Nhiều đô thị đã và đang chuyển
dần từ chức năng hành chính thuần tuý sang cả chức năng kinh tế, đồng thời tùy
theo các cấp độ khác nhau mà đảm nhận các chức năng trung tâm chính trị, kinh
tế, văn hoá. Tác động lan toả của các đô thị đƣợc mở rộng cả về phạm vi không
gian và biến đổi về chất. Nhiều đô thị đã thực sự trở thành các hạt nhân động lực
cho sự phát triển của nhiều vùng.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội, sự phát triển nhanh chóng của các đô thị cũng là nguyên nhân chính gây ảnh
hƣởng đáng kể đến môi trƣờng và tài nguyên thiên nhiên, đến cân bằng sinh thái
do tài nguyên đất bị khai thác triệt để cho xây dựng đô thị, khối lƣợng khai thác
và sử dụng nƣớc sạch tăng, ô nhiễm các chất thải công nghiệp và sinh hoạt, giảm
diện tích cây xanh và mặt nƣớc, bùng nổ giao thông cơ giới...
Ngoài ra, sự gia tăng dòng ngƣời di dân từ nông thôn ra đô thị cũng gây
nên những áp lực đáng kể về nhà ở và vệ sinh môi trƣờng, hình thành các khu
nhà “ổ chuột” và khu nghèo đô thị, gây nên những khó khăn cho công tác quản
lý đô thị, bên cạnh đó là những tệ nạn xã hội nảy sinh... Do đó, khi quy hoạch và
quản lý đô thị, cần phải tính đến các biện pháp ngăn chặn và hạn chế những hiện
tƣợng không có lợi đó.
Trong các năm chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng, quá trình đô thị hoá ở
nƣớc ta có các đặc điểm chính sau:
16
- Quá trình đô thị hoá nƣớc ta có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự
hình thành và phát triển các trung tâm kinh tế, thƣơng mại, chính trị, văn hoá
và thúc đẩy kinh tế thị trƣờng phát triển; thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế tại các
địa phƣơng, vùng phụ cận và phạm vi cả nƣớc.
Quá trình đô thị hoá ở nƣớc ta trong các năm 1986 – 1995 diễn ra với tốc
độ chậm, dân số đô thị thƣờng dao động tăng 18 - 19% so với dân số toàn quốc.
Trong các giai đoạn này, tăng dân số đô thị chủ yếu là do tăng dân số tự nhiên,
tăng cơ học chƣa lớn, do cơ chế kiểm soát hành chính di chuyển dân cƣ nông
thôn ra thành thị còn chặt chẽ. Những năm gần đây, tỷ lệ đô thị hoá có xu hƣớng
tăng, năm 2002 đạt 25,11%, là biểu hiện tích cực của quá trình đô thị hoá, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và tăng trƣởng, phát triển kinh tế.
- Sự phát triển của dân số đô thị ở nƣớc ta dƣới các hình thức là đô thị hoá
do tăng cơ học, tăng tự nhiên của chính cƣ dân đang sống trong đô thị, sát nhập
lãnh thổ của đô thị hiện có với các vùng phụ cận quanh đô thị, hình thành các đô
thị mới do nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Đặc biệt, quá trình đô thị hoá ở
nƣớc ta có tốc độ lớn hơn là ở vùng ven các thành phố loại I, II nhƣ: Hà nội,
thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải phòng... và ở các khu công nghiệp tập
trung, các khu dịch vụ du lịch, các địa phƣơng thuộc vùng kinh tế động lực có
tốc độ tăng trƣởng kinh tế nhanh, vùng ven biển, cảng biển...
- Đô thị hoá nƣớc ta mang tính chất đan xen mối quan hệ đậm nét giữa
nông thôn và thành thị trong không gian đô thị, xã hội học, dân số học, nếp
sống, sinh hoạt và mối quan hệ kinh tế.
- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các đô thị nƣớc ta còn lạc hậu, thiếu tính
đồng bộ về giao thông, điện, nƣớc, xử lý vệ sinh môi trƣờng, ... từ đó dẫn đến
khó khăn cho phát triển đô thị hiện đại, cho sự phát triển sản xuất kinh doanh và
xây dựng đời sống văn hoá, văn minh công nghiệp.
17
- Đầu tƣ cho phát triển đô thị của nƣớc ta thấp, nên phát triển mang tính
chắp vá, thiếu quy hoạch hiện đại và cách tiếp cận tổng thể... nên nhanh chóng
bị lạc hậu, gây cản trở đối với phát triển kinh tế – xã hội.
- Trong quá trình đô thị hoá, sự hẫng hụt của một bộ phận lao động nông
thôn về việc làm, thu nhập, nhà cửa, phong tục, tập quán, các mối quan hệ sinh
sống khi bị thu hồi đất, di chuyển đến các nơi khác sinh sống là vấn đề cần đƣợc
quan tâm giải quyết.
- Quá trình đô thị hoá làm gia tăng các nhân tố tác động gây ô nhiễm môi
trƣờng sinh thái bởi rác thải sinh hoạt, chất thải, nƣớc công nghiệp... nên rất cần
các chính sách, biện pháp kiểm soát môi trƣờng sinh thái của Chính Phủ và
chính quyền các cấp.
* Đối với việc làm.
- Đô thị hoá tạo cơ hội để tăng thêm việc làm.
Trong thực tế, quá trình đô thị hoá, kinh tế ở các đô thị mới tăng trƣởng
nhanh chóng nhờ sự tập trung lực lƣợng sản xuất, tạo ra năng suất lao động cao,
cách tổ chức lao động hiện đại. Do đó, quá trình tăng trƣởng kinh tế đô thị cũng
tạo cơ hội để tăng việc làm ở các đô thị. Quá trình đó vừa làm tăng tổng việc
làm vừa làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong đô thị. Ngƣợc lại, việc chuyển đổi
cơ cấu các ngành kinh tế đô thị làm tăng trƣởng kinh tế đô thị theo chiều sâu,
tăng năng suất lao động xã hội, tăng GDP bình quân đầu ngƣời tại đô thị.
Từ góc độ lao động và việc làm, đô thị hoá là quá trình chuyển đổi cơ cấu
lao động và việc làm từ các hoạt động nông nghiệp sang các hoạt động công
nghiệp và thƣơng mại, dịch vụ. Khi đô thị mở rộng ra các vùng ngoại vi nhằm
giải quyết vấn đề quá tải dân số và nhu cầu phát triển công nghiệp, các khu dân
cƣ đô thị ở ngoại vi sẽ hình thành và các hoạt động thƣơng mại, dịch vụ sẽ phát
triển ngoại thành là nơi có sự thay đổi mạnh mẽ về các hoạt động công nghiệp,
thƣơng mại và dịch vụ.
18
Sự phát triển của các đô thị một mặt sẽ tạo ra một lƣợng lớn việc làm cho
lao động tại đô thị, đồng thời thu hút và làm giảm đáng kể lƣợng lao động nông
nhàn ở các vùng nông thôn, kém phát triển, góp phần làm tăng năng suất lao
động tại các vùng này. Chỉ riêng 4 thành phố lớn là Hà Nội, TP Hồ Chí Minh,
Đà Nẵng và Hải Phòng trong năm 2004 đã giải quyết việc làm cho khoảng
363.000 lao động. Ngoài số lao động làm việc chính thức tại các cơ sở sản xuất,
kinh doanh, còn phải kể đến một lực lƣợng lớn lao động làm việc trong các
ngành dịch vụ, xây dựng cơ bản…và các khu vực phi chính thức khác phục vụ
cho phát triển các đô thị này.
- Đô thị hoá làm cho cho một bộ phận dân cƣ bị mất việc làm.
Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng, giai đoạn 2000-2004, số
diện tích đất nông nghiệp đã đƣợc chuyển đổi mục đích sử dụng là gần 157.000
ha, trong đó xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất gần 22.000 ha, xây
dựng cụm công nghiệp vừa và nhỏ gần 35.000 ha, xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị
gần 100.000 ha. Trong tổng số diện tích các khu công nghiệp cả nƣớc, diện tích
các khu công nghiệp của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chiếm 62,5% và
bằng 73,2% tổng diện tích các khu công nghiệp của cả 3 vùng kinh tế trọng
điểm (không kể diện tích khu công nghiệp Dung Quất tỉnh Quảng Ngãi 10.300
ha, khu kinh tế mở Chu Lai 4000 ha). Theo một khảo sát của Bộ Lao động Thƣơng binh và Xã hội mới đây, trung bình mỗi hộ nơi thu hồi đất có 1,5 lao
động rơi vào tình trạng không có việc làm và mỗi ha đất nông nghiệp bị thu hồi
có tới 13 lao động mất việc làm trong nông nghiệp, thì với 157.000 ha đất đã
đƣợc chuyển đổi trong giai đoạn 2000-2004 có tới 20,41 vạn lao động nông
nghiệp phải chuyển đổi nghề nghiệp, trong số đó hiện nay nhiều ngƣời hiện vẫn
chƣa có việc làm và rơi và tình trạng thất nghiệp toàn phần.
Nhƣ vậy, trong giai đoạn 2001-2005, tại 14 tỉnh, thành phố kể trên, số lao
động bị mất việc làm trong nông nghiệp là 265.709 ngƣời. Các tỉnh, thành phố
19
có nhiều lao động bị mất việc làm trong nông nghiệp là Hà Nội, Hải Phòng, Hà
Tây, Hải Dƣơng, Thái Bình, Đà Nẵng.v.v.
Diện tích đất bị thu hồi phần lớn tập trung vào đất nông nghiệp, đất khu
đông dân cƣ và vào một số xã, nhất là ở ven các đô thị lớn (khoảng 70-80%), có
xã thậm chí phải thu hồi 100% diện tích đất sản xuất. Vì vậy, mặc dù diện tích
đất nông nghiệp bị thu hồi chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng diện tích đất nông
nghiệp của nhiều tỉnh (1-2%), nhƣng tình trạng khó khăn về việc làm của ngƣời
lao động lại tập trung vào một số khu vực nhất định.
Đô thị hoá làm cho một bộ phận lớn dân cƣ sống dựa vào nông nghiệp bị
mất tƣ liệu sản xuất chủ yếu, do đó tạo ra sức ép về việc làm đối với ngƣời lao
động.
Những ngƣời nông dân trƣớc đây gắn bó với ruộng vƣờn, sau khi trở
thành dân cƣ đô thị, họ bị mất phần lớn ruộng đất canh tác. Với số tiền đƣợc
Nhà nƣớc đền bù hoặc tiền bán đất cho các cƣ dân mới, họ dùng để tạo nghề
mới, tìm việc làm mới … và nhiều vấn đề khác cũng thay đổi.
Khi gia tăng quy mô thành phố bằng các giải pháp mở rộng không gian,
hình thành các quận, phƣờng mới sẽ làm cho một lực lƣợng đáng kể lao động
nông nghiệp ở vùng đô thị hoá bị mất việc làm, dẫn đến gia tăng tình trạng thất
nghiệp. Khi những khu đô thị mới mọc lên, một số hộ nông dân bị thu hồi đất
đai, ruộng vƣờn để xây dựng đô thị. Tất nhiên, họ nhận đƣợc một khoản tiền đền
bù về đất đai, hoa màu, nhƣng nếu số tiền đƣợc đền bù từ thu hồi đất mà không
đƣợc ngƣời nông dân sử dụng đúng mục đích sẽ làm tăng tình trạng thất nghiệp
và phát sinh các vấn đề xã hội bức xúc khác.
Giai đoạn 2001-2005, tại 14 tỉnh có tốc độ công nghiệp hoá, đô thị hoá
nhanh, tổng diện tích đất nông nghiệp đã chuyển mục đích sử dụng là 20.631,4
ha. Những địa phƣơng có diện tích thu hồi lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây,
Hải Dƣơng, Vĩnh Phúc, Phú Yên, Cần Thơ.
20
Ngay sau khi thu hồi đất, một bộ phận lao động mất việc làm hoặc thiếu
việc làm. Tại 14 tỉnh, thành phố, tình hình lao động bị mất việc làm trong nông
nghiệp nhƣ sau:
21
Biểu 1.2: Tình hình lao động bị mất việc làm trong nông nghiệp do thu hồi
đất giai đoạn 2001 - 2005
Đơn vị: Người
Tỉnh
2001-2005
1. Hà Nội
104000
2. Hải Phòng
17600
3. Hà Tây
52838
4. Hải Dƣơng
12000
5. Nam Định
8000
6. Thái Bình
17045
7. Ninh Bình
2500
8. Lào Cai
6875
9. Vĩnh Phúc
8000
10. Bắc Ninh
7500
11. Đà Nẵng
20000
12. Phú Yên
3351
13. Đồng Tháp
5000
14. Cần Thơ
1000
Cộng
265709
Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, 2005
- Đô thị hoá làm cho một bộ phận ngƣời lao động ngoại thành tìm cách di
chuyển vào thành thị để tìm việc từ đó tạo sức ép rất lớn đối với thành thị.
Khi tiến hành quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hƣớng hiện đại thì nó sẽ kéo theo quá trình đô thị hoá, khi đó ngƣời lao động
đang sinh sống và làm việc ở khu vực ngoại thành sẽ tìm cách di chuyển vào
khu vực thành thị để tìm việc làm, tăng thu nhập cũng nhƣ tiếp cận với đời sống
hiện đại. Điều này, nó sẽ trở thành sức ép rất lớn đối với khu vực thành thị cũng
nhƣ những bất ổn về kinh tế – xã hội của khu vực ngoại thành do đó để giải
22
quyết đƣợc tận gốc vấn đề này cần thông qua giải quyết việc làm, tạo việc làm
cho ngƣời lao động tại khu vực ngoại thành bị ảnh hƣởng của quá trình đô thị
hoá.
Bên cạnh đó, dòng di chuyển quá lớn của lao động từ nông thôn ra thành
phố trong khi số lƣợng việc làm tại các khu vực đô thị không thể tăng nhanh để
có thể thu hút hết sự tăng lên của dân số trong độ tuổi lao động và do di dân
cũng là một nguyên nhân gây ra tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm với tỷ lệ
khá cao.
- Đô thị hoá làm cho nguy cơ thất nghiệp ở độ tuổi trên 35 là rất lớn.
Ở hầu hết các địa phƣơng, số lƣợng lao động trên 35 tuổi chiếm tỷ lệ lớn
(35%). Trong sản xuất nông nghiệp, đây là lực lƣợng có kinh nghiệm, song khi
bị thu hồi đất thì đây là bộ phận có nguy cơ thất nghiệp kéo dài lớn nhất vì tuổi
cao nên khả năng đƣợc tuyển vào các doanh nghiệp rất ít và khó thích nghi với
những công việc mới. Trong khi đó, ở độ tuổi này, số lao động chƣa qua đào tạo
rất nhiều và việc tham gia các khoá đào tạo chuyển nghề đối với họ cũng không
dễ dàng nhƣ đối với lao động trẻ. Số lao động này thực tế rất khó để tìm đƣợc
việc làm mới. Hơn nữa, nhận thức của ngƣời lao động còn thụ động, ỷ lại vào
chính sách hỗ trợ của Nhà nƣớc, vào tiền đền bù mà không cố gắng vƣợt qua
khó khăn tìm kiếm việc làm. Tâm lý chờ nhận sự ƣu đãi của Nhà nƣớc và các
doanh nghiệp mà không có sự chuẩn bị nghề nghiệp mới đang tồn tại một cách
phổ biến ở ngƣời lao động thuộc các vùng bị thu hồi đất. Hiệu quả sử dụng tiền
đền bù rất thấp, rất ít hộ dùng tiền để tham gia vào các lớp học nghề.
1.2 Việc làm; Tạo việc làm và các vấn đề đặt ra đối với việc làm cho
ngƣời lao động trong quá trình đô thị hoá.
1.2.1 Việc làm, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm.
* Việc làm.
23
Trƣớc đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, ngƣời lao động
đƣợc coi là có việc làm và đƣợc xã hội thừa nhận, trân trọng là ngƣời làm việc
trong thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực kinh tế tập thể. Trong cơ chế đó,
Nhà nƣớc chịu trách nhiệm bố trí, xắp xếp việc làm cho từng ngƣời lao động. Do
đó trong xã hội lúc đó không thừa nhận có hiện tƣợng thất nghiệp, thiếu việc
làm, dƣ thừa lao động, việc làm không đầy đủ... Nhƣng trong giai đoạn chuyển
sang nền kinh tế thị trƣờng hiện nay, quan niệm về việc làm đã đƣợc thay đổi
một cách căn bản.
Theo một số chuyên gia trong lĩnh vực lao động nƣớc ta, quan niệm về
ngƣời có việc làm nhƣ sau: Người có việc làm là những người làm việc trong
những lĩnh vực, ngành nghề, đang hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn
cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình, đồng thời đóng góp
một phần cho xã hội.
Khái niệm này đã cho thấy nội dung của việc làm đƣợc mở rộng và tạo ra
khả năng to lớn cho việc giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho
nhiều ngƣời, điều này đƣợc thể hiện trên hai góc độ:
- Việc làm đã đƣợc mở rộng rất lớn, bao gồm tất cả các thành phần kinh
tế, trong mọi hình thức và cấp độ của tổ chức sản xuất kinh doanh và sự đan xen
giữa chúng. Nó cũng không bị hạn chế về mặt không gian.
- Ngƣời lao động đƣợc tự do hành nghề, tự do liên doanh, liên kết, tự do
thuê mƣớn lao động theo luật pháp và sự hƣớng dẫn của nhà nƣớc để tự tạo việc
làm cho mình và thu hút thêm lao động xã hội theo quan hệ cung cầu về lao
động trên thị trƣờng lao động.
Chính từ quan niệm trên về việc làm trong cơ chế thị trƣờng, trong Bộ
luật lao động đầu tiên của Việt Nam đƣợc Quốc hội khoá IX phê duyệt đã khẳng
định: Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm
đều được thừa nhận là việc làm.
24
Từ quan điểm trên cho thấy khái niệm việc làm bao gồm các nội dung:
+ Là hoạt động lao động của con ngƣời.
+ Là hoạt động lao động nhằm mục đích tạo ra thu nhập.
+ Là hoạt động lao động đó không bị ngăn cấm.
Khái niệm này đã đƣợc thể chế hoá thành các chỉ tiêu quản lý nhà nƣớc
về việc làm và thống nhất trong cả nƣớc. Để tạo điều kiện thuận lợi trong các
hoạt động thực tế, khái niệm này đã đƣợc cụ thể hoá nhƣ sau:
Việc làm là hoạt động đƣợc thể hiện ở một trong ba dạng:
+ Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lƣơng bằng tiền mặt hoặc
bàng hiện vật cho công việc đó.
+ Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân, bao gồm sản xuật
nông nghiệp trên đất do chính thành viên đó sở hữu; hoặc hoạt động kinh tế
ngoài nông nghiệp do chính thành viên đó làm chủ toàn bộ hoặc một phần.
+ Làm công việc cho hộ gia đình mình nhƣng không đƣợc trả thù lao dƣời
hình thức tiên lƣơng, tiền công cho công việc đó, bao gồm sản xuất nông nghiệp
trên đất do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ gia đình quản lý hay có quyền
sử dụng; hoặc hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp do chủ hộ hay một thành
viên trong gia đình làm chủ hoặc quản lý.
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO): Việc làm là những hoạt động lao
động đƣợc trả công bằng tiền và bằng hiện vật.
Theo giáo trình Kinh tế lao động của trƣờng ĐHKTQD do Phạm Đức
Thành và Mai Quốc Chánh chủ biên thì quan niệm việc làm là phạm trù để chỉ
trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn,tƣ liệu
sản xuất,công nghệ... ) để sử dụng sức lao động đó.
25
Trạng thái phù hợp đƣợc thể hiện thông qua quan hệ tỷ lệ giữa chi phí ban
đầu (C) nhƣ nhà xƣởng, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu...và chi phí về sức
lao động (V). Có thể biểu hiện mối quan hệ tỷ lệ này bằng phƣơng trình sau:
VL = C/V
Quan hệ tỷ lệ biểu hiện sự kết hợp giữa C và V phải phù hợp với trình độ
công nghệ của sản xuất. Khi trình độ kỹ thuật công nghệ thay đổi thì sự kết hợp
đó cũng thay đổi theo, có thể công nghệ sử dụng nhiều vốn hoặc công nghệ sử
dụng nhiều sức lao động
Do đó tuỳ từng điều kiện cụ thể mà lựa chọn phƣơng án phù hợp để tạo
việc làm cho ngƣời lao động.
Từ quan niệm này ta thấy rằng để đảm bảo cho ngƣời lao động có việc
làm thì cần thiết phải có những điều kiện quan trọng để đảm bảo cho sự kết hợp
giữa sức lao động và tƣ liệu sản xuất. Đồng thời, thông qua quan niệm này cũng
cho thấy rằng do quan hệ tỷ lệ này luôn luôn thay đổi, chính vì vậy đối với các
quốc gia tùy vào điều kiện, hoàn cảnh thực tế của mình mà lựa chọn những
chiến lƣợc phát triển nhƣng vẫn giải quyết tốt vấn đề việc làm. Chỉ có nhƣ vậy
mới tránh đƣợc tình trạng lãng phí nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực con ngƣời.
* Thất nghiệp và thiếu việc làm.
Một nhà kinh tế học ngƣời Mỹ - Samuelson đã chỉ rõ: “thất nghiệp là một
vấn đề trung tâm trong các xã hội hiện đại”. Khi mức thất nghiệp cao, tài nguyên
bị lãng phí và thu nhập của dân giảm. Trong những thời kỳ nhƣ vậy nền kinh tế
sẽ gặp nhiều khó khăn và ảnh hƣởng đến tình cảm và cuộc sống gia đình trong
nhân dân. Một thiệt hại nghiêm trọng nữa do thất nghiệp đƣa lại đó là sự mất đi
về sản lƣợng là những khoản lãng phí to lớn nhất trong nền kinh tế hiện đại.
Thất nghiệp luôn luôn gắn với sản lƣợng. Với nền kinh tế suy thoái thì tỷ lệ thất
nghiệp tăng vì khi đó các đơn đặt hàng và sản lƣợng đều giảm sút. Trong một
nền kinh tế bình ổn vẫn tồn tại một tỷ lệ thất nghiệp nhất định, đó là tỷ lệ thất