Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Vấn đề giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên các trường cao đẳng nghề ở nam định hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (625.73 KB, 89 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



THÁI NAM GIANG

VẤN ĐỀ GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ
CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
Ở NAM ĐỊNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



THÁI NAM GIANG

VẤN ĐỀ GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ
CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
Ở NAM ĐỊNH HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số:

60 22 80



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN ĐÌNH TƢỜNG

HÀ NỘI - 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn Đình Tường.
Các số liệu, tài liệu nêu ra trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính
khách quan, khoa học. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2012.
Tác giả luận văn

Thái Nam Giang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

Chƣơng 1. Ý THỨC CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC Ý THỨC
CHÍNH TRỊ CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
Ở NAM ĐỊNH HIỆN NAY .................................................................... 7

1.1.

Ý thức chính trị và giáo dục ý thức chính trị ..................................... 7

1.1.1. Ý thức chính trị .................................................................................. 7
1.1.2. Giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên hiện nay ............................ 19

1.2.

Vai trò của giáo dục ý thức chính trị đối với sinh viên các
trường Cao đẳng nghề ở Nam Định ................................................. 28
1.2.1. Những yêu cầu mới đối với việc giáo dục ý thức chính trị hiện
nay .................................................................................................... 28
1.2.2. Trang bị thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng
của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ....................... 31
1.2.3. Thấm nhuần và thực hiện đường lối quan điểm của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ
quốc .................................................................................................. 34
1.2.4. Định hướng nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ...................................... 35
1.2.5. Phát triển trình độ chuyên môn kỹ thuật, năng lực công tác của
sinh viên ........................................................................................... 36
1.2.6. Nâng cao và hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay ............................................................................ 36

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO
GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO SINH VIÊN CÁC
TRƢỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ Ở NAM ĐỊNH HIỆN NAY ................... 37

2.1.

Khái quát về các Trường Cao đẳng nghề ở Nam Định hiện nay .... 37
2.1.1. Một vài nét về đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội ở
Nam Định ảnh hưởng đến giáo dục ý thức chính trị cho sinh

viên các trường cao đẳng nghề hiện nay .......................................... 37


2.1.2. Sơ lược về các trường Cao đẳng nghề ở Nam Định hiện nay ......... 41
2.2.

Thực trạng giáo dục ý thức chính trị sinh viên các Trường nghề
ở Nam Định hiện nay ....................................................................... 45

2.2.1. Những yếu tố tác động đến quá trình giáo dục ý thức chính trị của
sinh viên trường Cao đẳng nghề ở Nam Định hiện nay ................... 45
2.2.2. Những thành tựu đạt được trong giáo dục ý thức chính trị cho
sinh viên Cao đẳng nghề ở Nam Định và nguyên nhân của
những thành tựu đó .......................................................................... 56
2.2.3. Những hạn chế trong giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên
Cao đẳng nghề ở Nam Định và nguyên nhân của những hạn chế
đó ...................................................................................................... 60
2.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao giáo dục ý thức chính trị cho
sinh viên Trường Cao đẳng nghề ở Nam Định hiện nay ................. 63
2.3.1. Xây dựng môi trường chính trị lành mạnh trong sạch, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc nâng cao giáo dục ý thức chính trị cho
sinh viên ........................................................................................... 63
2.3.2. Giáo dục thế hệ trẻ học tập và làm theo những chuẩn mực đạo
đức của Hồ Chí Minh ....................................................................... 68
2.3.3. Kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo nghề với hoạt động thực tiễn của
sinh viên .......................................................................................... 69
2.3.4. Đổi mới phương pháp giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên
trong giai đoạn hiện nay ................................................................... 71
2.3.5. Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội....... 73
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 79


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác chính trị tư tưởng trong các nhà trường là một bộ phận cấu
thành của quá trình tổ chức dạy và học; là bộ phận quan trọng nhất góp phần
hình thành nhân cách, phẩm chất, lối sống cho sinh viên theo mục tiêu giáo
dục: “đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức,
sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng
lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” (Luật Giáo dục). Tất cả những điều đó chỉ có thể thực hiện được thông
qua công tác giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên. Công tác này đòi hỏi
phải tiến hành một cách liên tục, thường xuyên và đang trở thành một trong
những nội dung không thể thiếu được trong các mặt giáo dục của các nhà
trường nói chung và sinh viên các Trường Cao đẳng nghề ở Nam Định nói
riêng nhằm tạo ra lớp người “vừa hồng, vừa chuyên” như mong muốn của
Bác Hồ. Như vậy, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trước hết cần
phải nâng cao chất lượng giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên. Đó cũng
chính là nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa cấp bách, đồng thời là đòi hỏi khách quan
của nhiệm vụ cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thực hiện chủ trương của Bộ Lao động Thương Binh và Xã hội, ý thức
được vai trò, vị trí và sứ mệnh chính trị của mình trong thời kỳ mới, ngay từ
khi mới thành lập, các Trường Cao đẳng nghề ở Nam Định hiện nay đã luôn
quan tâm đến việc giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên. Điều này được thể
hiện rất rõ qua sự quan tâm chỉ đạo của Đảng uỷ, Ban giám hiệu, của các cấp
uỷ Đảng, của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh... Trong giai đoạn hiện
nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường nó đã mang lại một
diện mạo mới cho bộ mặt đạo đức, chính trị, tư tưởng của toàn xã hội. Bên


1


cạnh việc hình thành những giá trị mới, tích cực thì nền kinh tế mở này cũng
đã làm nảy sinh khá nhiều tiêu cực trong xã hội như: phân hóa giàu nghèo
tăng nhanh, bản sắc văn hóa dân tộc bị xói mòn, lối sống thực dụng phát triển,
chủ nghĩa cá nhân vị kỷ phổ biến v.v. Điều này làm ảnh hưởng xấu tới tầng
lớp học sinh, sinh viên về mặt tư tưởng chính trị, tình cảm đạo đức, lối sống.
Như chúng ta đã biết, sinh viên là một nhóm xã hội đặc biệt gồm những
người đang chuẩn bị cho hoạt động lao động trong một lĩnh vực nghề nghiệp
nhất định, đang chuẩn bị để gia nhập vào đội ngũ trí thức xã hội. Ở cấp độ cá
nhân, sinh viên là người đang trưởng thành về mặt xã hội, chín muồi về thể
lực, định hình về nhân cách, đang học tập tiếp thu những tri thức, kỹ năng của
một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định. Lứa tuổi của sinh viên cũng có những
đặc trưng nổi bật, đó là thời kỳ phát triển tư duy trừu tượng, phát triển hứng
thú nghề nghiệp, đặc biệt là sự phát triển thế giới quan, nhân sinh quan, đạo
lý, hoài bão vươn tới lý tưởng cao đẹp. Vì vậy hơn lúc nào hết, đây là giai
đoạn tốt nhất, thuận lợi nhất cho việc giáo dục ý thức chính trị. Trong trường
học việc giáo dục này phải được coi trọng như đào tạo kiến thức khoa học,
chuyên ngành. Các biện pháp giáo dục ý thức chính trị chỉ thực sự có hiệu quả
khi chúng trở thành các hoạt động tự trải nghiệm, khi sinh viên tham gia các
hoạt động do Trường khởi xướng thì bản thân họ sẽ có cơ hội để thể nghiệm
năng lực của mình cũng như có điều kiện để rèn luyện năng lực, đáp ứng tốt
hơn các yêu cầu xã hội.
Xét thấy vai trò của công việc giáo dục này nên tôi chọn đề tài: “Vấn
đề giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên các Trường Cao đẳng nghề ở
Nam Định hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng về ý thức chính trị và đạo đức của sinh viên đã được nhiều

nhà khoa học quan tâm và đi sâu vào nghiên cứu với nhiều công trình và khai

2


thác dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể nêu lên một số công trình tiêu biểu
như:
Trịnh Trí Thức (1994) “Những nhân tố khách quan tác động đến tính
tích cực xã hội chủ nghĩa của sinh viên”, luận án Phó tiến sĩ khoa học triết học.
Nguyễn Đình Đức (1996) “Những nhân tố khách quan và chủ quan
tác động đến tư tưởng chính trị của sinh viên, thực trạng và giải pháp”, luận
án Phó tiến sĩ khoa học triết học. Luận án này đã làm rõ được nhân tố chủ
quan và nhân tố khách quan tác động tới tư tưởng chính trị của sinh viên và từ
đó đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm giáo dục và bồi dưỡng tư tưởng
chính trị cho sinh viên.
Trần Sĩ Phán (1999) “Giáo dục đạo đức với sự hình thành và phát triển
nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, luận án phó tiến sĩ
khoa học triết học. Luận án này đi sâu vào nghiên cứu bản chất và vai trò của
giáo dục đạo đức đối với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên
Việt Nam hiện nay. Đồng thời đưa ra quan điểm coi công tác giáo dục đạo
đức như là yếu tố quan trọng nhất trong việc hình thành, phát triển nhân cách
sinh viên.
Bộ giáo dục và đào tạo (2003), “Báo cáo tổng kết công tác sinh viên
giai đoạn 1998 - 2000”. Bản báo cáo đã đánh giá tình hình sinh viên trong
những năm gần đây, trong đó có những ghi nhận về mặt đạo đức, tư tưởng, lối
sống của sinh viên dưới hai khía cạnh tích cực và hạn chế.
Dương Văn Duyên (2003), “Đạo đức học Mácxít với việc giáo dục đạo
đức sinh viên hiện nay ở nước ta”. Công trình này đã nêu sơ lược tình hình
đạo đức của sinh viên và đưa ra một số giải pháp cụ về việc giáo dục đạo đức
cho sinh viên hiện nay.

PGS. TS Phan Thanh Khôi (2003), “Ý thức chính trị của công nhân
trong một số doanh nghiệp ở Hà Nội hiện nay”. Tác phẩm này đã đi sâu vào

3


nghiên cứu khái niệm ý thức chính trị và sự thể hiện nó trong từng đối tượng
khác nhau.
Bùi Quốc Hưng (2005), “Phát triển ý thức chính trị của sinh viên
trường Đại học hằng hải Việt Nam hiện nay”, Luận văn phân tích một số vấn
đề có tính quy luật trong phát triển ý thức chính trị của sinh viên trường Đại
học Hàng Hải Việt Nam; Đánh giá thực trạng và dự báo những nhân tố tác
động đến phát triển ý thức chính trị của sinh viên, đề xuất một số giải pháp về
nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, đạo đức cách mạng cho sinh viên,
nâng cao chất lượng đào tạo chuyên môn kỹ thuật và xây dựng môi trường
giáo dục lành mạnh trong sạch.
Vũ Thị Thu Trang (2011), “Giáo dục ý thức chính trị cho học viên của
Học viện Phòng không - Không quân hiện nay”. Công trình đã nghiên cứu sâu
về ý thức chính trị, vai trò của nó và việc giáo dục ý thức chính trị cho học
viên Học viện Phòng không - Không quân hiện nay.
Ngoài ra còn có nhiều bài báo đề cập đến việc giáo dục ý thức chính trị
cho sinh viên như: “Một số ý kiến về công tác giáo dục cho sinh viên hiện
nay” của tác giả Lương Minh Cừ đăng trên tạp chí giáo dục, số 60 năm 2003;
“ Xây dựng bản lĩnh chính trị cho thanh niên ở nước ta hiện nay” của tác giả
Trần Phi Hùng đăng trên tạp chí Khoa học chính trị, số 2 năm 2008; “Kết hợp
giáo dục lí luận với giáo dục lí tưởng, đạo đức cho thanh niên hiện nay” của
tác giả Nguyễn Ngọc Thu đăng trên Tạp chí cộng sản, số 19 năm 2005 v.v.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích của đề tài:
Chỉ rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giáo dục ý thức chính trị cho

sinh viên các Trường Cao đẳng nghề ở Nam Định hiện nay. Từ đó, đề xuất
một số giải pháp cơ bản nhằm giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên trong
giai đoạn hiện nay.

4


* Nhiệm vụ của đề tài
+ Phân tích ý thức chính trị, giáo dục ý thức chính trị và vai trò của nó
đối với sinh viên hiện nay.
+ Nêu lên thực trạng và những yếu tố tác động đến việc giáo dục ý thức
chính trị cho sinh viên các Trường Cao đẳng nghề ở Nam Định hiện nay.
+ Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao giáo dục ý thức
chính trị cho sinh viên các Trường Cao đẳng nghề ở Nam Định hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề giáo dục ý thức chính trị cho sinh
viên các Trường Cao đẳng nghề ở Nam Định trong giai đoạn hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu: Sinh viên các Trường Cao đẳng Nghề ở Nam
Định và vấn đề giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên ở các Trường cao đẳng
nghề Nam Định hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta
về xây dựng con người nói chung và xây dựng ý thức chính trị của thanh niên,
sinh viên nói riêng.
* Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời đề tài sử dụng các
phương pháp phân tích - tổng hợp, lịch sử - logic, so sánh, điều tra xã hội học
và thống kê toán học.
6. Đóng góp của đề tài

Dùng làm tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu khoa học,
ứng dụng vào công tác giảng dạy và giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên
trong các trường cao đẳng nghề cũng như các trường cao đẳng khác trên cả
nước đặc biệt là ở khu vực Nam Định.

5


7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn được kết cấu thành hai chương, năm tiết:
Chƣơng 1: Ý thức chính trị và vai trò của giáo dục ý thức chính trị cho
sinh viên các trường cao đẳng nghề ở Nam Định hiện nay.
Chƣơng 2: Thực trạng và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao giáo
dục ý thức chính trị cho sinh viên các trường cao đẳng nghề ở Nam Định hiện
nay.

6


Chƣơng 1
Ý THỨC CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC Ý THỨC
CHÍNH TRỊ CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
Ở NAM ĐỊNH HIỆN NAY
1.1. Ý thức chính trị và giáo dục ý thức chính trị
1.1.1. Ý thức chính trị
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng “ý thức là sự phản
ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc người” [6, tr.52]. Ý
thức là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư
tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh

tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Ý thức mang bản
chất xã hội - lịch sử. Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan nhưng nó là
cái thuộc phạm vi chủ quan, không có tính vật chất. Ý thức phản ánh thế giới
khách quan trong quá trình con người tác động cải tạo thế giới. Do đó, ý thức
con người là sự phản ánh có tính năng động, sáng tạo. Tính sáng tạo của ý
thức được thể hiện rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể
tạo ra những tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không có trong
thực tế. Ý thức có kết cấu phức tạp. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau, tiếp
cận theo các yếu tố cơ bản nhất hợp thành nó thì ý thức bao gồm ba yếu tố cơ
bản nhất là: tri thức, tình cảm và ý chí, trong đó tri thức là nhân tố quan trọng
nhất. Ngoài ra ý thức còn có thể bao gồm các yếu tố khác.
Tri thức là toàn bộ sự hiểu biết của con người về thế giới, là kết quả của
quá trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng nhận thức dưới
dạng các loại ngôn ngữ. Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia
thành nhiều loại như tri thức về tự nhiên, tri thức về con người và xã hội. Căn
cứ vào trình độ phát triển của nhận thức, tri thức có thể chia thành tri thức đời
thường và tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận.

7


Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong các
quan hệ. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được
hình thành từ sự khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự
tác động của ngoại cảnh. Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động
của con người về đối tượng đó trong các quan hệ mà hình thành nên các loại
tình cảm khác nhau, như: tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ…
Ý chí là sự biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm vượt
qua những cản trở trong quá trình thực hiện mục đích của nó. Ý chí được coi
là mặt năng động của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó

con người tự giác được mục đích của hành động nên tự đấu tranh với mình và
ngoại cảnh để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn.
Trong thực tế “ý thức” thường được tồn tại dưới nhiều hình thái khác
nhau tùy vào lĩnh vực cụ thể, các hình thái ý thức bao gồm: ý thức chính trị, ý
thức đạo đức, ý thức khoa học, ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo và triết học.
Tính phong phú đa dạng của các hình thái ý thức xã hội phản ánh và chịu sự
qui định của tính phong phú đa dạng của bản thân tồn tại xã hội. Trong các
hình thái ý thức ấy, ý thức chính trị đóng vai trò quan trọng nhất chi phối các
hình thái ý thức xã hội khác.
Hình thái ý thức chính trị xuất hiện trong xã hội có giai cấp và nhà
nước, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần của xã hội. Ý thức chính
trị phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai cấp, các dân
tộc và các quốc gia, cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực
Ý thức chính trị chia thành hai cấp độ: Ý thức chính trị thực tiễn thông
thường và ý thức chính trị lý luận. Ý thức chính trị thực tiễn thông thường nảy
sinh tự phát từ thực tiễn và kinh nghiệm xã hội trong môi trường chính trị. Do
vậy nó có tính cảm xúc tâm lý và kinh nghiệm cảm tính chưa có sự khái quát
trí tuệ, chưa có tầm nhìn lịch sử rộng lớn, không có công thức lý luận. Do

8


thực tiễn đòi hòi mà ý thức chính trị được khái quát thành hệ thống, qui luật,
phạm trù xã hội, nên nó trở thành hệ tư tưởng chính trị.
Hệ tư tưởng chính trị phản ánh trực tiếp và tập trung lợi ích của một
giai cấp. Nó được hình thành tự giác, được truyền bá trong xã hội. Hệ tư
tưởng chính trị thường gắn với tổ chức chính trị - qua đó bảo vệ lợi ích của
giai cấp, qua đó thể hiện vai trò quan trọng của nó đối với xã hội. Hệ tư tưởng
giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Tác động tích cực tiêu
cực của nó đối với xã hội phụ thuộc vào tính chất cách mạng hoặc phản cách

mạng của giai cấp mang hệ tư tưởng đó.
Từ “chính trị” có lẽ được nhắc đến lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại
bởi Aristotle một triết gia Hi Lạp cổ đại, đặc biệt nó còn là tựa đề cho một tác
phẩm nổi tiếng và nhiều ảnh hưởng của ông trong cuốn “Politics” (Chính trị
luận). Tuy nhiên từ “Chính trị” và các vấn đề chính trị cơ bản như quyền lực
và tổ chức nhà nước đã được tiếp cận bởi các triết gia khác như Khổng Tử,
Plato... Dù Aristotle đã khẳng định con người là động vật chính trị, mọi công
dân có đạo đức (không có nô lệ và phụ nữ) đều có quyền tham gia chính trị,
nhưng một điểm chung lớn trong lý luận của các triết gia cổ đại này là quyền
lực chính trị tốt nhất nên được nắm giữ bởi những ông vua thông thái. Vì thế
chính trị ở đây có nghĩa là nghệ thuật cai trị và quản lý thành bang của một
nhà lãnh đạo lỗi lạc, xuất chúng hay là khoa học giành và nắm giữ vương
quyền cha truyền con nối trong thiên hạ. Dưới nhãn quan này đại bộ phận dân
chúng bị gạt ra bên lề của các cuộc chơi chính trị. Rồi khi có được quyền lực
trong tay những kẻ cầm quyền đã tạo nên bao nhiêu sự tha hóa, mục ruỗng
trong bộ máy lãnh đạo và bao nhiêu vấn nạn quốc gia mà hậu quả của tất cả
vấn đề này đổ cả lên đầu người dân.Từ đó mặc nhiên chính trị được hiểu như
một thứ xấu xa, là đặc quyền của kẻ thống trị, đối kháng với lợi ích và cuộc
sống bình dị của người dân.

9


Nhưng nền văn minh nhân loại đã bước qua một trang mới hoàn toàn
khác, cùng với sự ra đời của nhiều luận thuyết cổ vũ cho chủ nghĩa tự do. Mà
một sự cổ vũ to lớn cho lý tưởng này là sự ra đời của một nhà nước hiến pháp
đầu tiên trên thế giới - Nhà nước Mỹ. Từ đây cả thế giới làm quen với một lý
thuyết hoàn toàn mới về nguồn gốc và bản chất của nhà nước, rằng nhà nước
không phải là một thế lực thống trị xã hội mà chính là một tổ chức quyền lực
công, được người dân trao cho quyền lực để đổi lại họ được sống dưới sự bảo

vệ của nhà nước và một trật tự luật pháp do nhà nước ban hành (luật pháp
không trái với đạo đức và luân lý); và rằng quyền lực chính trị đó không thể
là quyền lực tuyệt đối vì “quyền lực có xu hướng tha hóa, quyền lực tuyệt đối
dẫn đến tha hóa tuyệt đối” (Lord Acton). Dưới nhãn quan triết học này, quyền
lực chính trị xuất phát từ dân chúng, nó được tạo lập để phục vụ xã hội. Chính
trị là nghệ thuật hay khoa học vận hành và quản lý xã hội bằng quyền lực nhà
nước nhưng nó phải bị hạn chế bằng luật pháp và được giám sát bởi người
dân thông qua các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, tôn giáo. Như vậy người dân
mọi thành phần có đủ tư cách để tham gia gián tiếp vào nền chính trị quốc gia
bằng những hoạt động xã hội cụ thể của mình; quyền tự do báo chí cho phép
người dân phát biểu quan điểm của mình đối với tất cả các vấn đề của quốc
gia; hơn nữa mọi công dân đủ tiểu chuẩn pháp quy đều có khả năng tham gia
vào hoạt động quản lý Nhà nước một cách trực tiếp. Từ nay chính trị chẳng
còn là vương quyền cha truyền con nối, cũng chẳng còn là đặc quyền của
những người thuộc tầng lớp quý tộc.
Theo từ điển Triết học: “chính trị là sự tham gia vào các công việc của
nhà nước, quyết định những hình thức nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà
nước, quản lý đất nước, lãnh đạo các giai cấp, vấn đề đấu tranh đảng phái…
Những lợi ích căn bản của các giai cấp và những quan hệ qua lại của các giai
cấp và những quan hệ qua lại của các giai cấp biểu hiện ra trong chính trị,

10


chính trị cũng biểu hiện những quan hệ giữa các dân tộc và giữa các quốc gia
(chính sách đối ngoại)” [61, tr.85].
Chính trị xuất hiện từ khi xã hội có sự phân chia giai cấp, có mâu thuẫn
đối kháng giai cấp, là sự phản ánh tập trung những lợi ích căn bản của các giai
cấp, là quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các tập đoàn và các tầng lớp xã
hội khác nhau trong việc giành giữ và sử dụng chính quyền nhà nước.

Lênin cho rằng: “Chính trị là sự tham gia vào các công việc của nhà
nước, sự chỉ đạo của nhà nước, sự quy định các hình thức nhiệm vụ, nội dung
của hoạt động nhà nước” [38, tr.14].
Chính trị còn được hiểu là: những hoạt động giáo dục về mục đích
đường lối, nhiệm vụ đấu tranh của một giai cấp, một chính đảng nhằm giành
hoặc duy trì quyền điều khiển bộ máy nhà nước, những hoạt động nhằm nâng
cao giác ngộ và tổ chức cho quần chúng thực hiện những nhiệm vụ nhất định.
Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, đồng thời nó cũng ảnh hưởng
lớn đến kinh tế và các lĩnh vực khác. Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về
kinh tế thì sẽ trở thành giai cấp thống trị xã hội về mặt chính trị.
Cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức chính quyền, là việc tham
gia vào công việc nhà nước, định hướng cho nhà nước, xác định hình thức,
nội dung nhiệm vụ của nhà nước. Sự thống trị về mặt kinh tế của một giai cấp
nhất định chỉ được thực hiện đúng nghĩa khi nó được bảo đảm bằng quyền lực
nhà nước. Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện và bảo đảm lợi ích các
giai cấp thống trị, trong đó, lợi ích kinh tế là khâu cơ bản và quyết định chính
trị. Cấu trúc chính trị được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau. Theo đó,
chính trị bao gồm: Ý thức chính trị và hành vi chính trị. Chính trị còn là: ý
thức chính trị, quan hệ chính trị, các tổ chức, thể chế chính trị. Như vậy, ý
thức chính trị là mặt tinh thần, mặt ý thức của chính trị.
Từ sự tìm hiểu về ý thức và chính trị chúng ta đi vào tìm hiểu thế nào là
ý thức chính trị và những đặc điểm của nó.

11


Ý thức chính trị là thái độ đối với các thể chế chính trị (Nhà nước, đảng
phái); là nhận thức về những nội dung chính trị quan trọng (chế độ chính trị,
đường lối, chính sách v.v. phát triển quốc gia); là sự hiểu biết của mình với
tính cách là một giai cấp trong mối quan hệ với các giai cấp - tầng lớp cơ bản

(kẻ thù, bạn đồng minh…), dân tộc v.v. nảy sinh từ quá trình xây dựng một
chế độ chính trị của một đất nước.
Ý thức chính trị là một hình thái ý thức xã hội xuất hiện trong xã hội có
giai cấp và nhà nước. Nó phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế xã hội giữa
các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia, cũng như thái độ của các giai cấp
đối với quyền lực nhà nước. Sự thể hiện lợi ích giai cấp một cách trực tiếp
trong công việc quản lý đất nước là đặc trưng của ý thức chính trị. Ý thức
chính trị là bộ phận của kiến trúc thượng tầng chính trị.
Ý thức chính trị bao gồm ý thức chính trị thực tiễn thông thường và hệ
tư tưởng chính trị. Ý thức chính trị thực tiễn thông thường nảy sinh tự phát từ
hoạt động thực tiễn và kinh nghiệm xã hội trong môi trường kinh tế - xã hội
trực tiếp hàng ngày. Nó chứa đựng những yếu tố tâm lý, kinh nghiệm cảm
tính, nhận thức theo thói quen những biểu hiện bề ngoài của hoạt động chính
trị mà chủ thể trực tiếp tham gia nên thiếu hệ thống, thiếu sâu sắc và thường
không ổn định. Hệ tư tưởng chính trị là hệ thống những quan điểm tư tưởng
biểu hiện lợi ích căn bản của một giai cấp. Hệ tư tưởng chính trị được hình
thành một cách tự giác, nó được các nhà tư tưởng của giai cấp xây dựng và
truyền bá. Nó được diễn tả bằng lý luận trong các học thuyết chính trị - xã
hội, được cụ thể hoá trong đường lối, cương lĩnh của các chính đảng và các
giai cấp khác nhau cũng như trong luật pháp, chính sách của Nhà nước.
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật
chất khác nhau, lợi ích khác nhau nên ý thức chính trị của các giai cấp không
thể không khác nhau và thậm chí đối lập nhau. Nói cách khác, ý thức chính trị
luôn mang tính giai cấp. Tính giai cấp của ý thức chính trị biểu hiện ở cả ý

12


thức chính trị thực tiễn thông thường và hệ tư tưởng chính trị, tuy nhiên, ở
trình độ hệ tư tưởng chính trị thì tính giai cấp của ý thức chính trị biểu hiện

sâu sắc hơn. Trong xã hội có giai cấp đối kháng bao giờ cũng có những quan
điểm tư tưởng chính trị hoặc những hệ tư tưởng chính trị đối lập nhau: tư
tưởng của giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột, của giai cấp thống trị và giai
cấp bị trị. Nếu hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị ra sức bảo vệ địa vị
của giai cấp đó thì hệ tư tưởng chính trị của giai cấp bị trị thể hiện nguyện
vọng và lợi ích của quần chúng lao động chống lại xã hội người bóc lột người,
xây dựng một xã hội công bằng, không có áp bức. Những tư tưởng thống trị
của một thời đại bao giờ cũng là những tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh
tế và chính trị ở thời đại đó. Chính điều này, C. Mác đã nêu ra trong tác phẩm
“Hệ tư tưởng Đức”: “Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống
trị là những tư tưởng thống trị” [39, tr.7]. Các giai cấp bóc lột thường phủ
nhận tính giai cấp của ý thức chính trị và tìm mọi cách chứng minh rằng, tư
tưởng của họ là tư tưởng chung của mọi người trong xã hội. Đó là một sự lừa
bịp nhằm che giấu bản chất giai cấp của giai cấp thống trị.
Ý thức chính trị về bản chất, là sự thể hiện cô đọng lợi ích kinh tế của
giai cấp này hoặc giai cấp khác, do đó, ý thức chính trị của giai cấp thống trị
về kinh tế là ý thức, tư tưởng thống trị trong xã hội. Bởi vì, do nắm được cơ
sở kinh tế, giai cấp thống trị cũng giữ vai trò lãnh đạo kiến trúc thượng tầng,
trong đó quan trọng nhất là bộ máy Nhà nước và sử dụng quyền lực Nhà nước
để thống trị xã hội cả về kinh tế lẫn chính trị. Mác và Ăngghen viết: “Giai cấp
nào chi phối những tư liệu sản xuất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu
sản xuất tinh thần, thành thử nói chung tư tưởng của những người không có tư
liệu sản xuất tinh thần đồng thời cũng đồng thời bị giai cấp thống trị đó chi
phối” [39, tr.66].

13


Ý thức chính trị là một hình thái ý thức xã hội phản ánh các quan hệ
chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia, cũng

như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước.
Ý thức chính trị xuất hiện trong xã hội có giai cấp và nhà nước, nó phản
ánh trực tiếp và tập trung lợi ích của giai cấp. Điều đó biểu hiện qua hệ tư
tưởng chính trị. Hệ tư tưởng chính trị được thể hiện trong đường lối, cương
lĩnh chính trị của các chính đảng của các giai cấp khác nhau cũng như trong
hiến pháp, chính sách nhà nước và các công cụ của giai cấp thống trị. Hệ tư
tưởng chính trị được hình thành một cách tự giác. Nó được các nhà tư tưởng
của giai cấp xây dựng và truyền bá. Hệ tư tưởng chính trị gắn với các tổ chức
chính trị. Thông qua các tổ chức đó mà một giai cấp nào đó tiến hành cuộc
đấu tranh về ý thức hệ vì lợi ích của mình.
Ý thức chính trị (đặc biệt là hệ tư tưởng chính trị) có vai trò quan trọng
đối với sự phát triển của xã hội. Thông qua tổ chức nhà nước nó tác động trở
lại cơ sở kinh tế và có thể trong những giới hạn nhất định làm thay đổi cơ sở
kinh tế. Hệ tư tưởng chính trị giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của
xã hội. Nó thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác.
Sự tác động của ý thức chính trị nói chung và hệ tư tưởng chính trị tới
xã hội phụ thuộc vào tính chất tiến bộ hay phản tiến bộ của giai cấp mang hệ
tư tưởng đó. Khi giai cấp còn tiến bộ, cách mạng thì hệ tư tưởng chính trị của
nó tác động tích cực đến sự phát triển của xã hội; nếu ngược lại thì hệ tư
tưởng chính trị đó tác động tiêu cực, kìm hãm phát triển xã hội.
Hệ tư tưởng Mác-Lênin là hệ tư tưởng triệt để cách mạng và thật sự khoa
học, đã dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến hành cuộc đấu
tranh xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn.
Tuy nhiên, không những giai cấp bị trị chịu ảnh hưởng tư tưởng của
giai cấp thống trị, mà trái lại giai cấp thống trị cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng
của giai cấp bị trị. Ở thời kỳ đấu tranh cách mạng phát triển mạnh, thường

14



thấy một số người trong giai cấp thống trị, nhất là những trí thức tiên tiến từ
bỏ giai cấp xuất thân của mình chuyển sang hàng ngũ giai cấp cách mạng và
chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp đó; đặc biệt một số người còn trở thành
nhà tư tưởng của giai cấp cách mạng.
Trong xã hội có giai cấp, mỗi cá nhân đều thuộc một tổ chức nhất định
và bị ý thức chính trị cộng đồng (xã hội, giai cấp, tầng lớp…) chi phối; mặt
khác, mỗi cá nhân, ngoài những điều kiện sinh hoạt vật chất chung của xã hội,
giai cấp còn có điều kiện, hoàn cảnh sinh sống cụ thể, riêng, do đó trong ý
thức chính trị cá nhân có ý thức chính trị cộng đồng.
Ý thức chính trị cộng đồng là một ý thức chính trị nảy sinh từ nhu cầu,
lợi ích chính trị của cả cộng đồng xã hội hoặc của một nhóm xã hội, một giai
cấp, một tầng lớp nào đó trong cộng đồng; đây là những giá trị chuẩn mực
chung về nhu cầu, lợi ích chính trị được cả cộng đồng chấp nhận và là động
lực thúc đẩy các hoạt động chính trị tự giác của cả cộng đồng. Ý thức chính
trị cá nhân là những nhận thức, thái độ của từng cá nhân về những vấn đề
chính trị cụ thể vì thế nó rất phong phú và đa dạng. Như vậy, nếu ý thức chính
trị cộng đồng là tư tưởng, quan điểm, lý luận và tâm lý chính trị của số đông,
thì trái lại, ý thức chính trị cá nhân lại là nhận thức, hiểu biết, quan niệm và
tình cảm thái độ chính trị của từng cá nhân cụ thể.
Ý thức chính trị cộng đồng tồn tại và phát triển thông qua ý thức chính
trị cá nhân nhưng tất nhiên ý thức chính trị cộng đồng không thể là số cộng
đơn thuần các ý thức chính trị cá nhân, nó được sản sinh ra từ những cái
chung trong đời sống chính trị của các cá nhân trong cộng đồng, nó là chất
mới được kết tinh từ những tinh hoa của các ý thức chính trị cá nhân; ý thức
chính trị cộng đồng làm cơ sở cho sự hình thành và phát triển ý thức chính trị
cá nhân. Ngược lại, vì mỗi con người đều sống trong một xã hội nhất định,
của một giai cấp cụ thể, nên ý thức chính trị cá nhân của con người đều mang
những nội dung nào đó của ý thức chính trị cộng đồng; tuy nhiên ý thức chính

15



trị cá nhân thể hiện ý thức chính trị cộng đồng với mức độ khác nhau, không
phải ý thức chính trị cá nhân nào cũng bao quát hoàn toàn đầy đủ ý thức chính
trị cộng đồng, nhưng lại có thể góp phần làm cho ý thức chính trị cộng đồng
phát triển phong phú và sâu sắc hơn.
Như vậy, ý thức chính trị cộng đồng và ý thức chính trị cá nhân tồn tại
trong sự liên hệ biện chứng, tác động qua lại và chuyển hoá lẫn nhau. Do đó,
để nghiên cứu ý thức chính trị của một cộng đồng xã hội nhất định (giai cấp,
tầng lớp v.v.), của một tập thể hoặc một cá nhân nào đó trong một xã hội cụ
thể, cần phải xem xét nhiều góc độ, khía cạnh, phải tập trung vào những quan
hệ lớn phản ánh đời sống kinh tế, đời sống chính trị.
Với tính cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng chính trị. Ý thức
chính trị chính là sự phản ánh thực tiễn hay đời sống chính trị của một xã hội
nhất định. Là một hình thái thuộc phạm trù ý thức xã hội - ý thức chính trị bị
chi phối bởi các yếu tố, các quy luật ý thức xã hội nói chung, đặc biệt là khi xét
trong mối quan hệ với tồn tại xã hội. Tồn tại xã hội nào thì ý thức xã hội ấy,
điều đó cũng có nghĩa là đời sống chính trị nào thì ý thức chính trị ấy. Chính
tồn tại xã hội, đời sống chính trị bao gồm các sự kiện, tình huống và các quá
trình chính trị là cái quyết định ý thức chính trị chứ không phải ngược lại.
Nhưng, cũng giống như các hình thái ý thức xã hội khác, ý thức chính
trị không hoàn toàn phản ánh thụ động đời sống chính trị, mà trong quá trình
phát triển của mình, ý thức chính trị cũng có tính độc lập tương đối của nó:
tính thường lạc hậu hơn so với đời sống chính trị; tính có thể vượt trước so
với đời sống chính trị; tính kế thừa trong sự phát triển; có sự tác động qua lại
với những hình thái ý thức xã hội khác như ý thức pháp quyền, ý thức đạo
đức, ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo v.v.; có sự tác động trở lại một cách
mạnh mẽ đối với đời sống chính trị.
Sự lạc hậu của ý thức chính trị bị tác động bởi quan hệ lợi ích. Trong
đời sống chính trị, ý thức chính trị thường gắn với lợi ích của các giai cấp, các


16


nhóm, các tầng lớp xã hội nhất định. Vì vậy, những tư tưởng chính trị cũ, lạc
hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ giữ lại và truyền bá.
Các học thuyết, các tư tưởng chính trị khoa học do phản ánh đúng được
những mối liên hệ tất yếu, bản chất của đời sống chính trị, nó có thể vượt
trước đời sống chính trị dự báo được tương lai, dự kiến được khả năng sẽ tới
và có tác dụng chỉ đạo hoạt động thực tiễn chính trị của con người.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, ý thức chính trị không chỉ phản
ánh đời sống chính trị hiện thời mà còn lưu giữ, kết hợp, phát triển các yếu tố
hợp lý từ ý thức chính trị trước đó mà cả các yếu tố tiên tiến của ý thức chính
trị bên ngoài mảnh đất hiện thực mà nó nảy sinh.
Ý thức chính trị là một hình thái ý thức xã hội nên nó có sự tác động
qua lại với các hình thái ý thức xã hội khác như: ý thức pháp quyền, ý thức
đạo đức, ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo v.v. Nhưng trong tính tổng thể của ý
thức xã hội, thì ý thức chính trị có tầm quan trọng đặc biệt, nó quyết định đến
xu hướng và bản chất của các hình thái ý thức xã hội khác vì nó là một hình
thái gần cơ sở kinh tế nhất.
Trong quá trình phát triển của mình, bằng cách này hoặc cách khác, ý
thức chính trị tác động trở lại một cách mạnh mẽ đối với đời sống chính trị.
Bắt nguồn từ thực tiễn chính trị, đời sống chính trị, đến lượt mình, ý thức
chính trị lại thâu tóm, chi phối các tình huống và quá trình chính trị.
Ý thức chính trị (đặc biệt là hệ tư tưởng chính trị) có vai trò rất quan
trọng đối với sự phát triển của xã hội. Học thuyết chính trị phản ánh đúng
hoặc không đúng hiện thực khách quan sẽ có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm
lịch sử.
Hệ tư tưởng chính trị phản ánh tập trung nhất cơ sở kinh tế, bảo vệ chế
độ kinh tế đang tồn tại hoặc hướng dẫn cuộc đấu tranh để xoá bỏ chế độ kinh

tế đó. Hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị giữ vai trò chủ đạo trong đời

17


sống tinh thần của xã hội. Nó quy định phương hướng chính trị của các hoạt
động tinh thần.
Tác động tích cực hoặc tiêu cực của hệ tư tưởng chính trị (cũng như ý
thức chính trị nói chung) phụ thuộc vào tính chất tiến bộ, cách mạng hoặc
phản tiến bộ, cách mạng của giai cấp mang hệ tư tưởng đó. Khi giai cấp còn
tiến bộ, cách mạng - tiêu biểu cho xu thế phát triển của lịch sử thì hệ tư tưởng
chính trị của nó có tác dụng tích cực đến sự phát triển xã hội. Khi giai cấp đó
trở thành lạc hậu, phản động, thì hệ tư tưởng chính trị của nó tác động tiêu
cực, kìm hãm sự phát triển xã hội.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, giai cấp
cách mạng nhất trong lịch sử, là ngọn cờ giải phóng của quần chúng bị áp
bức, bóc lột. Nó đối lập với hệ tư tưởng tư sản - hệ tư tưởng bảo vệ lợi ích của
giai cấp tư sản, bảo vệ chế độ người bóc lột người. Cuộc đấu tranh giai cấp
giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản hàng nghìn thế kỷ nay diễn ra gay gắt
trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực hệ tư tưởng. Trong điều kiện xã
hội ngày nay, cuộc đấu tranh giai cấp trên vẫn đang tiếp tục diễn ra. Thực tiễn
cách mạng hiện nay đòi hỏi phải nâng cao vai trò hệ tư tưởng xã hội xã hội
chủ nghĩa nói chung, hệ tư tưởng chính trị xã hội chủ nghĩa nói riêng. Muốn
vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin, lý luận khoa học của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa,
cần được phát triển theo tinh thần đổi mới toàn diện của quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Ý thức chính trị của sinh viên các trường Cao đẳng nghề ở Nam Định
là ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa của thanh niên thế hệ mới. Ý thức chính
trị là hạt nhân đời sống chính trị tư tưởng của sinh viên, nó phản ánh chất
lượng và giá trị của sinh viên về mặt giác ngộ lý tưởng của giai cấp công

nhân, giác ngộ dân tộc, nó được kế thừa và phát triển những giá trị văn hóa
qúy báu của dân tộc. Nó được vận động và phát triển trong sự quy định của
kinh tế, chính trị của đất nước, của việc giáo dục và đào tạo tại các trường

18


Cao đẳng nghề trong những giai đoạn nhất định. Nội dung và phương pháp
đào tạo trong nhà trường và các điều kiện khác là nhân tố khách quan giữ vai
trò chủ đạo trong việc hình thành, phát triển ý thức chính trị của sinh viên,
còn sinh viên là khách thể của quá trình đào tạo, sự tác động đó thực sự có ý
nghĩa thông qua hoạt động tích cực, chủ động của sinh viên.
1.1.2. Giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên hiện nay
Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi
gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người dạy và
người học theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách
người học bằng những tác động có ý thức từ bên ngoài, góp phần đáp ứng các
nhu cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã hội đương đại.
Theo từ "Giáo dục" tiếng Anh - "Education" - vốn có gốc từ tiếng La
tinh "Educare" có nghĩa là "làm bộc lộ ra". Có thể hiểu "giáo dục là quá trình,
cách thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của người được giáo dục".
Giáo dục bao gồm việc dạy và học, và đôi khi nó cũng mang ý nghĩa
như là quá trình truyền thụ, phổ biến tri thức, truyền thụ sự suy luận đúng đắn,
truyền thụ sự hiểu biết. Giáo dục là nền tảng cho việc truyền thụ, phổ biến văn
hóa từ thế hệ này đến thế hệ khác. Giáo dục là phương tiện để đánh thức và
nhận ra khả năng, năng lực tiềm ẩn của chính mỗi cá nhân, đánh thức trí tuệ
của mỗi người. Nó ứng dụng phương pháp giáo dục, một phương pháp nghiên
cứu mối quan hệ giữa dạy và học để đưa đến những rèn luyện về tinh thần, và
làm chủ được các mặt như: ngôn ngữ, tâm lý, tình cảm, tâm thần, cách ứng xử
trong xã hội.

Sự giáo dục của mỗi cá người bắt đầu từ khi sinh ra và tiếp tục trong
suốt cuộc đời. (Một vài người tin rằng, sự giáo dục thậm chí còn bắt đầu trước
khi sinh ra, theo đó một số cha mẹ mở nhạc, hoặc đọc cho những đứa trẻ
trong bụng mẹ với hy vọng nó sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của đứa trẻ sau
này). Với một số người quá trình đấu tranh giành giật sự sống, giành giật sự

19


thắng lợi trong cuộc sống cung cấp kiến thức nhiều hơn cả sự truyền thụ kiến
thức ở các trường học. Các cá nhân trong gia đình có ảnh hưởng lớn đến hiệu
quả giáo dục, thường có ảnh hưởng nhiều hơn, mặc dù việc dạy dỗ trong gia
đình có thể không mang tính chính thức, chỉ có chức năng giáo dục rất thông
thường.
Như vậy, giáo dục là một hiện tượng xã hội, là quá trình tác động có
mục đích, có kế hoạch, ảnh hưởng tự giác, chủ động đến con người đưa đến
sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức, nhân cách. Các phương tiện hợp
thành của nó là: giáo dục chính trị, tư tưởng; giáo dục đạo đức, giáo dục lao
động, giáo dục pháp luật, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục sinh thái…
Trong xã hội có giai cấp giáo dục mang tính giai cấp. Tính giai cấp của
giáo dục thể hiện rõ trong mục tiêu, nội dung, chương trình nhằm tạo ra lớp
người có những phẩm chất, năng lực cần thiết, phục vụ và bảo vệ lợi ích của
giai cấp lãnh đạo xã hội. Tính giai cấp được bộc lộ rất đa dạng trong nền giáo
dục của mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi chế độ chính trị khác nhau.
Đại hội IX của Đảng ta chỉ rõ: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây
dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [17, tr.83]. Giáo dục ý thức chính trị là
một bộ phận trong công tác tư tưởng của Đảng vì vậy vấn đề cốt yếu nhất
trong giáo dục ý thức chính trị ở nước ta hiện nay, là giáo dục lý tưởng xã hội
chủ nghĩa, xây dựng con người Việt Nam mới có nhân cách cao đẹp, sống

nhân văn, nhân ái, có ý thức xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ
chính trị, đấu tranh cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
cả dân tộc.
Thế hệ thanh niên là thế hệ kế tục sự nghiệp cách mạng, là lực lượng
chủ yếu xây dựng xã hội chủ nghĩa. Việc giáo dục, bồi dưỡng và rèn luyện
chính trị cho họ có liên quan đến vấn đề sống còn của dân tộc, đến sự thành
bại của cách mạng, đến sự giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Sinh viên

20


×