Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

PHÁT TRIỂN NĂNG lực TRÌNH bày CHO học SINH GIỎI TRONG dạy học LỊCH sử ở TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG CHUYÊN lí LUẬN và THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.07 KB, 55 trang )

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TRÌNH BÀY CHO
HỌC SINH GIỎI TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
CHUYÊN. LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


- Cơ sở lí luận
- Quan niệm về trình bày và năng lực trình bày trong
môn Lịch sử
Theo từ điển Tiếng Việt: “Trình bày là một cuộc giao
tiếp có tính thuyết phục dựa trên các mục đích nhằm làm thay
đổi thái độ của người nghe.” [42, tr.2500].
Trong dạy học bộ môn Lịch sử, trình bày là con đường
để học sinh thể hiện được vốn kiến thức đã học, đã nắm bắt
cũng như phát triển những kiến thức đó không chỉ dừng lại ở
mức độ thông hiểu mà còn ở mức độ vận dụng và vận dụng
cao.
Về khái niệm năng lực, đây là một khái niệm lớn, mới và
khá phức tạp, đã có nhiều cách định nghĩa khác nhau vì không
có một khái niệm nào hoàn chỉnh được tất cả mọi người thừa
nhận.
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (2001),
năng lực được định nghĩa theo hai cách hiểu khác nhau:
“Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn
có để thực hiện một hoạt động nào đó”[55, tr.660].Hoặc


“Năng lực là phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người
khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất
lượng cao” [55, tr.661].
Theo tác giả Thái Duy Tuyên trong cuốn “Những vấn đề


cơ bản củagiáo dục học hiện đại” đã định nghĩa: “Năng lực là
những đặc điểm tâm lí của nhân cách, là điều kiện chủ quan để
thực

hiện



kết

quả

một

dạng

hoạt

động

nhất

định”[49,tr.68].Như vậy, năng lực có quan hệ với kiến thức, kĩ
năng, kĩ xảo. Năng lực thể hiện ở tốc độ, chiều sâu, tính bền
vững với phạm vi ảnh hưởng của hoạt động ở tính sáng tạo, tính
độc lập của phương pháp hoạt động.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Uẩn, “Năng lực là
tổ hợp các thuộc tính độc lập của cá nhân phù hợp với những
yêu cầu của một hoạt động nhất định đảm bảo cho hoạt động
đó hoạt động có kết quả” [54, tr.178].

Trong tài liệu tâp huấn “Một số vấn đề đổi mới về
chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông” của Bộ
Giáo dục và Đào tạo (tháng 5 - 2015), khẳng định: “Năng lực
là tổ hợp các kiến thức, kĩ năng và thái độ mà một người với
những phẩm chất (giá trị) riêng của mình, cần vận dụng để


thực hiện một nhiệm vụ trong một bối cảnh nhất định” [12,
tr.45].
Như vậy, dù có những định nghĩa khác nhau, cách diễn
đạt khác nhau nhưng nội hàm của khái niệm năng lực chính là
khả năng làm việc tốt nhờ có phẩm chất đạo đức và trình độ
chuyên môn. Các định nghĩa trên đều phản ánh những năng
lực bao gồm kiến thức, kĩ năng, thái độ và phẩm chất.
Nói đến năng lực là nói đến khả năng có thể thực hiện
được và thể hiện tốt một hoạt động nào đó của chủ thể. Để
hoạt động có kết quả, chủ thể phải có những hiểu biết về kiến
thức, về phương pháp hoạt động và có sự nỗ lực, tập trung để
hoạt động kết thúc nhanh, có hiệu quả.
Đồng thời, cơ sở để hình thành và phát triển năng lực là
hoạt động, kiến thức và trạng thái tâm lí phù hợp như: hứng
thú, ý chí… Năng lực được biểu hiện ở các mức độ khác nhau
thông qua chất lượng của hoạt động và sự nhạy bén, làm chủ
tình huống để thực hiện tốt hoạt động ở một lĩnh vực nào đó
trong các tình huống khác nhau.
Năng lực được chia thành hai loại là năng lực chung và
năng lực riêng biệt. Hai loại năng lực này luôn luôn bổ sung,


hỗ trợ nhau. Năng lực chung là năng lực cần thiết để con

người có thể hoàn thành những hoạt động của mình một cách
hiệu quả dựa vào quan sát, tư duy, tưởng tượng… Còn năng
lực riêng biệt hay còn gọi năng lực chuyên môn là sự thể hiện
một cách độc đáo các phẩm chất riêng biệt của mỗi cá nhân,
nó mang tính chuyên môn nhằm đáp ứng yêu cầu hoạt động
của con người đạt kết quả cao như năng lực toán học, năng
lực âm nhạc, năng lực thể dục thể thao…
Cùng với năng lực thì tri thức, kĩ năng, kĩ xảo là rất cần
thiết cho việc thực hiện một hoạt động nào đó đạt kết quả.
Những tri thức, kĩ năng và kĩ xảo không đồng nhất với năng
lực mà có sự thống nhất biện chứng, có mối quan hệ mật thiết
với năng lực. Ngược lại, năng lực giúp cho việc tiếp thu tri
thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo tương ứng với năng lực đó
được vận dụng vào thực hiện dễ dàng hơn.
Một trong những vấn đề cơ bản của chiến lược giáo dục
nước ta hiện nay là phát triển và bồi dưỡng năng lực cho học
sinh nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng
nhân tài. Năng lực của mỗi người chịu ảnh hưởng của đặc
điểm tâm lý cá nhân, các yếu tố bẩm sinh di truyền, điều kiện
của môi trường sống… Nhưng điều chủ yếu là năng lực được


hình thành, phát triển, thể hiện trong hoạt động của con người
dựa vào quá trình dạy học, giáo dục và tự rèn luyện. Vì vậy,
mỗi cá nhân khác nhau thì năng lực cũng khác nhau. Chúng ta
nên tiếp cận vấn đề phát triển năng lực theo hướng tiếp cận
nhân cách của mỗi người học vì việc hình thành và phát triển
nhân cách là phương tiện có hiệu quả nhất để phát triển năng
lực.
Đối với môn Lịch sử, để dạy và học hiệu quả, người giáo

viên cần nắm được một số những năng lực chung như sau:


Bảng biểu hiện các năng lực chung của học sinh trong dạy
học môn Lịch sử
Năng

lực Biểu hiện trong môn Lịch sử

chung
Nhóm NL chủ động, tích cực tìm kiếm tri thức mới
NL tự học

- Khả năng khai thác lược đồ, bản đồ, tranh
ảnh lịch sử, phim tư liệu để tự tìm hiểu nội
dung lịch sử thông qua kênh hình.
- Đọc và phát hiện kiến thức cơ bản trong
SGK Lịch sử.
- Khả năng tự tìm hiểu kiến thức lịch sử
thông qua tài liệu tham khảo.
- Kết hợp đọc SGK với nghe giảng và tự ghi
chép.
- Khả năng trả lời câu hỏi và tự đặt câu hỏi.
- Khả năng tự hệ thống kiến thức ôn tập, củng
cố kiến thức.


NL giải quyết - Khả năng nhận thức và giải quyết một vấn
vấn đề


đề lịch sử.
- Khả năng vận dụng kiến thức lịch sử để làm
bài tập lịch sử.
- Lựa chọn được cách giải quyết vấn đề lịch
sử, vấn đề tình huống thực tiễn một cách tối
ưu.
- Trình bày được diễn biến cuộc kháng chiến,
trận đánh, chiến dịch, cuộc chiến tranh trên
lược đồ, sơ đồ, bản đồ lịch sử.
- Vận dụng kiến thức lịch sử để giải quyết
những vấn đề thực tiễn của cuộc sống, hay
các vấn đề thời sự đang diễn ra trong nước và
thế giới.
- Xác định và giải quyết được mối liên hệ,
ảnh hưởng, tác động giữa các sự kiện lịch sử
với nhau.

NL sáng tạo - Tư duy tái tạo (Kĩ năng ghi nhớ sự kiện,
trong học tập


tưởng tượng, kĩ năng tái tạo…)
- Tư duy sáng tạo (Kĩ năng so sánh, kĩ năng
phân tích, kĩ năng phản biện, kĩ năng khái
quát hóa…)
- Trả lời câu hỏi, bài tập lịch sử khái quát.
- Nhận xét, rút ra bài học kinh nghiệm từ
những sự kiện, biểu tượng, nhân vật, vấn đề
lịch sử.
Nhóm NL về vận dụng tri thức lịch sử trong ứng xử xã hội

và hợp tác cùng học tập
NL giao tiếp

- Khả năng sử dụng được kiến thức lịch sử đã
học để giải thích một hiện tượng xã hội có
liên quan.
- Khả năng tái hiện lịch sử nhằm phục vụ cho
một vấn đề hoặc sự kiện liên quan.
- Khả năng sử dụng vốn kiến thức và thái độ
biểu cảm lịch sử để thể hiện quan điểm, chính
kiến về một sự việc liên quan.


- Khả năng vận dụng tổng hợp kiến thức lich
sử và các kiến thức xã hội khác để giải quyết
những vấn đề cụ thể.
NL hợp tác - Khả năng làm việc theo nhóm, tập thể để
theo nhóm

giải quyết một nhiệm vụ học tập.
- Khả năng chia sẻ thông tin lịch sử.

Nhóm NL công cụ
NL sử dụng - Khai thác Internet (thông tin tư liệu, tranh
CNTT
truyền

và ảnh, bản đồ, phim tư liệu…) để tìm kiếm nội
thông dung những kiến thức lịch sử.


(ICT)

- Sử dụng phần mềm dạy học như sơ đồ tư
duy, Powerpoint để trình bày nội dung lịch
sử.

NL sử dụng - Khả năng trình bày, lập luận, thể hiện chính
ngôn ngữ

kiến của mình về một nội dung kiến thức lịch sử
bằng ngôn ngữ viết.
- Khả năng thuyết trình bằng lời nội dung kiến
thức lịch sử.


NL tính toán

Sử dụng thống kê toán học trong học tập bộ
môn Lịch sử như vẽ sơ đồ, biểu đồ, đồ thị
lịch sử.
[11, tr.47, 48]

Các năng lực riêng biệt của học sinh trong học tập
môn Lịch sửtại trường THPT
ST

NL đặc

T


thù

1

Thu

Biểu hiện

thập - Sưu tầm tư liệu lịch sử từ các nguồn

và xử lí khác nhau như sách báo, tranh ảnh, tư
thông

tin liệu hiện vật, trên mạng Internet…

về các sự
kiện, hiện

- Biết chọn lọc thông tin, tư liệu lịch sử
chân thật, có giá trị.

tượng lịch
- Phân biệt được đâu là tự liệu thật, tư

sử

liệu gốc, biết những thông tin không chân
thực về các sự kiện, hiện tượng lịch sử.
2


Xác

định - Hiểu được bản chất của các sự kiện,

mối

liên


ST

NL đặc

T

thù
hệ

Biểu hiện

logic hiện tượng lịch sử.

của các sự
kiện, hiện

- Tìm ra mối liên hệ tất yếu của các sự
kiện, hiện tượng lịch sử.

tượng lịch
sử


- Hiểu được Lịch sử là hệ thống hoàn
chỉnh, liên tục, không thể chia cắt, một sự
kiện, hiện tượng lịch sử này mất đi sẽ là
nguyên nhân nảy sinh sự kiện, hiện tượng
khác, một sự kiện lịch sử mới xuất hiện là
kết quả của những sự kiện trước đó.

3

Tái

hiện - Có trí tưởng tượng phong phú, khôi

quá

khứ phục các sự kiện, hiện tượng lịch sử với

lịch sử

đầy đủ tính cụ thể, tính hình ảnh, tính
muôn hình muôn vẻ của nó.
- Khôi phục được bức tranh lịch sử với các
yếu tố chính về thời gian, địa điểm, nhân
vật, diễn biến, kết quả.


ST

NL đặc


T

thù

Biểu hiện

- Phân biệt được bối cảnh lịch sử, diễn
biến chính, kết quả của các sự kiện hiện
tượng lịch sử.
4

Đánh giá, - Giải thích các sự kiện, hiện tượng lịch sử
giải thích phải đặt trong bối cảnh điều kiện lịch sử nó
các

sự nảy sinh và phát triển.

kiện, hiện
tượng theo
quan điểm

- Xem xét những tác động của những
điều kiện đối với các sự kiện, hiện tượng
lịch sử.

lịch sử
- Đánh giá được các sự kiện, hiện tượng
lịch sử vừa phải đảm bảo tính khách
quan, trung thực của lịch sử, vừa phải

đảm bảo tính tư tưởng, giá trị dân tộc, giá
trị nhân văn.
5

Vận dụng - Hiểu được ý nghĩa, tác động của sự
kiến thức kiện, hiện tượng hay quá trình lịch sử.
để

hiểu

- Rút ra được những bài học, quy luật từ


ST

NL đặc

T

thù
biết,

Biểu hiện

giải các sự kiện, hiện tượng lịch sử (cả trong

quyết các bài học thành công lẫn thất bại).
vấn

đề


đang diễn
ra

- So sánh được các sự kiện, hiện tượng
của lịch sử với các vấn đề đang xảy ra
hiện nay, từ đó rút ra những điểm tương
đồng, khác biệt trong hành động thực
tiễn.
- Biết cập nhật, nhạy bén với những vấn
đề mang tính thời sự.

6

Trình bày - Hiểu rõ, phân biệt được các thuật ngữ, khái
sự

kiện, niệm lịch sử.

hiện tượng
lịch sử

- Sắp xếp các vấn đề của lịch sử một cách
logic chặt chẽ từ nguyên nhân, diễn biến,
kết quả, ý nghĩa.
- Thuyết trình, trình bày, kể lại được lịch sử rõ
ràng, dễ hiểu.


ST


NL đặc

T

thù

Biểu hiện

- Viết được các vấn đề lịch sử bằng văn
phong trong sáng, giản dị với ngôn ngữ
của bản thân HS.
[48, tr.27]
Từ năng lực chung và các năng lực riêng biệt của học
sinh trong học tập môn Lịch sử tại trường THPT, chúng ta có
thể thấy rằng năng lực trình bày của bộ môn Lịch sử nằm
trong nhóm NL công cụ và là một trong những NL chuyên
biệt cần phát triển cho học sinh giỏi nói riêng và cho tất cả
học sinh nói chung trong quá trình dạy học môn Lịch sử tại
trường THPT.
Từ những quan điểm nêu trên, theo chúng tôi, năng lực
trình bày của học sinh trong quá trình học tập lịch sử là
khả năng diễn đạt (bằng ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết, ngôn
ngữ hình thể) những hiểu biết về các sự kiện, hiện tượng,
khái niệm, quy luật, bài học lịch sử một cách rõ ràng, dễ
hiểu, logic chặt chẽ. Đối với năng lực này, học sinh không


chỉ hiểu đơn vị nội dung kiến thức mà hơn thế còn phải thể
hiện nó một cách logic, dễ hiểu bằng văn phong trong sáng

của mình.
- Các dạng trình bày trong môn Lịch sử ở trường phổ
thông
- Trình bày dưới dạng ngôn ngữ nói (trình bày miệng)
Trình bày dưới dạng ngôn ngữ nói hay còn gọi là trình
bày miệng là một dạng trình bày phổ biến nhất và thường gặp
nhất trong cuộc sống nói chung và trong học tập nói riêng.
Trình bày miệng là phương thức đơn giản nhất để truyền đạt
được nội dung kiến thức của giáo viên đến với học sinh và
cũng là con đường nhanh nhất, thuận lợi nhất để học sinh
trình bày quan điểm, thể hiện được kiến thức. Đồng thời
thông qua trình bày miệng, giáo viên không chỉ nắm được khả
năng tiếp nhận kiến thức của học sinh mà còn hiểu được khả
năng tư duy logic, cách sử dụng từ ngữ và khả năng biểu đạt
của học sinh.
Tuy nhiên, trong trình bày miệng cũng xuất hiện nhiều
dạng trình bày khác nhau, cụ thể:


Thứ nhất, tường thuật
Đây là một cách trình bày quan trọng nhằm tái hiện ở
học sinh những biến cố lịch sử quan trọng. Tường thuật khi
trình bày miệng hay tường thuật khi trình bày viết cũng có tác
dụng khơi dậy óc tưởng tượng tái tạo cho học sinh trong quá
tình học tập lịch sử.
Thứ hai, miêu tả
Đây là trình bày cụ thể những đặc trưng, đặc điểm của
một sự vật, một sự kiện lịch sử nào đó để nêu lên những nét
đặc trưng, bản chất chủ yếu, cấu tạo bên cũng như hình dáng
bên ngoài của chúng. Khác với tường thuật nêu trên, miêu tả

không có chủ đề cụ thể, rõ ràng mà chỉ có đối tượng cụ thể
cần phải trình bày được xác định từ trước. Trong miêu tả cũng
có hai loại chính là miêu tả toàn cảnh và miêu tả có phân tích.
Thứ ba, nêu đặc điểm về sự kiện, nhân vật lịch sử
Đây được coi là một dạng đặc biệt của miêu tả, thông
qua việc nêu đặc điểm về sự kiện, nhân vật lịch sử mà làm
sáng tỏ những bản chất, những đặc trưng trong mối liện hệ
bên trong của các hiện tượng lịch sử đó. Việc nêu đặc điểm về


sự kiện, nhân vật lịch sử không nhằm mục đích ghi nhớ kiến
thức mà nhằm mục đích khiến học sinh biết khái quát vấn đề
với những đặc trưng nổi bật nhất.
Thứ tư, giải thích
Đây là cách thức trình bày khiến học sinh có thể hiểu sâu
hơn bản chất, ý nghĩa của những hiện tượng phức tạp, nắm
vững những khái niệm, các quy luật, góp phần vào phát triển
tư duy lí luận của học sinh.
- Trình bày dưới dạng ngôn ngữ viết
Trình bày dưới dạng ngôn ngữ viết là cách trình bày phổ
biến và thường thấy trong quá trình học tập môn Lịch sử,
được tiến hành thông qua các bài tập trên lớp cũng như về
nhà, các bài kiểm tra định kỳ.
Cũng giống như trình bày bằng ngôn ngữ nói, trình bày
bằng ngôn ngữ viết cũng có nhiều cách trình bày khác nhau
như tường thuật, miêu tả, nêu đặc điểm… Tuy nhiên, trình
bày dưới dạng ngôn ngữ viết không chỉ dừng lại ở việc biểu
đạt suy nghĩ của người viết thông qua câu chữ mà còn được
thể hiện thông qua hình thức, tức là trình bày một văn bản



của người viết sao cho rõ ràng, mạch lạc và có sự khoa học.
Bên cạnh đó, việc trình bày dưới dạng ngôn ngữ viết được áp
dụng trong dạy học môn Lịch sử còn được thể hiện thông qua
việc lập bảng biểu, sơ đồ để ghi nhớ sự kiện, niên đại…
- Trình bày dưới dạng ngôn ngữ hình thể (biểu cảm)
Việc trình bày dưới dạng ngôn ngữ hình thể trong môn
Lịch sử tại trường THPT không quá phổ biến tuy nhiên đây
vẫn là một kiểu dạng trong trình bày mang nét đặc trưng riêng
biệt.
Trong quá trình trình bày dưới dạng ngôn ngữ hình thể một dạng trình bày phi truyền thống, người trình bày sẽ thể
hiện suy nghĩ, cảm xúc của mình thông qua cử chỉ, điệu bộ và
hệ thống những sắc thái biểu thị cảm xúc trên khuôn mặt và
những dấu hiệu trên cơ thể. Đây là những hệ thống diễn đạt
rất phức tạp và mang tính chất tương đối.
- Cấu trúc năng lực trình bày lịch sử
- Về kiến thức: kiến thức là nền tảng, không có kiến thức
sẽ không có năng lực. Năng lực hình thành trên nền tảng kiến
thức. Kiến thức là những hiểu biết thu nhận từ sách vở, học


hỏi, kinh nghiệm từ cuộc sống. Để phát triển năng lực trình
bày lịch sử, về mặt kiến thức, học sinh phải nắm bắt được
những tri thức, kiến thức lịch sử cơ bản trong các bài học lịch
sử: nội dung, diễn biến, kết quả, ý nghĩa, tính chất của sự kiện
lịch sử,…
- Về kĩ năng: là sự vận dụng bước đầu những kiến thức
thu lượm được để thực hành một kĩ năng nào đó, bước đầu
vận dụng kiến thức vào một hoạt động nào đó của cuộc sống.
- Về kĩ xảo: là những kĩ năng được lặp đi lặp lại nhiều

lần đến mức thuần thục, cho phép con người không cần tập
trung nhiều ý thức vào công việc mình đang làm.
- Về phẩm chất: là thái độ, tính cách, tư tưởng, đạo đức
tương đối ổn định, cho phép thực hiện các kĩ năng vận dụng
các kiến thức trong hành động.
Giữa năng lực, kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, phẩm chất có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Kĩ năng, kĩ xảo, phẩm chất là
điều kiện cần để hình thành năng lực, tuy nhiên không đồng
nhất với năng lực. Ngược lại, năng lực làm cho quá trình lĩnh
hội kiến thức, kĩ xảo, phẩm chất được nhanh chóng và thuận
lợi hơn. Có năng lực tức là có kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo trong


lĩnh vực đó. Nhưng có kĩ năng, kĩ xảo không có nghĩa là có
năng lực.
- Đặc điểm kiến thức lịch sử ở trường phổ thông
- Quan niệm về kiến thức lịch sửở trường phổ thông
Kiến thức lịch sử ở trường phổ thông là những hiểu biết
về lịch sử xã hội loài người và của dân tộc từ trước đến nay
được khoa học lịch sử xác nhận và ghi chép trong sách giáo
khoa mới nhất. Đó là những kiến thức đã được lựa chọn phù
hợp với mục tiêu đào tạo, khả năng nhận thức của học sinh,
mang tính trung thực, khoa học, khách quan.
- Cách phân loại kiến thức lịch sử
Trong giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông người ta
thường phân loại kiến thức. Phân loại kiến thức lịch sử có
nhiều cách khác nhau, có những tiêu chí và căn cứ khác nhau.
Thông thường, chúng ta có cách phân loại như sau:
- Căn cứ vào chương trình sách giáo khoa, nên có kiến
thức lịch sử ở các lớp.

- Căn cứ vào địa điểm xảy ra sự kiện, từ đó có ba loại
kiến thức: kiến thức lịch sử thế giới, kiến thức lịch sử dân tộc,


kiến thức lịch sử địa phương.
- Căn cứ vào tầm vóc, ý nghĩa, vai trò của kiến thức
trong hệ thống kiến thức, từ đó có kiến thức cơ bản và kiến
thức không cơ bản. Kiến thức cơ bản là những kiến thức quan
trọng không thể thiếu mà nếu thiếu nó sẽ không khôi phục lại
được bức tranh của quá khứ. Kiến thức không cơ bản là
những kiến thức không quan trọng lắm mà thiếu nó học sinh
vẫn biết được lịch sử diễn ra như thế nào một cách căn bản.
- Căn cứ vào con đường nhận thức. Kiến thức lịch sử của
học sinh là đi từ đơn giản đến phức tạp, biết đến hiểu, vận
dụng; từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng, từ cách
phân loại này mà có kiến thức các loại sự kiện, biểu tượng,
khái niệm, quy luật và bài học lịch sử.
- Căn cứ vào tính chất mà chia kiến thức lịch sử thành
hai loại là phần sử và phần luận. Phần sử chính là cái lịch sử
đã xảy ra bao gồm các yếu tố cơ bản tạo ra lịch sử là thời
gian, địa điểm, nhân vật, diễn biến, kết quả. Phần luận là phần
đánh giá, giải thích, bình luận cái lịch sử đã xảy ra. Cách phân
loại này giúp giáo viên trong quá trình dạy học cần chú ý đến
mỗi loại kiến thức để có phương pháp dạy học phù hợp. Phần


sử chủ yếu là thầy và trò thừa nhận. Kiến thức về phần luận
cần đến sự tổ chức, hướng dẫn của người thầy để học sinh làm
việc nhằm phát huy tính thông minh, sáng tạo, sự phản biện,
suy luận.

- Căn cứ vào nội dung kiến thức lịch sử phản ánh mà từ
đó có các loại kiến thức lịch sử về kinh tế, chính trị, văn
hóa… Lịch sử của xã hội loài người diễn ra trên tất cả các mặt
của đời sống xã hội - đó là lịch sử toàn diện mà mỗi một lĩnh
vực đó là một loại kiến thức. Từ cách phân loại này mách bảo
giáo viên trong dạy học phải đảm bảo tính toàn diện, tính
chiều sâu của kiến thức.
Việc phân loại nói chung, phân loại kiến thức lịch sử nói
riêng chỉ có ý nghĩa tương đối. Mỗi cách phân loại đều có ưu
điểm và nhược điểm của nó. Không có cách phân loại nào là
tuyệt đối thay cho các cách phân loại khác.
- Đặc điểm của kiến thức lịch sử
+ Tính quá khứ: Lịch sử hình thành và phát triển theo
một quá trình xuyên suốt từ khi con người xuất hiện và cho
đến tận ngày. Những sự kiện diễn ra trong lịch sử mà chúng ta
nhắc đến đều là những sự kiện đã diễn ra trong quá khứ và


không thể xuất hiện trở lại, không thể lặp lại ở hiện tại nữa.
Đó chính là tính quá khứ của sử học. Đồng thời đây cũng là
điểm khác biệt giữa hiện tượng lịch sử và hiện tượng tự nhiên.
Nếu như hiện tượng tự nhiên mà chúng ta nhắc đến có thể
diễn ra trong quá khứ, có thể diễn ra trong hiện tại hay tương
lai thì hiện tượng lịch sử chỉ diễn ra một lần và không thể xuất
hiện trở lại trong hiện tại hay quá khứ. Chính vì thế, người ta
không thể trực tiếp quan sát lịch sử quá khứ mà chỉ có thể tìm
hiểu, tiếp cận chúng thông qua sách vở tài liệu ghi chép lại
những hiện tượng sự kiện đó, đồng thời bằng sự so sánh đối
chiếu với những sự kiện hiện tượng tương tự của các dân tộc
khác để phân tích, nhận xét và đưa ra kết luận về những vấn

đề lịch sử mà chúng ta đang nghiên cứu. Việc sử dụng những
tài liệu trên chỉ mang tính chất tham khảo chứ không thể thay
thế hay đồng nhất khi nói về vấn đề lịch sử hay hiện tượng
lịch sử mà chúng ta đang nghiên cứu. Đó là nét độc đáo
nhưng cũng chính là điểm khó khăn trong nghiên cứu và học
tập lịch sử. Đặc điểm tính quá khứ của kiến thức lịch sử là
động lực để thôi thúc những người nghiên cứu, đặc biệt là
giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học sẽ phát triển và
tăng cường khả năng tưởng tượng, hình dung, tái hiện sự kiện.


Vì vậy trong giảng dạy, GV phải chú ý cách sử dụng từ ngữ
của mình sao cho phù hợp với bối cảnh thời đại mà sự kiện
đang diễn ra. Không chỉ thế, đối với học sinh, khi diễn đạt hay
trình bày một câu trả lời nào đó dù là trình bày miệng hay
trình bày viết cũng phải quan tâm chú ý nhấn mạnh đến
những từ ngữ mang tính chất của từng thời kì đó. Ngôn ngữ
HS sử dụng phải rõ ràng, mạch lạc đồng thời phản ánh đúng
bản chất của sự kiện và bối cảnh thời đại mà sự kiện diễn ra.
+ Tính không lặp lại: Tính chất này được thể hiện ở cả
hai phương diện không gian và thời gian. Tri thức lịch sử
không lặp lại về cả hai mặt này. Mỗi sự kiện lịch sử đều xảy
ra trong một khoảng không gian và thời gian nhất định, và
những khoảng không gian, thời gian này đều có sự khác nhau.
Không có một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào xảy ra cùng
thời điểm, trong các thời kì khác nhau là hoàn toàn giống
nhau. Hơn thế, lịch sử loài người có sư thay đổi, phát triển,
biến hóa không ngừng trên tất cả các lĩnh vực khía cạnh của
đời sống. Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy, người giáo
viên phải chú ý nhấn mạnh đến tính cụ thể của không gian và

thời gian làm nảy sinh sự kiện, hiện tượng đó. Qua đó mới có
thể thấy được sự khác biệt giữa các sự kiện hay mối quan hệ


×