Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Bước đầu tìm hiểu cấu trúc vi mô của từ điển bách khoa công an nhân dân việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THỊ DỰ

BƢỚC ĐẦU TÌM HIỂU CẤU TRÚC VI MÔ CỦA TỪ ĐIỂN
BÁCH KHOA CÔNG AN NHÂN DÂN VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC

Hà Nội, 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THỊ DỰ

BƢỚC ĐẦU TÌM HIỂU CẤU TRÚC VI MÔ CỦA TỪ ĐIỂN
BÁCH KHOA CÔNG AN NHÂN DÂN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Quang Năng

Hà Nội, 2013


MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 5
1.
Lí do chọn đề tài........................................................................................................ 5
2.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 6
3.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 6
4.
Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 6
5.
Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn ............................................. 7
6.
Bố cục của luận văn .................................................................................................. 7
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................. 8
Chương 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT ............................................................................ 8
1.1. Một số khái niệm cơ bản về từ điển và từ điển học.......................................... 8
1.1.1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của từ điển và từ điển học .......................................................8
1.1.2. Chức năng và đặc điểm cơ bản của từ điển ...................................................................................10
1.1.3. Cách phân loại từ điển ............................................................................................................................14
1.2. Nhận thức chung về từ điển bách khoa............................................................ 17
1.2.1. Đặc điểm, chức năng của từ điển bách khoa ................................................................................17
1.2.2. Cách phân loại từ điển bách khoa .........................................................................................19
1.3. Cấu trúc của từ điển............................................................................................. 21
1.3.1. Cấu trúc của từ điển giải thích.............................................................................................................21
1.3.1.1. Cấu trúc vĩ mô của từ điển giải thích ................................... 21
1.3.1.2. Cấu trúc vi mô của từ điển giải thích ................................... 22
1.3.2. Cấu trúc của từ điển bách khoa ..........................................................................................................23
1.3.2.1. Cấu trúc vĩ mô của từ điển bách khoa .................................. 23
1.3.2.2. Cấu trúc vi mô của từ điển bách khoa .................................. 25
1.4. Các kiểu định nghĩa của từ điển ........................................................................ 28

1.4.1. Các kiểu định nghĩa trong từ điển giải thích ..................................................................................28
1.4.2. Các kiểu định nghĩa trong từ điển bách khoa ...............................................................................32
1.5. Nhận thức chung về Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam ....... 38
Tiểu kết ..........................................................................................................................................................................41
Chương 2: MỘT SỐ KIỂU ĐỊNH NGHĨA TRONG TỪ ĐIỂN BÁCH
KHOA CÔNG AN NHÂN DÂN VIỆT NAM ............................... 42


2.1. Dẫn nhập ................................................................................................................ 42
2.2. Một số kiểu định nghĩa trong Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam....... 42
2.2.1. Định nghĩa bằng phương pháp phân tích......................................................................................42
2.2.2. Định nghĩa bằng phương pháp dùng từ bao ................................................................................46
2.2.3. Định nghĩa bằng từ đồng nghĩa, từ có nghĩa tương đương....................................................52
2.2.4. Định nghĩa dựa vào từ trái nghĩa .......................................................................................................56
2.3. Một số vấn đề còn tồn tại trong các định nghĩa khái niệm của Từ điển bách
khoa Công an nhân dân Việt Nam ..................................................................... 58
Tiểu kết ..........................................................................................................................................................................65
Chương 3: NHỮNG NỘI DUNG ĐƢA VÀO LỜI GIẢI THÍCH TRONG
MỤC TỪ CỦA TỪ ĐIỂN BÁCH KHOA CÔNG AN NHÂN DÂN
VIỆT NAM ........................................................................................................... 68
3.1. Một số kiểu cấu trúc nội dung mục từ trong Từ điển bách khoa Công an
nhân dân Việt Nam ............................................................................................... 68
3.1.1. Mục từ thuật ngữ - khái niệm..............................................................................................................68
3.1.2. Mục từ tên riêng.........................................................................................................................................74
3.1.2.1 Mục từ về nhân vật ................................................................. 74
3.1.2.2 Mục từ về tổ chức ................................................................... 77
3.1.2.3 Mục từ về sự kiện, vụ án ......................................................... 81
3.1.2.4. Mục từ về văn kiện ................................................................. 82
3.2. Tính hệ thống trong Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam ......... 83
3.2.1. Tính hệ thống trong từ điển bách khoa............................................................................................83

3.2.2. Tính hệ thống trong Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam.......84
Tiểu kết ..........................................................................................................................................................................89
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 97


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ điển là loại sách có chức năng xã hội rộng lớn. Nó cung cấp vốn từ ngữ và
cách sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, giúp cho việc học tiếng mẹ đẻ và học
ngoại ngữ, mở rộng vốn hiểu biết của con người về sự vật, khái niệm trong thế
giới tự nhiên và xã hội. Từ điển là một sản phẩm khoa học có tác dụng đặc biệt
đối với sự phát triển văn hoá, giáo dục, nâng cao dân trí và mở rộng giao lưu
giữa các cộng đồng ngôn ngữ khác nhau.
Trong thời đại ngày nay, số lượng phát hành, số lượng chủng loại và chất lượng của
từ điển nói chung, từ điển bách khoa chuyên ngành nói riêng là một tiêu chí quan
trọng để đánh giá trình độ phát triển văn hoá, giáo dục, khoa học kĩ thuật của một
quốc gia. Trong tình hình đó, việc nghiên cứu từ điển học, cả lí luận và thực tiễn có
tác dụng lớn trong việc nâng cao chất lượng biên soạn từ điển.
Việc biên soạn và xuất bản từ điển ở nước ta đã có nhiều dấu hiệu đổi mới. Số
lượng và chủng loại từ điển tăng trưởng đáng kể trong vài ba năm gần đây. Một
số quyển từ điển đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng, với sự
phong phú hơn cả về cấu trúc vĩ mô và cấu trúc vi mô. Tuy nhiên, bên cạnh đó,
còn có nhiều quyển từ điển chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu, thậm chí có những
sai sót lớn về nội dung cũng như in ấn.
Trong bối cảnh về sự ra đời và phát triển của từ điển học trên thế giới nói chung,
công tác nghiên cứu lí luận từ điển học và biên soạn từ điển ở nước ta cũng được
hình thành trong thời gian có muộn. Gần đây, tuy đã được quan tâm chú ý và có
một số thành tựu đáng kể, nhưng nhìn chung, từ điển học Việt Nam vẫn chưa phát
triển kịp với yêu cầu của thời đại. Trong khi đó, cùng với sự phát triển của các bộ

môn ngôn ngữ học khác và sự bùng nổ của công nghệ tin học, từ điển học ở một
số nước phát triển đã có những bước tiến mạnh mẽ và không ngừng.


Tình hình trên đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu lí luận và
kinh nghiệm từ điển học. Luận văn với đề tài “Bước đầu tìm hiểu cấu trúc vi
mô của Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam” hi vọng có thể đóng
góp phần nào cho nhiệm vụ quan trọng và cấp bách này.
2. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là cấu trúc vi mô hay còn gọi là cấu
trúc mục từ của Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam xuất bản năm
2005. Đi sâu hơn nữa, luận văn tiến hành tìm hiểu các kiểu định nghĩa để từ đó
rút ra các mẫu định nghĩa trong Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam.
Không chỉ dừng lại ở đó, luận văn còn đi sâu tìm hiểu những nội dung được thể
hiện và cách tổ chức, sắp xếp các nội dung đó trong lời giải thích của một số
nhóm loại mục từ tiêu biểu trong Từ điển.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu làm rõ một số vấn đề về cấu trúc vi mô của
Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam. Đó là: một số mẫu định nghĩa
được sử dụng; và, những nội dung được đưa vào lời giải thích của mục từ trong
Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam.
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ đối chiếu, so sánh yêu
cầu của từ điển học hiện đại với thực tiễn biên soạn từ điển ở nước ta qua cuốn
từ điển được chọn làm đối tượng nghiên cứu là Từ điển bách khoa Công an nhân
dân Việt Nam. Trên cơ sở đó, hệ thống hoá, khái quát hoá, mô hình hoá một số
mẫu định nghĩa cơ bản, những nội dung đưa vào lời giải thích của mục từ trong
Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:



- Thống kê, so sánh - đối chiếu các kiểu định nghĩa, cách tổ chức nội dung
thông tin trong cấu trúc vi mô của từ điển bách khoa nói chung, Từ điển bách khoa
Công an nhân dân Việt Nam nói riêng với từ điển giải thích, đồng thời, trong một số
trường hợp, đối chiếu với yêu cầu của lí thuyết từ điển học hiện đại.
- Vận dụng một số khái niệm và phương pháp của logic học, đặc biệt là
phương pháp quy nạp để khái quát một số vấn đề.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Đây là luận văn đầu tiên đề cập đến vấn đề định nghĩa trong Từ điển bách khoa
Công an nhân dân Việt Nam. Trong tình hình các công trình nghiên cứu từ điển
học ở Việt Nam nói chung và trong ngành công an nói riêng còn quá ít, những
kết quả nghiên cứu dù là bước đầu của luận văn có thể góp một phần nhỏ vào
việc bổ sung lí luận cho lĩnh vực khoa học này.
Trong một chừng mực nào đó, những kết quả nghiên cứu cụ thể của luận văn về
các kiểu định nghĩa, cách xử lí các nội dung trong lời giải thích của mục từ có thể
được vận dụng trong việc biên soạn nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo sự nhất
quán, tăng sự hấp dẫn cho Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3
chương:
- Chương 1: Cơ sở lí thuyết
- Chương 2: Một số kiểu định nghĩa trong Từ điển bách khoa Công an
nhân dân Việt Nam
- Chương 3: Những nội dung đưa vào lời giải thích trong mục từ của Từ
điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT

1.1.

Một số khái niệm cơ bản về từ điển và từ điển học

1.1.1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của từ điển và từ điển học
Do nhu cầu của xã hội, một trong những loại sách ra đời sớm là từ điển.
Quyển từ điển đầu tiên trên thế giới là quyển từ vựng do người Hy Lạp biên soạn
thế kỉ V trước Công nguyên; thu thập và giải thích các từ khó trong các tác phẩm
thời cổ đại, đặc biệt những tác phẩm của Homer. Ở Việt Nam, trước đây mấy thế kỉ,
chỉ có những từ điển song ngữ đối chiếu như “An Nam – Lustan – La tinh” (“Việt –
Bồ - La”) do Alexandre de Rhades biên soạn, xuất bản ở Roma năm 1651; tiếp theo
là một số từ điển Hán - Việt cỡ nhỏ như “Tam thiên tự giải âm” do Ngô Thì Nhậm
biên soạn, xuất bản năm 1831, “Thiên tự văn giải âm”; và một số quyển từ điển đối
chiếu Pháp – Việt như Dictionnaire Franais-Annamite et Annamite-Franais
(G.Aubaret, Paris, 1867), Petit Dictionnaire Franais-Annamite (P.J.B. Trương Vĩnh
Ký, Sài Gòn, 1884). Cuối thế kỉ XIX mới có quyển từ điển giải thích tiếng Việt đầu
tiên, Đại Nam Quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của (1895) và sau hơn ba mươi
năm sau mới có quyển thứ hai, Việt Nam tự điển của Hội Khai trí Tiến Đức (1931).
Cuối thế kỉ XX, cùng với sự phát triển của khoa học, kinh tế, giáo dục trên
phạm vi toàn cầu, nhu cầu về từ điển của xã hội tăng nhanh, từ điển được biên
soạn và xuất bản với số lượng lớn và nhiều chủng loại đa dạng. Đặc biệt, gần
đây, sự bùng nổ của công nghệ tin học đã tạo ra một bước phát triển mới trong


các khâu biên soạn, in ấn từ điển; sản phẩm từ điển không chỉ là những quyển
sách bằng giấy mà còn ở dạng từ điển điện tử.
Ngược lại với thời điểm ra đời của từ điển, từ điển học lại ra đời rất muộn.
Đến những năm bốn mươi của thế kỉ XX, lí thuyết từ điển học mới được khởi
xướng bằng bài viết “Thử bàn về lí thuyết đại cương về từ điển học” của
L.V.Serba. Đến năm 1971, bộ môn từ điển học đã có bước ngoặt đáng kể với sự

ra đời của hai công trình: Giáo trình từ điển học của Ladislav Zgusta, xuất bản ở
Praha và Nghiên cứu từ điển hiện đại bằng tiếng Pháp về ngôn ngữ học và kí
hiệu học của Josette Rey Debove, xuất bản ở Paris. Gần đây, với sự phát triển
mạnh mẽ của ngôn ngữ học nói chung, của ngữ nghĩa học, từ vựng học nói riêng,
từ điển học cũng phát triển mạnh mẽ.
Ở Việt Nam, nhiều bài viết có giá trị thể hiện sự quan tâm của các tác giả trong
lĩnh vực này, như: Về việc biên soạn một quyển từ điển tiếng Việt mới (Hoàng Phê,
1969); Một vài nhận xét về từ điển giải thích của ta (Vương Lộc, 1969); Một số ý
kiến về việc giải thích nghĩa của từ trong từ điển tiếng Việt (Đỗ Hữu Châu, 1969); Về
việc giải thích nghĩa của từ nhiều nghĩa trong từ điển tiếng Việt (Nguyễn Văn Tu,
1969); Một số kinh nghiệm biên soạn từ điển ngôn ngữ ở các nước xã hội chủ nghĩa
(Bùi Khắc Việt, 1969); Việc chọn và giải thích từ ngữ miền Nam trong một quyển từ
điển tiếng Việt loại phổ thông (Nguyễn Quang, 1970); Vấn đề biên soạn hư từ trong
việc biên soạn từ điển giải thích (Hồng Dân, 1971);… Các bài viết trên đã đề cập đến
nhiều mặt, nhiều vấn đề cần chú ý trong thực tế biên soạn từ điển tiếng Việt.
Đến năm 1997, mới có một công trình chuyên đề về từ điển học, Một số
vấn đề từ điển học, gồm tập hợp 9 bài viết, đúc kết những kinh nghiệm biên soạn


từ điển ở nước ta và một số vấn đề lí luận từ điển học. Các bài viết trong công
trình này đã đi sâu vào một số vấn đề lí luận từ điển, như: những nét khái quát về
cấu trúc vĩ mô, cấu trúc vi mô, hệ thống các kiểu chú, phương pháp biên soạn từ
điển đồng nghĩa… Tuy nhiên, các vấn đề mà các tác giả đề cập đến trong công
trình này đều là những vấn đề trong từ điển giải thích, không có tác giả nào đề
cập đến các vấn đề của từ điển bách khoa, nhất là vấn đề về các kiểu định nghĩa.
Ngày nay, từ điển học đã được coi là một bộ môn ngôn ngữ học ứng dụng
quan trọng, với đối tượng nghiên cứu chủ yếu là các loại hình từ điển, cấu trúc vĩ mô,
cấu trúc vi mô... Gần đây, giới từ điển học còn chú ý đến hai mặt khác nữa là lịch sử
của từ điển và việc áp dụng công nghệ tin học vào công tác biên soạn từ điển.
1.1.2. Chức năng và đặc điểm cơ bản của từ điển

 Khái niệm từ điển:
Từ điển là một công cụ đắc lực giúp cho con người nắm vững công cụ ngôn ngữ
và sử dụng có hiệu quả trong mọi lĩnh vực hoạt động của mình, đồng thời góp
phần chuẩn hoá ngôn ngữ.
Theo tác giả Nguyễn Văn Tu, từ điển là “sách tra cứu bao gồm các từ, ngữ được sắp
xếp theo một trật tự nhất định, giải thích ý nghĩa của các đơn vị được miêu tả, cung cấp
những thông tin khác nhau về chúng hoặc dịch chúng ra một ngôn ngữ khác, hoặc
thông báo những kiến thức về các đối tượng do chúng biểu thị” [30, tr. 269].
Trong cuốn Giáo trình từ điển học (1971), L. Zgusta đã dẫn ra một định nghĩa về từ
điển của C.C. Bergl mà ông cho là một trong những định nghĩa tốt nhất: “Một cuốn từ
điển là một danh mục được sắp xếp có hệ thống của các hình thức ngôn ngữ đã được
xã hội hoá, thu thập từ những thói quen nói năng của một cộng đồng ngôn ngữ nhất
định và được người biên soạn chú giải sao cho người đọc có một trình độ nhất định


hiểu được ý nghĩa của từng hình thức ngôn ngữ riêng rẽ và biết được những điều cần
yếu về chức năng của nó trong cộng đồng ngôn ngữ ấy” [47, tr. 245].
Trong công trình Một số vấn đề lý luận và phương pháp luận cơ bản về từ điển học
và bách khoa thư Việt Nam do tác giả Phạm Hùng Việt làm chủ nhiệm, các tác giả
cho rằng: “Từ điển là một công trình tra cứu, lưu chứa các từ ngữ tách rời của vốn từ
ngữ chung (hay một bộ phận các từ ngữ chuyên biệt) của ngôn ngữ, kèm theo các
thông tin (đầy đủ hoặc chỉ một số thông tin) về chính tả, cách phát âm, ý nghĩa, cách
dùng, các từ đồng nghĩa, sự phái sinh và lịch sử của các từ ngữ đó. Để tiện tra cứu, ở
phần lớn các từ điển, các từ ngữ được sắp xếp theo trật tự bảng chữ cái; các thông tin
được minh hoạ bằng những trích dẫn từ các tác phẩm văn học” [46, tr. 9]
Từ những định nghĩa và sự tường giải về từ điển, có thể thấy một số đặc tính
chung trong từ điển như sau:
- Từ điển là loại công trình dùng để tra cứu, giúp cho người đọc tìm kiếm
những thông tin qua các từ ngữ được tập hợp và trình bày (các đầu mục từ).
- Các đầu mục từ được sắp xếp theo một trật tự nhất định, có thể đi kèm là

các thông tin phụ liên quan đến đầu mục này.
- Trong mỗi mục từ, được trình bày có hệ thống là các nội dung thông tin
(tri thức) – phần còn lại ngoài các đầu mục từ, có vai trò giải thích nội
dung của đầu mục từ hoặc cung cấp các thông tin về đối tượng đã được
nêu trong đầu mục từ.
 Chức năng của từ điển:
1. Từ điển có chức năng cung cấp thông tin. Đây là chức năng cơ bản của
từ điển và chi phối các chức năng khác. Bằng cách diễn đạt tri thức ngắn gọn, cô
đọng nhất, từ điển là một phương tiện hữu hiệu để tàng trữ và cung cấp thông tin.


các thông tin do từ điển cung cấp có thể là các thông tin về ngôn ngữ, văn hoá,
xã hội, kinh tế, khoa học…
2. Từ điển giúp giải thích, cung cấp và hướng dẫn cách sử dụng từ ngữ
của một ngôn ngữ, do đó, từ điển còn có chức năng nữa là chức năng phục vụ
giao tiếp, giúp cho việc giao tiếp trong nội bộ một dân tộc cùng sử dụng chung
một ngôn ngữ hay giữa các dân tộc sử dụng các ngôn ngữ khác nhau.
3. Từ điển có chức năng hướng dẫn, giáo dục ngôn ngữ. Từ điển là công
cụ đắc lực trong việc dạy và học ngôn ngữ. Người sử dụng từ điển thường coi từ
điển là người thầy không lời, là trọng tài trong các cuộc tranh luận về từ ngữ.
4. Từ điển có chức năng chuẩn hoá ngôn ngữ. Ngôn ngữ rất đa dạng và
luôn luôn vận động phát triển. Hiện tượng một chuẩn mới hình thành bên cạnh
một chuẩn cũ luôn luôn tồn tại, nhất là trong lĩnh vực từ vựng. Cái mới và cái cũ
song song tồn tại trong một thời gian, thường là cuối cùng cái cũ nhường chỗ
cho cái mới, nhưng không phải bao giờ cũng vậy. Từ điển phải thường xuyên
được cập nhật, giới thiệu chuẩn ngôn ngữ trong sự biến đổi, phát triển nên từ
điển đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn hoá ngôn ngữ.
5. Ngoài các chức năng trên, từ điển còn có thêm chức năng phục vụ
nghiên cứu. Qua từ điển người ta có thể rút ra được những nguyên tắc, lí luận về
từ điển học, đồng thời cũng có thể lấy từ điển làm tư liệu nghiên cứu nhiều lĩnh

vực khác của ngôn ngữ học.
 Đặc điểm của từ điển:
Để thực hiện các chức năng nêu trên, từ điển có những đặc điểm riêng khác biệt
với tất cả các loại sách khác.


1. Là một loại sách phục vụ nghiên cứu giáo dục, từ điển có tính khoa
học. Tính khoa học được thể hiện ở nhiều mặt, từ việc xác định nguyên tắc biên
soạn, phạm vi thu thập từ ngữ đến cách thức định nghĩa, cung cấp các thông tin
mở rộng. Đối với từ điển bách khoa, độ chính xác là thước đo của tính khoa học.
2. Từ điển thu thập và giải thích các từ ngữ được dùng trong đời sống của
con người, cũng có nghĩa là nó đề cập đến mọi khía cạnh của đời sống hiện thực, dù
muốn hay không muốn, nó phản ánh một sự lí giải và một cách đánh giá về các vấn
đề văn hoá, khoa học, chính trị, xã hội. Theo Hoàng Phê, từ điển phản ánh thế giới
quan, quan điểm, lập trường của người biên soạn, dù rằng người biên soạn có đầy
đủ ý thức hay không về việc đó. Do đó, từ điển mang trong mình tính tư tưởng.
3. Đặc điểm thứ ba của từ điển là tính tiện dùng. Từ điển là loại sách công
cụ mang tính phổ cập (trừ các từ điển chuyên ngành), có đối tượng sử dụng là đông
đảo người sử dụng ngôn ngữ ở những trình độ khác nhau. Điều này đòi hỏi ở từ
điển tính tiện dùng, dễ hiểu, dễ tra cứu. Điều này dường như ít nhiều mâu thuẫn với
đặc điểm về tính khoa học của từ điển. Mâu thuẫn đó làm cho công tác biên soạn từ
điển càng trở nên khó khăn. Dung hoà được mâu thuẫn này, đảm bảo đồng thời hai
yêu cầu khoa học và tiện dùng của từ điển là cả một nghệ thuật.
4. Một kết quả của sự dung hoà đó được biểu hiện qua phương thức trình
bày của từ điển. Từ điển luôn được tổ chức theo hai cấu trúc: cấu trúc vĩ mô (cấu
trúc tổng thể hay cấu trúc bảng từ) và cấu trúc vi mô (cấu trúc mục từ). Kiểu cấu
trúc đó làm cho từ điển không lẫn lộn với các sách khác, các thông tin trong từ
điển được trình bày một cách vừa khoa học, vừa tiện dùng. Với từ điển, tính
khoa học và tính tiện dùng là hai đặc điểm cơ bản.



1.1.3. Cách phân loại từ điển
Trên thế giới đã từng có nhiều học giả nổi tiếng đề cập đến vấn đề phân loại từ
điển như Shcherba (1940), Makiel (1959, 1967), Cornyn (1967), Gelb (1968),
Zgusta (1971)… Ở Việt Nam, phải kể đến Nguyễn Ngọc Trâm (2003), Dương
Kỳ Đức (2000), Chu Bích Thu, Vũ Quang Hào (2005), Nguyễn Trọng Báu…
Nhìn chung, cách phân loại của các tác giả mới chỉ dừng lại ở mức khái quát,
chưa đi vào từng loại cụ thể. Đáng chú ý là cách phân loại của L.V.Sherba phân
chia từ điển theo 6 cặp đối lập:
1. Từ điển hàn lâm và từ điển tra cứu: từ điển hàn lâm phản ánh ý thức
ngôn ngữ hiện thực, thống nhất của cả cộng đồng trong một thời gian nhất định,
còn từ điển tra cứu không nhất thiết có sự thống nhất của cả cộng đồng, từ ngữ
có thể được thu thập ở những thời đại khác nhau, những địa phương khác nhau.
2. Từ điển bách khoa và từ điển ngôn ngữ: từ điển bách khoa cung cấp
thông tin về sự vật, hiện tượng, khái niệm; từ điển ngôn ngữ cung cấp thông tin
về kí hiệu ngôn ngữ.
3. Từ điển thesaurus (từ điển tổng toàn) và từ điển thông thường: từ điển
thesaurus thu thập toàn bộ từ ngữ có trong một ngôn ngữ (dù chỉ xuất hiện một lần)
và những lời trích dẫn có chứa các từ ngữ đó; từ điển thông thường thì chỉ thu thập
những đơn vị từ có tính ổn định và một số thí dụ minh hoạ. Sự đối lập giữa hai từ
điển này thực ra là sự đối lập giữa tư liệu ngôn ngữ và hệ thống ngôn ngữ.
4. Từ điển thông thường và từ điển ý niệm: từ điển thông thường lấy vỏ
ngữ âm của từ làm cơ sở, các đơn vị được sắp xếp theo trật tự chữ viết; từ điển ý
niệm lấy nội dung của từ làm cơ sở, các đơn vị được sắp xếp theo nhóm chủ đề.


5. Từ điển giải thích và từ điển đối dịch: từ điển giải thích nhằm làm sáng
tỏ bản chất kí hiệu của một ngôn ngữ bằng chính ngôn ngữ ấy. Từ điển đối dịch
nhằm làm hiểu rõ một ngôn ngữ khác.
6. Từ điển phi lịch sử và từ điển lịch sử: từ điển phi lịch sử phản ánh từ

ngữ trong một khoảng thời gian hiện thời còn từ điển lịch sử phản ánh cả quá
trình lịch sử, sự xuất hiện, sự biến đổi và thậm chí cả sự mất đi của các từ ngữ.
[dẫn theo 18, tr. 42-43].
L.Zgusta phân loại cụ thể hơn cho từ điển ngôn ngữ và đưa thêm một tiêu chí về
cỡ của từ điển. Ông cho rằng, sự phân loại đầu tiên, có tính chất bao quát nhất là
sự phân biệt giữa từ điển ngôn ngữ và từ điển bách khoa. Theo ông, “các từ điển
ngôn ngữ chủ yếu đề cập đến ngôn ngữ, tức là đề cập đến các đơn vị từ vựng của
ngôn ngữ và tất cả các đặc tính ngôn ngữ của chúng. Ngược lại, các từ điển bách
khoa chỉ đề cập chủ yếu đến các denotate của các đơn vị từ vựng, chúng cho
những thông tin về thế giới ngoài ngôn ngữ có tính chất vật chất hoặc phi vật
chất” [47, tr. 246].
Tiếp tục phân loại từ điển ngôn ngữ, ông chia ra thành các loại cơ bản theo bốn
tiêu chí sau:
1. Theo tiêu chí thời gian, có sự đối lập giữa từ điển lịch đại và từ điển
đồng đại. Theo L.Zgusta, đây là một trong những sự phân loại quan trọng nhất
đối với các từ điển ngôn ngữ. Ông đã nêu ra các đặc điểm khác biệt giữa hai loại
là, trong khi từ điển lịch đại chỉ quan tâm chủ yếu đến lịch sử, sự phát triển của
từ ngữ cả về nghĩa và hình thức, thì nhiệm vụ của từ điển đồng đại là đề cập đến
kho từ vựng của một ngôn ngữ trong một giai đoạn phát triển nhất định của nó.
Đồng thời ông cũng lưu ý đến “tình trạng luôn có sự chồng chéo giữa lĩnh vực
của từ điển lịch sử với lĩnh vực của từ điển đồng đại”, “khái niệm về từ điển
được coi là đồng đại chỉ có tính chất tương đối”.


2. Theo phạm vi thu thập toàn bộ hay một bộ phận từ vựng của một ngôn
ngữ, có từ điển phổ thông và từ điển hạn chế (hoặc đặc biệt). Tính chất “hạn chế”
hay “đặc biệt” của từ điển hạn chế là do quyết định của người biên soạn chỉ lựa
chọn thu thập một bộ phận hẹp từ ngữ nhất định. Có thể có nhiều tiêu chuẩn lựa
chọn, nên có nhiều loại từ điển hạn chế khác nhau, chẳng hạn như từ điển phương
ngữ, từ điển học sinh, từ điển thuật ngữ một ngành… Đối lập lại, từ điển phổ thông

thu thập toàn bộ ngôn ngữ phổ thông, nghĩa là ngôn ngữ chuẩn toàn dân được dùng
một cách phổ biến. Loại này lại được chia nhỏ hơn nữa, thành từ điển miêu tả chuẩn và từ điển miêu tả - chung. Từ điển miêu tả - chuẩn khác từ điển miêu tả chung ở một tính chất cơ bản là nó không chỉ “tìm ra cái gì là chuẩn trong thời kì từ
điển được phát hành” mà còn định ra tiêu chuẩn cho người sử dụng trong tương lai.
Nghĩa là từ điển miêu tả - chuẩn không chỉ phản ánh những tính chất và quy tắc phổ
biến của ngôn ngữ hiện thời mà còn “lường trước tình hình sử dụng của tương lai”
dựa vào quy luật phát triển của ngôn ngữ”.
3. Theo số lượng ngôn ngữ được miêu tả, có từ điển một thứ tiếng và từ
điển hai thứ tiếng (thường rất ít từ điển có từ ba thứ tiếng trở lên). Mục đích của
từ điển hai thứ tiếng là giúp cho việc dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác
hoặc cho việc giao tiếp bằng một ngôn ngữ khác không phải là tiếng mẹ đẻ. Do
tính không đồng hình giữa các ngôn ngữ, từ điển hai thứ tiếng gặp rất nhiều khó
khăn trong việc đưa ra các đơn vị từ vựng tương đương.
4. Tiêu chí cuối cùng là dựa vào cỡ từ điển, có từ điển cỡ nhỏ và từ điển
cỡ lớn. Đây là một trong những mặt không thể nói được thật chính xác mà chỉ có
thể là sự đánh giá có tính chất ấn tượng. Cỡ của từ điển không chỉ là khối lượng
và như vậy số lượng mục từ của từ điển, có thể nói một cách chính xác, chỉ nêu


lên được một cách khái quát về khả năng thông tin của nó. Phần lớn phụ thuộc
vào bản thân mục từ được thực hiện như thế nào.
Trên đây chỉ là “khung” của các sự phân loại. Các tiêu chí ở mỗi sự phân loại
trên có thể tiếp tục được cụ thể hoá, và theo đó có thể phân loại từ điển thành
nhiều loại nhỏ hơn. Thêm nữa, do các tiêu chí tương đối độc lập, nên có thể có
sự phối hợp một số tiêu chí trong sự phân loại từ điển. Điều này dẫn đến tình
trạng là trên thực tế các kiểu loại từ điển rất đa dạng, phong phú. Sự phân loại từ
điển có ý nghĩa đặc biệt.
1.2.

Nhận thức chung về từ điển bách khoa


1.2.1. Đặc điểm, chức năng của từ điển bách khoa
Từ điển bách khoa được phát triển từ từ điển. Từ điển bách khoa xuất hiện
là do sự ảnh hưởng qua lại và xích lại gần nhau giữa bách khoa toàn thư và từ
điển ngôn ngữ. Chính vì vậy, khi nhận diện khái niệm từ điển bách khoa, một
mặt người ta cố gắng phân biệt nó với từ điển ngôn ngữ (chủ yếu là từ điển giải
thích); mặt khác, phân biệt nó với bách khoa thư.
Từ điển bách khoa có đặc điểm chung với các loại từ điển và bách khoa
thư ở chỗ, chúng đều là các công trình tra cứu, giúp người đọc tìm hiểu các
thông tin; các đầu mục từ được sắp xếp theo một trật tự nhất định; các thông tin
trong mục từ được trình bày một cách có hệ thống. Tuy nhiên, người ta cũng
nhận thấy giữa chúng có những sự khác biệt nhất định.
Từ điển giải thích cung cấp mọi thông tin về bản thân kí hiệu ngôn ngữ, còn từ
điển bách khoa cung cấp thông tin về sự vật, khái niệm được từ ngữ biểu thị.
Phạm vi thu thập của từ điển giải thích là các đơn vị từ vựng của một ngôn ngữ.
Còn từ điển bách khoa, do lấy sự vật, khái niệm làm đối tượng, nên chỉ thu thập


những từ có ý nghĩa biểu vật, biểu niệm cụ thể mà không phụ thuộc vào nhân tố
người sử dụng hay hoàn cảnh nói năng. Nhiệm vụ của từ điển bách khoa là cung
cấp kiến thức về các đối tượng do từ ngữ biểu thị, còn nhiệm vụ của từ điển ngôn
ngữ là cung cấp kiến thức về chính các đơn vị từ ngữ. Do nhiệm vụ khác nhau
như vậy mà thông tin trong từng mục từ của từ điển giải thích có thể là toàn bộ
các thông tin về kí hiệu ngôn ngữ, bao gồm rất nhiều mặt như thông tin về ngữ
âm, từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ dụng, ngữ pháp…; ngược lại, thông tin trong từ
điển bách khoa là các thông tin về sự vật, khái niệm mà từ đầu mục biểu thị,
ngoài phần định nghĩa còn có thể có thông tin mở rộng về lịch sử ra đời, quá
trình phát triển… Vì vậy, lời giải thích trong từ điển bách khoa sâu hơn, rộng
hơn, nhưng cấu trúc vi mô thì thường đơn giản hơn từ điển giải thích.
Định nghĩa trong từ điển bách khoa là định nghĩa khái niệm, là sự giải thích
chính xác, đầy đủ những đặc trưng cơ bản của khái niệm, sự vật mà từ ngữ biểu

thị. Định nghĩa từ ngữ trong từ điển giải thích chỉ nhằm nêu lên những đặc trưng
khu biệt của từ đủ để người sử dụng nhận biết và phân biệt nó với những từ ngữ
khác. Tuy nhiên, trên thực tế, “những đặc trưng cơ bản của khái niệm, sự vật mà
từ ngữ biểu thị” trong từ điển bách khoa và “những đặc trưng cơ bản của từ ngữ”
trong từ điển giải thích không phải lúc nào cũng có ranh giới rõ ràng. Nếu hình
dung một từ mà từ đó quy chiếu một sự vật thì không một tiêu chí khách quan
nào có thể giúp chúng ta phân biệt một định nghĩa về từ theo nghĩa phân tích từ
đó về ngữ nghĩa, với một định nghĩa về sự vật, vì trong định nghĩa người ta đi tới
sự vật bằng từ và từ bắt buộc phải trả trở về sự vật. Theo quan điểm chung của số
đông các nhà nghiên cứu, trong nội dung nghĩa từ bao giờ cũng có một hàm lượng
thông tin bách khoa. Xu hướng chung hiện nay của từ điển học hiện đại là lời giải
thích trong từ điển giải thích càng ngày càng có xu hướng gần với lời giải thích
trong từ điển bách khoa, nói một cách chính xác hơn, thông tin bách khoa ngày
càng được chú ý nhiều hơn trong từ điển giải thích.
Mặc dù đều là "công trình bách khoa", nhưng giữa từ điển bách khoa và
bách khoa thư cũng có những khác biệt nhất định. Bách khoa thư có chức năng
hệ thống hoá toàn bộ tri thức cơ bản và chuyên sâu, nhiều mặt về một hay nhiều


ngành khoa học hoặc hoạt động thực tiễn. Từ điển bách khoa lại có chức năng
cung cấp những thông tin vắn tắt phổ cập về các khái niệm của một hay nhiều
ngành khoa học hoặc hoạt động thực tiễn. Nếu như bách khoa thư được dùng chủ
yếu để giáo dục, tự học, tự nghiên cứu về nhiều mặt qua các chủ đề tri thức độc
lập, thì từ điển bách khoa lại chủ yếu được dùng để tra cứu, tìm kiếm thông tin
một cách nhanh chóng. Số lượng mục từ trong bách khoa thư thường ít nhưng
chủ đề lại rất rộng và có biên độ dài. Ngược lại, số lượng mục từ trong từ điển
bách khoa nhiều, nhưng chủ đề hẹp và có biên độ ngắn.
Như vậy, “từ điển bách khoa là một dạng công trình tra cứu có tính chuyển tiếp giữa
từ điển ngôn ngữ và bách khoa thư (vừa có tiêu chí chung với từ điển ngôn ngữ vừa
có tiêu chí chung với bách khoa thư); có chức năng cung cấp những thông tin vắn tắt

chung quanh các khái niệm khoa học, kĩ thuật, nghệ thuật hay tri thức thực tiễn khác.
Đây là loại sách chủ yếu để người ta tra cứu, tìm hiểu” [46, tr. 12].
1.2.2. Cách phân loại từ điển bách khoa
Trong công trình Một số vấn đề lí luận và phương pháp luận cơ bản về từ
điển học và bách khoa thư Việt Nam do tác giả Phạm Hùng Việt làm chủ nhiệm,
các tác giả cho rằng, từ điển bách khoa và bách khoa thư có nhiều điểm khác
nhau nhưng có đặc điểm chung về tính sự kiện của thông tin được chuyển tải
trong các mục từ. Theo cách mà Nguyễn Kim Thản đề xuất, các tác giả đã sử
dụng công trình bách khoa làm tên gọi chung cho từ điển bách khoa và bách
khoa thư. Công trình bách khoa là loại công trình tra cứu phản ánh tri thức của
một xã hội. Theo các tác giả, có nhiều cách phân loại từ điển bách khoa, có thể
kể đến một số cách phân loại thường gặp sau:


a, Dựa vào nội dung có thể phân các công trình bách khoa thành 2 loại
lớn: công trình bách khoa tổng hợp và công trình bách khoa chuyên ngành. Công
trình bách khoa tổng hợp là những công trình tra cứu điển hình của một quốc gia,
thường bao gồm nhiều tập, trong đó trình bày tri thức về tất cả các ngành khoa
học, kĩ thuật, văn hoá, nghệ thuật. Thuộc về loại này có thể kể đến Từ điển bách
khoa Xô Viết của Liên Xô, Americana của Mĩ (30 tập), Đại bách khoa toàn thư
Trung Quốc (74 tập), Từ điển bách khoa Việt Nam (4 tập)… Công trình bách
khoa chuyên ngành trình bày tri thức về một ngành khoa học, kĩ thuật, văn hoá,
nghệ thuật nhất định (hoặc một bộ môn của một ngành khoa học, một chuyên đề
nào đó). Thuộc về loại này có thể kể đến Bách khoa toàn thư Triết học của Liên
Xô (5 tập, 1960 – 1970), Bách khoa toàn thư về nhiếp ảnh của Anh (1949), Từ
điển bách khoa sinh học của một tập thể tác giả Việt Nam (năm 2003)…
b, Dựa vào quy mô có thể chia các công trình bách khoa thành hai loại chủ
yếu: công trình bách khoa cỡ lớn và công trình bách khoa cỡ nhỏ. Công trình
bách khoa cỡ lớn thường có dung lượng hàng chục tập trở lên, có khi tới hàng
trăm tập. Thí dụ: Bách khoa thư thần học của Linh mục Mingne 168 tập, Bách

khoa toàn thư Tây Ban Nha – Mỹ (1805 – 1933) gồm 80 tập, Bách khoa toàn
thư Xô Viết cỡ lớn, in lần thứ nhất 66 tập… Công trình bách khoa cỡ nhỏ thường
từ vài ba tập đến chục tập. Thí dụ : Bách khoa toàn thư Xô Viết cỡ nhỏ (10 tập)
Bách khoa toàn thư Bungari cỡ nhỏ (5 tập)…
c, Dựa vào đối tượng phục vụ có thể phân chia thành công trình bách khoa cho
thiếu niên, nhi đồng (Bách khoa toàn thư trẻ em của Liên Xô Deskaja Encykiopedija,
in lần thứ ba 12 tập) công trình bách khoa cho thanh niên (Encyclopaedia Britannica
Junior, 15 tập, 1948; Richards Encyclopaedia, 15 tập, 1939…).


d, Dựa vào phương tiện truyền đạt có thể phân chia các công trình bách
khoa thành: sách in, đĩa CD, mạng internet, âm thanh, mùi vị.
e, Theo phạm vi đề cập có thể phân chia các công trình bách khoa thành
công trình bách khoa chung và công trình bách khoa riêng (địa phương, dân
tộc…). Công trình bách khoa chung là loại công trình cung cấp thông tin về toàn
thế giới và toàn quốc. Bách khoa thư của các nước Anh, Mĩ, Pháp, Trung
Quốc… thuộc loại này. Công trình bách khoa riêng (địa phương, dân tộc…) là
loại công trình cung cấp thông tin về một bộ phận trong nước, chẳng hạn, Bách
khoa thư về Moskva, Bách khoa thư về Leningrat ở Liên Xô, Bách khoa thư Hà
Nội, Từ điển bách khoa địa danh Hải Phòng ở Việt Nam.
1.3.

Cấu trúc của từ điển

1.3.1. Cấu trúc của từ điển giải thích
1.3.1.1. Cấu trúc vĩ mô của từ điển giải thích
Các mục từ trong từ điển giải thích được thu thập theo những tiêu chí nhất
định, tạo thành một bảng từ có tính hệ thống, đảm bảo sự nhất quán, có cấu trúc chặt
chẽ. Đây là cấu trúc có quan hệ dọc, suốt từ đầu đến cuối quyển từ điển, nên được gọi
là cấu trúc vĩ mô. “Cấu trúc vĩ mô là cấu trúc bao gồm toàn thể các mục từ được sắp

xếp theo một trật tự xác định; còn có thể gọi là cấu trúc bảng từ” [44, tr. 26].
Đối tượng chính của từ điển giải thích là từ vựng. Các đơn vị được thu
thập trong bảng từ của từ điển giải thích rất rộng và có cấu tạo đa dạng. Bảng từ
có thể bao gồm từ (chiếm phần lớn), các đơn vị lớn hơn từ (ngữ cố định, thành
ngữ…), các đơn vị nhỏ hơn từ (yếu tố cấu tạo từ),… Số lượng các đơn vị trong
bảng từ phụ thuộc vào việc lựa chọn mục từ. Vấn đề này nói chung rất phức tạp,


hiện nay chưa có một tiêu chuẩn chung nào về việc lựa chọn mục từ. Công việc
này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như cỡ, loại từ điển, số lượng, chủng loại của các
nguồn tư liệu, ngữ cảm của người biên soạn.
Là sách công cụ dùng để tra cứu, từ điển bao giờ cũng được sắp xếp theo
một trật tự nhất định. Tuỳ theo loại hình ngôn ngữ, có thể có nhiều cách sắp xếp
khác nhau, chẳng hạn, có thể sắp xếp theo trật tự chữ cái, theo chủ đề, theo tần
số, hoặc theo bộ chữ (đối với từ điển tiếng Hán),… Tuy nhiên, cách sắp xếp phổ
biến nhất là xếp theo trật tự bảng chữ cái.
1.3.1.2. Cấu trúc vi mô của từ điển giải thích
Giống như các loại từ điển khác, cấu trúc vi mô của từ điển giải thích cũng
bao gồm hai phần chính: mục từ và các thông tin trong mục từ đó. Như vậy, mục
từ trong từ điển là đơn vị đặc biệt, đa chức năng, hay còn gọi là đơn vị kép, nó
vừa là đơn vị cơ bản của cấu trúc vĩ mô (trong mối quan hệ dọc, với hệ thống
bảng từ), vừa là đơn vị của cấu trúc vi mô (trong mối quan hệ ngang, với các
thông tin về chính bản thân nó).
L.Zgusta gọi hai thành phần chính của cấu trúc vi mô là “phần đề” (mục từ) và
“phần chính” (các thông tin). J.Rey Debove coi mục từ trong từ điển có cấu trúc
như một câu, trong đó đơn vị mục từ là chủ ngữ, các thông tin là vị ngữ. Hai quan
niệm này cùng nêu lên một đặc tính cơ bản của cấu trúc mục từ là tính “đề thuyết”. Trên cấu trúc bề mặt, “phần đề” chỉ gồm một yếu tố, đó là mục từ, còn
“phần thuyết” thường là nhiều yếu tố, đó là các thông tin nhiều mặt về mục từ.
Nhưng xét về cấu trúc sâu, mỗi cấu trúc vi mô bao gồm nhiều cấu trúc đề - thuyết
bình đẳng với nhau. Bởi vì mỗi thông tin đều có quan hệ trực tiếp với mục từ làm

thành cấu trúc đề - thuyết, nhưng trên bề mặt, phần đề luôn luôn được tỉnh lược (chỉ
xuất hiện một lần duy nhất). Nối giữa “phần đề” và “phần thuyết” là một số hệ từ.


Những hệ từ này có thể hiển ngôn hoặc không hiển ngôn nhưng rất dễ được khôi
phục ở dạng hiển ngôn. Tiếp thu và phát triển quan niệm này vào nghiên cứu từ
điển tiếng Việt, Chu Bích Thu đã khai thác sâu hơn các mối liên kết trong cấu trúc
vi mô. Ngoài tính tỉnh lược là đặc trưng cơ bản, còn phải kể đến các mối liên kết
bằng phép liên kết tuyến tính và phép lặp [x 44, tr. 105 – 110].
Theo tác giả Chu Bích Thu, các loại thông tin thường thấy trong cấu trúc
vi mô của từ điển giải thích là: chính tả, ngữ âm, từ loại, phong cách, phạm vi sử
dụng, kết hợp cú pháp, kết hợp từ vựng, định nghĩa, kết hợp từ vựng – cú pháp,
định hướng ngữ dụng, đồng nghĩa – trái nghĩa, ví dụ. Các thông tin này được thể
hiện bằng những phương tiện đa dạng, tuỳ thuộc vào từng ngôn ngữ, vào quan
niệm từ điển học của những người biên soạn. Thông thường các thông tin về từ
loại, phong cách, sắc thái… được thể hiện bằng những kí hiệu viết tắt; các thông
tin về ý nghĩa, cách dùng… thường được trình bày đầy đủ.
1.3.2. Cấu trúc của từ điển bách khoa
1.3.2.1. Cấu trúc vĩ mô của từ điển bách khoa
Theo tác giả Phạm Hùng Việt, “cấu trúc vĩ mô trong từ điển bách khoa chính là
bảng đầu mục từ - tên gọi các khái niệm, sự vật, sự kiện, nhân vật… mà thông
tin về chúng được trình bày trong mục từ”. Thông thường, bảng mục từ của từ
điển bách khoa được lập dựa trên sự phân loại tri thức và khoa học của các
ngành và bộ môn; các cuốn từ điển, từ điển thuật ngữ; các ấn phẩm đã công bố
và các nguồn tư liệu khác [x 46, tr 63-65].
Theo tác giả, bảng đầu mục từ trong từ điển bách khoa chính là việc thể
hiện cụ thể của việc phân loại tri thức, là bước triển khai của phân loại tri thức và
liên kết nội dung, là bộ khung của từ điển bách khoa. Ngoài những đặc trưng cơ
bản như tính tư tưởng, tính khoa học, tính hiện đại, đồng thời bảo đảm tính ngắn



gọn, dễ tra cứu, bảng từ trong từ điển bách khoa phải quán triệt ba mục tiêu, đó
là: tính hiện thực trong phân loại khoa học; sự phát triển của các ngành khoa học
và xu hướng liên kết các bộ môn khoa học; khuynh hướng xuất hiện các ngành
khoa học mới [x 46, tr 64].
“Bảng đầu mục từ mang tính khoa học phải được xây dựng trên cơ sở phân

loại tri thức đưa vào từ điển bách khoa theo một chu trình khép kín, có tầng bậc và
cấp độ, đặc biệt là đầu mục từ phải mang tính khái niệm. Nó phải bao gồm đầy đủ
những khái niệm của các chuyên ngành khoa học. Mỗi chuyên ngành cũng phải hoàn
chỉnh về mặt kết cấu và nội dung, nghĩa là mỗi chuyên ngành, đến lượt mình, cũng phải
đầy đủ các bộ môn khoa học. Nó cũng phải phản ánh tính thống nhất và kế thừa tri thức
cổ kim, được ghi nhận qua các tên gọi (đầu mục từ) của các khái niệm” [46, tr 64].
“Phân loại tri thức được coi là kim chỉ nam xuyên suốt quá trình chuẩn bị,

lập kế hoạch, xây dựng bảng từ, biên soạn nội dung và biên tập bản thảo. Tuỳ
theo sự phát triển của khoa học ở từng thời kì, từng nước, mục đích yêu cầu của
từng loại từ điển bách khoa và ý đồ của những người tổ chức mà chọn cách phân
loại” [46, tr 64]. Việc phân loại tri thức không phải là liệt kê các thành phần tham
gia một cách hình thức, mà là phải xác định được các mối quan hệ nội tại của từng
thành phần tham gia và giữa các thành phần. Chỉ khi nào lập được mạng lưới quan
hệ và dựng được bộ khung cho từ điển bách khoa thì mới coi là hoàn thành phân
loại tri thức.
Trong quá trình xây dựng bảng mục từ tổng hợp, cần tránh tính ngẫu
hứng, thiếu khách quan, thiếu quan điểm tổng thể, toàn diện, đôi khi còn có biểu
hiện thiên kiến, bản vị của một số người biên soạn. Do vậy, trước khi xây dựng


bảng đầu mục từ phải nghiên cứu kĩ các hệ thống phân loại khoa học và hình thành
được bảng cấu trúc các chủ đề theo phân loại khoa học, các ngành, phân ngành, các

bộ môn khoa học, các khái niệm, các thuật ngữ, các chủ đề tri thức, các sự kiện, các
tổ chức, các địa danh, nhân vật… Trên cơ sở bảng cấu trúc phân loại mục từ mới có
thể xây dựng được một bảng mục từ tổng hợp, để bảo đảm không trùng lặp, không
bỏ sót, và từ đó hình thành được các mục từ biệt lập và liên ngành, thuộc nhiều loại
khác nhau, dưới các hình thức dài, trung bình và ngắn [x 46, tr 69].
1.3.2.2. Cấu trúc vi mô của từ điển bách khoa
Cấu trúc vi mô của từ điển bách khoa là thiết kế bên trong (mục từ) của từ
điển bách khoa. Cấu trúc vi mô đưa ra các thông tin mang tính sự kiện, chi tiết
về khái niệm, sự vật, hiện tượng, nhân vật… được nêu ra ở đầu mục từ.
Theo tác giả Phạm Hùng Việt, mục từ trong từ điển bách khoa phải là một
khái niệm hoàn chỉnh hoặc một chủ đề tri thức độc lập, có thể tra cứu, tìm đọc độc
lập. Đối với cùng một chủ đề, từ điển có thể trình bày với những kiến thức ở mức
độ nông sâu khác nhau để thích hợp với các loại độc giả có trình độ văn hoá khác
nhau và có nhu cầu học tập, nghiên cứu khác nhau. Mục từ của từ điển bách khoa
cần hướng tới ba yêu cầu:
- Tính tri thức: yêu cầu tri thức phải chuẩn xác, chắc chắn;
- Tính tư liệu: yêu cầu tư liệu phải cơ bản, tinh gọn, chuẩn xác;
- Tính tra cứu: yêu cầu đảm bảo cho độc giả có thể tra tìm được rất nhanh,
đọc được dễ dàng, nghĩa là phải giúp cho độc giả có thể sử dụng thời
gian ngắn nhất, có thể tra cứu thuận lợi nhất, tìm đọc được những tri
thức và tư liệu cần thiết.


×