Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Việt nam với việc gia nhập thỏa ước la hay về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (631.53 KB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN ĐỨC THẮNG

VIỆT NAM VỚI VIỆC GIA NHẬP THOẢ ƯỚC LA-HAY
VỀ ĐĂNG KÝ QUỐC TẾ KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ NGỌC LÂM

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Đức Thắng



MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng, hình vẽ
LỜI CAM ĐOAN.........................................................................................................2
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành
tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa
Luật Đại học Quốc gia Hà Nội...............................................................................................2
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.................................................................................................................................2
Tôi xin chân thành cảm ơn!........................................................................................2
NGƯỜI CAM ĐOAN..................................................................................................2
Trần Đức Thắng.........................................................................................................2
Có ba cách bảo hộ kiểu dáng công nghiệp ở nước ngoài:..............................45
8.Bộ Khoa học và Công nghệ (2010), Thông tư 13/2010/TT-BKHCN ngày
30/7/2010 sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN ngày
14/2/2007, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.......................................................................108
11.Bộ Tài chính (2009), Thông tư 22/2009/TT-BTC ngày 4/2/2009 quy định mức
thu, chế độ thu,nộp và quản lý sử dụng phí,lệ phí sở hữu công nghiệp, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.................................................................................................................109

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
WTO:

World Trade Organization - Tổ chức Thương mại Thế giới


WIPO:

World Intellectual Property Organization - Tổ chức Sở hữu
Trí tuệ Thế giới

BIRPI:

Uỷ ban quốc tế thống nhất về Bảo hộ Sở hữu trí tuệ - Tổ chức
tiền thân của WIPO

ARIPO:

Cơ quan Sở hữu Trí tuệ Khu vực châu Phi tại các nước châu


Phi nói tiếng Anh.
OAPI:

Tổ chức Sở hữu Trí tuệ châu Phi tại các nước châu phi nói
tiếng Pháp.

BDO:

Cơ quan kiểu dáng Benelux tại các nước Bỉ, Hà Lan và
Luxembourg.

OHIM:

Cơ quan Hài hòa hóa thị trường nội địa tại Liên minh châu Âu.


EU:

European Union - Liên minh châu Âu.

ASEAN:

Association of Southeast Asian Nations - Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á.

GATT 1994:

Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994.

TRIPS:

Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của
quyền sở hữu trí tuệ.

Công ước Paris:

Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp ký ngày
20/3/1883 tại Paris, được xem xét lại tại Brussels năm 1900,
tại Washington năm 1911, tại La-Hay năm 1925, tại London
năm 1934, tại Lisbon năm 1958, tại Stockholm năm 1967 và
được sửa đổi vào năm 1979.

Thỏa ước La-Hay:

Điều ước quốc tế về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp

được ký kết trong khuôn khổ Công ước Paris vào ngày
6/11/1925 tại La-Hay và có hiệu lực từ ngày 1/6/1928.

Văn kiện 1934:

Văn kiện về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp ký tại
London ngày 2/6/1934 trong khuôn khổ của Thỏa ước La-Hay.

Văn kiện 1960:

Văn kiện về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp ký tại LaHay ngày 28/11/1960 trong khuôn khổ của Thỏa ước La-Hay.

4


Văn kiện 1999:

Văn kiện về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp ký tại
Geneva ngày 2/7/1999 trong khuôn khổ của Thỏa ước La-Hay.
Thỏa ước Locarno: Thỏa ước về phân loại kiểu dáng công nghiệp quốc tế được
ký tại Locarno ngày 08/10/1968 và có hiệu lực từ ngày
27/4/1971.
Quy chế:
Quy chế thi hành Thỏa ước La-Hay về đăng ký quốc tế kiểu
dáng công nghiệp
Luật sở hữu trí tuệ: Luật sở hữu trí tuệ của nước CHXHCN Việt Nam do Quốc
hội thông qua ngày 29/11/2005 và có hiệu lực từ ngày
1/7/2006, được sửa đổi ngày 19/6/2009.
Nghị định 103/2006/NĐ-CP: Nghị định được Chính phủ ký ban hành ngày
22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số

điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp.
Thông tư 01/2007/TT-BKHCN: Thông tư do Bộ Khoa học và Công nghệ ký ban
hành ngày 14/2/2007 hướng dẫn chi tiết thi hành Nghị định
103/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ. Thông tư
này được sửa đổi, bổ sung bởi các Thông tư số 13/2010/TTBKHCN ngày 30/7/2010, Thông tư số 18/2011/TT-BKHCN
ngày 22/7/2011 và Thông tư số 05/2013/TT-BKHCN ngày
20/2/2013.
SHTT:
Sở hữu trí tuệ
CHF:
Đồng tiền France Thụy Sĩ.


DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ
LỜI CAM ĐOAN.........................................................................................................2
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành
tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa
Luật Đại học Quốc gia Hà Nội...............................................................................................2
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.................................................................................................................................2
Tôi xin chân thành cảm ơn!........................................................................................2
NGƯỜI CAM ĐOAN..................................................................................................2
Trần Đức Thắng.........................................................................................................2
Có ba cách bảo hộ kiểu dáng công nghiệp ở nước ngoài:..............................45
8.Bộ Khoa học và Công nghệ (2010), Thông tư 13/2010/TT-BKHCN ngày
30/7/2010 sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN ngày
14/2/2007, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.......................................................................108
11.Bộ Tài chính (2009), Thông tư 22/2009/TT-BTC ngày 4/2/2009 quy định mức

thu, chế độ thu,nộp và quản lý sử dụng phí,lệ phí sở hữu công nghiệp, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.................................................................................................................109


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, các hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ rất
đa dạng, phong phú và hoạt động trên phạm vi rộng không còn bó hẹp trong
phạm vi quốc gia như: sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp,
chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, thiết kế bố trí mạch tích
hợp bán dẫn, bản quyền tác giả... và có thể nói quyền sở hữu trí tuệ luôn có
yếu tố nước ngoài. Quyền sở hữu trí tuệ nói chung cũng như quyền đối với
kiểu dáng công nghiệp nói riêng muốn được bảo hộ ở nước ngoài phải được
thực hiện thông qua các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương hoặc
bảo hộ thông qua việc các quốc gia cùng chấp nhận nguyên tắc “có đi có lại”,
trong đó vai trò của các điều ước quốc tế đa phương rất quan trọng.
Kiểu dáng công nghiệp được đăng ký bảo hộ nhằm bảo vệ cho chủ sở
hữu trong việc tiến hành các hoạt động thương mại liên quan đến sản phẩm
mang kiểu dáng công nghiệp. Doanh nghiệp cần tiến hành bảo hộ kiểu dáng
công nghiệp tại thị trường nước ngoài nơi dự định xuất khẩu sản phẩm nhằm
ngăn chặn các hoạt động khai thác thương mại liên quan đến sản phẩm mang
kiểu dáng công nghiệp từ phía các đối thủ cạnh tranh. Kiểu dáng công nghiệp
của sản phẩm được nhìn nhận như một yếu tố tương đồng với chất lượng và
hình ảnh của doanh nghiệp kinh doanh, vì vậy việc bảo hộ kiểu dáng công
nghiệp ở nước ngoài là phương tiện hữu hiệu và là cách quảng bá hiệu quả
trong việc bảo vệ sản phẩm xuất khẩu sang thị trường nước ngoài.
Thông thường, kiểu dáng công nghiệp chỉ có hiệu lực bảo hộ trên lãnh
thổ quốc gia nơi kiểu dáng công nghiệp đó đăng ký. Việc bảo hộ kiểu dáng
công nghiệp ở nước ngoài theo hệ thống quốc gia bị giới hạn theo phạm vi

lãnh thổ của hệ thống bảo hộ kiểu dáng công nghiệp. Doanh nghiệp thường

1


phải lựa chọn từng quốc gia riêng biệt và tiến hành đăng ký theo thủ tục độc
lập theo quy định của từng quốc gia. Các đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp
phải được làm bằng một ngôn ngữ nhất định; phải tuân thủ theo hệ thống các
quy định của nước sở tại và được nộp cho cơ quan sở hữu trí tuệ của nước đó;
phải nộp lệ phí bằng một loại tiền tệ nhất định.
Bảo hộ kiểu dáng công nghiệp ở nước ngoài theo hệ thống đăng ký
quốc tế của Thỏa ước La-Hay là việc giành được sự bảo hộ kiểu dáng công
nghiệp ở một số nước thông qua việc đăng ký kiểu dáng công nghiệp chỉ một
lần duy nhất với văn phòng quốc tế của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới
(WIPO). Với chỉ một đơn đăng ký quốc tế bằng một ngôn ngữ, doanh nghiệp
có thể đạt được cùng một kết quả bảo hộ kiểu dáng công nghiệp ở một số
nước và chỉ cần phải trả một lần các khoản phí bằng một loại tiền tệ cho một
cơ quan duy nhất. Việc quản lý độc quyền đạt được sau đó cũng được thực
hiện một cách dễ dàng hơn. Ví dụ như việc gia hạn hiệu lực đối với một kiểu
dáng công nghiệp đã đăng ký chỉ cần một thủ tục đơn giản duy nhất đối với
mọi thay đổi liên quan đến chủ sở hữu.
Việc Việt Nam tham gia Thỏa ước La-Hay về đăng ký quốc tế kiểu
dáng công nghiệp và lựa chọn tham gia văn kiện nào là một vấn đề đòi hỏi
cần phải nghiên cứu một cách khoa học và toàn diện nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích của doanh nghiệp Việt Nam cũng như lợi ích quốc gia, đồng thời đáp
ứng được xu hướng hội nhập hợp tác phát triển quốc tế đang diễn ra ngày
càng mạnh mẽ. Việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp thông qua Thỏa ước La-Hay và các
văn kiện về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp là việc làm cần thiết và là
một sự chuẩn bị đầy đủ cho việc Việt Nam quyết định lựa chọn thời điểm

thích hợp tham gia Thỏa ước La-Hay về đăng ký quốc tế kiểu dáng công
nghiệp và lựa chọn ký kết văn kiện phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong thời gian tới.

2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý ở Việt Nam, hiện chưa có một công trình
nghiên cứu chuyên sâu về việc gia nhập Thỏa ước La-Hay về đăng ký quốc tế
kiểu dáng công nghiệp. Vấn đề trên hiện chỉ xuất hiện rải rác trong nội dung
một số bài tham luận tại các cuộc hội thảo về sở hữu công nghiệp do Cục Sở
hữu trí tuệ Việt Nam tham gia tổ chức và trong một số bài viết trên một số tạp
chí và trang báo chuyên ngành. Các bài viết trên mới chỉ dừng lại ở các nội
dung khái quát, hoặc chỉ đi vào tìm hiểu một số khía cạnh riêng lẻ của vấn đề,
chưa đi sâu vào phân tích tổng thể và so sánh tổng quan thực tiễn hoạt động
đăng ký kiểu dáng công nghiệp tại Việt Nam và các quy định trong Thỏa ước
La-Hay về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp nhằm đề xuất thời điểm
cũng như lựa chọn văn kiện để Việt Nam tham gia Thỏa ước La-Hay trong
tương lai gần.
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên đi sâu vào phân tích một
cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống việc Việt Nam có thể tham gia Thỏa
ước La-Hay về Đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp; so sánh một cách chi
tiết quy định của pháp luật Việt Nam về đăng ký kiểu dáng công nghiệp với
các quy định của Thỏa ước La-Hay để tìm ra những ưu nhược điểm nhằm góp
phần hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật về đăng ký và bảo hộ kiểu dáng
công nghiệp tại Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài "Việt Nam với việc gia nhập Thỏa ước La-Hay
về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp" nhằm đạt các mục đích chủ yếu
sau đây:

- Tìm hiểu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật Việt Nam
về đăng ký kiểu dáng công nghiệp và các quy định của Thỏa ước La-Hay về
đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp.
- So sánh và tìm ra những điểm khác biệt cơ bản về đăng ký kiểu dáng

3


công nghiệp theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam và Văn kiện
Geneva 1999 của Thỏa ước La-Hay.
- Nghiên cứu, phân tích và làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn khi Việt
Nam gia nhập Thỏa ước La-Hay về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng đổi mới đồng bộ thể chế kinh tế thị trường của Đảng
và Nhà nước ta được trình bày trong các văn kiện, nghị quyết và các văn bản
quy phạm pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, so sánh, tổng
hợp thống kê cũng sẽ được sử dụng ở mức độ phù hợp để hoàn thành mục
tiêu của đề tài.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Quy định của pháp luật Việt Nam về đăng ký kiểu dáng
công nghiệp.
Chương 2: Quy định của Thỏa ước La-Hay về đăng ký quốc tế kiểu
dáng công nghiệp.
Chương 3: Những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong việc gia nhập
Thỏa ước La-Hay về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp.


4


Chương 1
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ ĐĂNG KÝ KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP
1.1. Khái niệm chung về đăng ký kiểu dáng công nghiệp
1.1.1. Khái niệm kiểu dáng công nghiệp
Ở đâu có hoạt động nghiên cứu, sáng tạo thì ở đó xuất hiện tài sản trí
tuệ. Những thành quả do trí tuệ con người tạo ra thông qua hoạt động sáng
tạo được thừa nhận là tài sản trí tuệ. Trên thế giới, khái niệm sở hữu trí tuệ
không phải là một khái niệm xa lạ, nhưng ở Việt Nam, khái niệm này còn
khá mới mẻ đối với đại bộ phận nhân dân. Ở các nước phát triển, luật Sở
hữu trí tuệ được ban hành từ rất sớm, như luật Sở hữu trí tuệ được ban hành
ở Mỹ năm 1787, ở Pháp năm 1791, ở Bỉ năm 1854, ở Nhật năm 1855, ở
Nga năm 1870, ở Đức năm 1877… Cùng với quá trình phát triển kinh tế
thế giới, bảo hộ sở hữu trí tuệ được coi là vấn đề đặc biệt quan trọng và là
mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia. Các hoạt động sáng tạo và kết
quả của các hoạt động sáng tạo có vai trò rất lớn đối với hiệu quả sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với việc nâng cao chất
lượng sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Những năm về
trước, các tài sản hiện hữu như đất đai, máy móc, lao động, tiền vốn…
được coi là các chuẩn mực chung để đánh giá sự giàu có và sự phát triển
của doanh nghiệp. Ngày nay, sản phẩm trí tuệ - tài sản vô hình trở thành
thước đo sức mạnh và vị thế của doanh nghiệp trên thương trường.
Từ cuối thế kỷ XIX, khái niệm về kiểu dáng công nghiệp đã xuất hiện,
gắn liền với khái niệm về quyền sở hữu công nghiệp. Cùng với sự phát triển
của nền kinh tế cũng như sự phát triển của khoa học công nghệ và các sáng
tạo trong kinh doanh, khái niệm về kiểu dáng công nghiệp ngày càng trở nên


5


phổ biến. Tuy nhiên, trên thế giới hiện có nhiều khái niệm khác nhau về kiểu
dáng công nghiệp.
Theo định nghĩa của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO): “Kiểu
dáng công nghiệp là các khía cạnh mang tính chất trang trí hay thẩm mỹ của
sản phẩm. Kiểu dáng có thể bao hàm các khía cạnh ba chiều, ví như hình
dạng hoặc bề mặt của sản phẩm, hoặc các khía cạnh hai chiều, ví như mẫu
hoa văn, đường nét hoặc màu sắc”.
Theo định nghĩa này, kiểu dáng công nghiệp có thể được hiểu theo một
nghĩa rất rộng. Đầu tiên, kiểu dáng công nghiệp được xác định ở tính chất
trang trí hay thẩm mỹ của nó. Bên cạnh đó, kiểu dáng công nghiệp cũng được
xác định bằng biểu hiện bên ngoài của sản phẩm như họa tiết, đường nét, màu
sắc hoặc ba chiều như hình khối, kết cấu của sản phẩm.
Theo pháp luật của Hoa Kỳ, một trong những nước phát triển hàng đầu
về những sản phẩm sở hữu trí tuệ, thì “Kiểu dáng bao gồm các đặc tính trang
trí được thể hiện hay áp dụng trong một sản phẩm. Vì kiểu dáng được thể
hiện ở hình dáng bên ngoài nên các đối tượng bảo hộ kiểu dáng có thể là
hình dạng của một sản phẩm, là trang trí mặt ngoài của một sản phẩm, hay là
sự kết hợp giữa hình dạng và trang trí bên ngoài. Một kiểu dáng trang trí bề
ngoài không thể tách rời khỏi sản phẩm mà nó trang trí và do vậy không thể
tự thân tồn tại một mình được”.
Như vậy, đặc tính quan trọng nhất của kiểu dáng công nghiệp là các đặc
tính trang trí. Theo pháp luật Hoa kỳ, điểm mấu chốt của kiểu dáng công
nghiệp là nhất thiết phải gắn liền với sản phẩm mà nó trang trí, nghĩa là không
có dạng kiểu dáng công nghiệp tự thân tồn tại một mình.
Theo pháp luật Việt Nam, từ trước khi có Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ luật
dân sự 1995 đã quy định: “Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài
của sản phẩm, được thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết


6


hợp những yếu tố đó, có tính mới đối với thế giới và dùng làm mẫu để chế tạo
sản phẩm công nghiệp hoặc thủ công nghiệp”.
Hiện nay, tại khoản 13 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ có quy định: “Kiểu
dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng
hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này”.
Theo định nghĩa này, có thể hiểu, kiểu dáng công nghiệp đơn thuần là
hình dáng bên ngoài của sản phẩm, hay là hình dáng bên ngoài của sản phẩm
kết hợp với họa tiết, là hình dáng bên ngoài của sản phẩm kết hợp với màu
sắc, hoặc là hình dáng bên ngoài của sản phẩm kết hợp cả họa tiết, màu sắc.
Như vậy, với tư cách là một đối tượng của sở hữu trí tuệ, kiểu dáng công
nghiệp chỉ để cập đến các khía cạnh thẩm mỹ hoặc hình dáng bên ngoài của
sản phẩm chứ không thể hiện các đặc điểm kỹ thuật hoặc chức năng bên trong
của sản phẩm. Cách định nghĩa này của pháp luật Việt Nam cũng có nét tương
đồng với định nghĩa của các nước trên thế giới khi khẳng định kiểu dáng công
nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm và luôn gắn liền với sản phẩm.
Mặc dù kiểu dáng công nghiệp không đề cập đến các đặc điểm kỹ
thuật hoặc chức năng của sản phẩm, tuy nhiên, kiểu dáng công nghiệp có vai
trò vô cùng quan trọng đối với sản phẩm, vì nó là cái nhìn đầu tiên của
người tiêu dùng về sản phẩm. Do đó, ngoài chức năng phân biệt hình dáng,
màu sắc giữa các sản phẩm cùng loại, kiểu dáng công nghiệp còn có chức
năng thẩm mỹ, hấp dẫn thị hiếu người tiêu dùng thông qua những hình dáng
và màu sắc đặc trưng riêng của sản phẩm đó. Hình dáng bên ngoài của sản
phẩm cũng là yếu tố quan trọng trong việc góp phần nâng cao tiện ích của
sản phẩm, giúp cho sản phẩm được sử dụng thuận lợi và phổ biến. Kiểu
dáng công nghiệp luôn luôn mang tính thẫm mỹ, làm cho sản phẩm đẹp hơn,
kích thích thị hiếu của người tiêu dùng muốn mua hàng nhiều hơn, qua đó

làm tăng lợi nhuận cho nhà sản xuất.

7


Điểm mấu chốt trong khái niệm về kiểu dáng công nghiệp là kiểu dáng
công nghiệp ít nhất phải có khả năng áp dụng công nghiệp để sản xuất ra các
sản phẩm, tái tạo bằng phương pháp công nghiệp hay thủ công nghiệp (vì vậy
mới gọi là kiểu dáng công nghiệp). Nếu không có yếu tố này thì không phải là
kiểu dáng công nghiệp mà là sự sáng tạo nghệ thuật (thuộc bản quyền tác giả).
Tuy nhiên, trong định nghĩa về kiểu dáng công nghiệp thì các yếu tố như tính
mới, tính sáng tạo và khả năng áp dụng không phải là điều kiện tiên quyết để
xác định thế nào là kiểu dáng công nghiệp, mà đó chỉ là điều kiện để một đối
tượng được bảo hộ với danh nghĩa là kiểu dáng công nghiệp.
So sánh với các đối tượng khác của sở hữu công nghiệp như nhãn hiệu
và sáng chế thì kiểu dáng công nghiệp có những điểm khác biệt cơ bản. Chức
năng quan trọng nhất của nhãn hiệu là chức năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ
của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Có thể hiểu rằng bất kỳ dấu hiệu nào đáp
ứng được khả năng phân biệt sản phẩm, dịch vụ này với sản phẩm, dịch vụ
khác đều được đăng ký là nhãn hiệu. Trong khi đó, một hình dáng bên ngoài
của sản phẩm nếu được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có trình độ
trung bình thuộc lĩnh vực tương ứng thì lại không được bảo hộ như một kiểu
dáng công nghiệp. Như vậy, rõ ràng, tính sáng tạo trong kiểu dáng công
nghiệp được đề cao hơn so với nhãn hiệu. Mặt khác, nhãn hiệu có thể gắn với
hàng hóa hoặc dịch vụ; còn kiểu dáng công nghiệp thì phải gắn liền với một
sản phẩm nhất định vì đó là “hình dáng bên ngoài của sản phẩm”.
Giống như kiểu dáng công nghiệp, sáng chế cũng là những sản phẩm
của hoạt động sáng tạo do con người tạo ra. Tuy nhiên, trong khi kiểu dáng
công nghiệp chỉ gắn liền với hình dáng bên ngoài của một sản phẩm nhất định
thì sáng chế lại là giải pháp kỹ thuật. Sáng chế có thể thể hiện dưới dạng sản

phẩm hoặc một quy trình được tạo ra bằng cách ứng dụng các quy luật tự
nhiên. Như vậy, kiểu dáng công nghiệp và sáng chế thuộc hai lĩnh vực hoàn

8


toàn khác nhau. Trong khi kiểu dáng công nghiệp chú trọng đến tính thẩm mỹ
của sản phẩm và có thể nhìn thấy bằng cảm quan, thì sáng chế lại là yếu tố kỹ
thuật bên trong của sản phẩm. Kiểu dáng công nghiệp không thể tách rời khỏi
sản phẩm, còn sáng chế có thể là quy trình, nên có thể tồn tại không phụ thuộc
vào sản phẩm.
1.1.2. Vai trò của kiểu dáng công nghiệp trong hệ thống bảo hộ sở
hữu trí tuệ
Kiểu dáng công nghiệp thường là yếu tố hữu hình đầu tiên của sản phẩm
tạo ra sự hấp dẫn đối với người tiêu dùng. Ngoài những đặc điểm chức năng
bên trong của sản phẩm là yếu tố quyết định thị hiếu của người tiêu dùng thì
cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng của kiểu dáng công nghiệp đối với
doanh thu của sản phẩm. Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp đối với
nhiều sản phẩm có cùng chức năng thì sản phẩm nào có kiểu dáng đẹp, bắt mắt
hơn sẽ dễ dàng thu hút người tiêu dùng hơn. Tuy nhiên, trong các đối tượng
được bảo hộ của Luật Sở hữu trí tuệ thì kiểu dáng công nghiệp cũng là một
trong những bộ phận dễ bị đánh cắp nhất và cũng thường xuyên bị bắt chước
nhất. Vì vậy, việc bảo hộ kiểu dáng công nghiệp có vai trò vô cùng to lớn,
không chỉ đối với doanh nghiệp, với người tiêu dùng mà còn với cả xã hội.
Vai trò của việc bảo hộ kiểu dáng công nghiệp đối với xã hội:
“Sở hữu trí tuệ” là một thuật ngữ mang nghĩa rộng, được dùng để mô tả
sự sáng tạo của tư duy. Sự sáng tạo này là tài sản vô hình mà pháp luật cần
phải bảo hộ thông qua việc trao cho tác giả của sự sáng tạo ấy một số quyền
nhất định, nhằm khuyến khích những sáng tạo hữu ích có lợi cho toàn xã hội.
Ở nước ta, sự sáng tạo ấy đã có từ rất lâu, nhưng việc bảo hộ sự sáng

tạo đó mới thực sự được triển khai từ những năm đầu của thập kỷ 80 của thế
kỷ 20. Ngày nay, tất cả các dạng tài sản trí tuệ, trong đó có kiểu dáng công
nghiệp, đều được pháp luật thừa nhận và là đối tượng được Nhà nước bảo hộ.

9


Do tính chất “vô hình” của tài sản trí tuệ mà việc thực hiện các quyền
sở hữu đối với tài sản diễn ra khó khăn hơn. Tài sản trí tuệ luôn đứng trước
một nguy cơ xâm phạm rất lớn. Khoa học công nghệ đã mang lại cho con
người những thành tựu không thể phủ nhận, nhưng đó cũng chính là con dao
hai lưỡi khi khoa học đã bị kẻ xấu lợi dụng làm phương tiện cho hành vi xâm
phạm quyền sử hữu trí tuệ. Đối tượng bị xâm phạm thường là kiểu dáng công
nghiệp, nhãn hiệu và sáng chế. Việc xác định thiệt hại trong những trường hợp
xâm phạm là vô cùng khó khăn. Vì vậy, việc bảo hộ kiểu dáng công nghiệp
càng có ý nghĩa, vai trò to lớn, góp phần ngăn chặn những hành động xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Sở hữu trí tuệ là nhân tố đem lại sự tăng trưởng kinh tế đáng kể cho xã
hội. Việc bảo hộ hữu hiệu kiểu dáng công nghiệp góp phần không nhỏ cho
hoạt động bảo vệ các tài sản trí tuệ. Đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là các quốc
gia phát triển, sở hữu trí tuệ luôn được đánh giá là loại tài sản chiếm vị trí
quan trọng nhất đối với sự tăng trưởng của đất nước. Với mỗi phát minh, sáng
chế ra đời và được bảo hộ, thì nó không chỉ đem lại lợi ích cho chủ thể sở hữu
sản phẩm trí tuệ đó mà đồng thời còn tạo nguồn thu cho nhà nước thông qua
việc thương mại hoá các sản phẩm trí tuệ đó.
Sở hữu trí tuệ là công cụ cạnh tranh hữu hiệu cho doanh nghiệp cũng
như nền kinh tế quốc gia trong hội nhập. Mức độ “giàu có” của mỗi quốc gia
không chỉ được đo bằng hệ thống tài sản hữu hình có thể cân, đong, đo, đếm;
mà quan trọng hơn, tài sản sở hữu trí tuệ mới là một trong những năng lực
nội sinh quan trọng hàng đầu để phát triển bền vững. Quốc gia nào càng làm

tốt vai trò bảo hộ tài sản sở hữu trí tuệ thì năng lực cạnh tranh của quốc gia
đó càng cao.
Với các nước đang phát triển như Việt Nam, năng lực cạnh tranh
thường thấp, khả năng tiếp cận thị trường hạn chế, cho nên để có thể phát

10


triển bền vững và hội nhập hiệu quả, cần thiết phải đánh giá đúng vị trí quan
trọng của việc bảo hộ và phát triển tài sản trí tuệ. Cần thiết phải xây dựng một
hệ thống pháp luật bảo hộ có hiệu quả cao và tương đồng với xu thế phát triển
chung của thế giới. Sẽ là phát triển bền vững nếu chúng ta biết cách khai thác
và sử dụng có hiệu quả tài sản trí tuệ, bởi trí thức là tài sản đặc biệt, tuy không
thể nhìn thấy hay ước lượng, nhưng tài sản đó lại có khả năng tồn tại bền bỉ,
có thể áp dụng vào nhiều đối tượng khác nhau.
Việc thực hiện tốt công tác bảo hộ sở hữu trí tuệ nói chung cũng như
bảo hộ kiểu dáng công nghiệp nói riêng là bước đệm quan trọng để chúng ta
có thể tiếp cận bền vững hơn với các hoạt động thu hút đầu tư, chuyển giao
công nghệ và hội nhập hiệu quả. Tài sản trí tuệ tuy “vô hình” nhưng lại là loại
tài sản dễ bị sao chép, mô phỏng, thậm chí là đánh cắp. Việc đầu tư để tạo ra
một công trình trí tuệ là quá trình đầu tư tốn kém về cả vật chất và ý tưởng,
nên việc đánh cắp các thành quả sáng tạo của đối thủ cạnh tranh là việc dễ
xảy ra. Đó cũng chính là một trong những băn khoăn của những nhà đầu tư
nước ngoài, vì vậy, thực hiện tốt công tác bảo hộ xã hội sẽ tạo ra được một
môi trường đầu tư ổn định, từ đó mới dễ dàng thu hút đầu tư quốc gia.
Như vậy, hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả sẽ là một yếu
tố tiên quyết để chống lại nguy cơ tụt hậu và phát triển đất nước. Mặt khác,
việc các chủ sở hữu tài sản trí tuệ tiến hành đăng ký cũng góp phần cho việc
quản lý của Nhà nước diễn ra thuận lợi hơn. Khi xảy ra tranh chấp, việc giải
quyết tranh chấp cũng sẽ diễn ra nhanh gọn và bảo đảm được quyền lợi cho

chủ sở hữu tài sản trí tuệ.
Vai trò của việc bảo hộ kiểu dáng công nghiệp đối với doanh nghiệp:
Tài sản của doanh nghiệp có thể được chia làm hai loại chính: tài sản
hữu hình (bao gồm nhà xưởng, máy móc, nguồn vốn và cơ sở hạ tầng) và tài
sản vô hình (bao gồm nguồn nhân lực, bí quyết kỹ thuật, ý tưởng, nhãn hiệu,

11


kiểu dáng, sáng chế và những tài sản vô hình khác có được từ khả năng sáng
tạo và đổi mới của họ). Theo truyền thống, tài sản hữu hình chiếm phần lớn
giá trị của doanh nghiệp, và được coi là có vai trò quyết định đối với năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Tuy nhiên, trong những năm gần
đây, quan niệm trên đã có nhiều thay đổi. Nhờ cuộc cách mạng công nghệ
thông tin và sự phát triển của nền kinh tế dịch vụ, ngày càng nhiều doanh
nghiệp nhận ra rằng tài sản vô hình của họ có giá trị lớn hơn nhiều lần so với
các tài sản hữu hình.
Hầu như doanh nghiệp lớn hay nhỏ, cho dù sản xuất sản phẩm hay cung
cấp dịch vụ, thì đều tạo ra và sử dụng rất nhiều quyền sở hữu trí tuệ. Bởi
những quyền sở hữu trí tuệ đó là một phần tài sản quan trọng, quyết định sự
thành bại của một doanh nghiệp. Đặc biệt, đối với những doanh nghiệp sản
xuất sản phẩm thì những tài sản trí tuệ về kiểu dáng công nghiệp luôn chiếm
một vai trò đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu của doanh
nghiệp. Ví dụ, đối với những doanh nghiệp sản xuất điện thoại di động hay ô
tô-xe máy, người tiêu dùng ngày nay không chỉ chú trọng vào những tính
năng sử dụng của sản phẩm mà còn đặc biệt quan tâm đến kiểu dáng sản
phẩm. Với những sản phẩm có cùng tính năng thì sản phẩm nào có kiểu dáng,
màu sắc đẹp hơn, độc đáo hơn sẽ có doanh thu cao hơn.
Quyền sở hữu trí tuệ về kiểu dáng công nghiệp có thể hỗ trợ doanh
nghiệp từ mọi khía cạnh của việc phát triển kinh doanh và xây dựng chiến

lược cạnh tranh: từ phát triển đến thiết kế sản phẩm, cung cấp dịch vụ đến
tiếp thị và thu hút nguồn vốn tài chính đến việc xuất khẩu hoặc mở rộng
hoạt động kinh doanh ra nước ngoài thông qua các hợp đồng li-xăng hoặc
nhượng quyền kinh doanh.
Vì vậy, ngoài việc tập trung cho công tác nghiên cứu, phát triển và mở
rộng hệ thống tài sản trí tuệ cho doanh nghiệp thì các doanh nghiệp cũng cần

12


phải chú trọng đến việc đăng ký bảo hộ cho sản phẩm trí tuệ của doanh
nghiệp mình. Việc các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc công tác đăng ký
bảo hộ sản phẩm trí tuệ cũng góp phần tăng doanh thu cho doanh nghiệp khi
các nhà đầu tư yên tâm hơn khi đầu tư cho doanh nghiệp. Hoặc khi xảy ra
tranh chấp, doanh nghiệp nào đăng ký tài sản sở hữu trí tuệ sẽ được Nhà
nước đứng ra bảo hộ. Trong thực tế hiện nay, việc nhiều sản phẩm của nhiều
doanh nghiệp khác nhau có cùng kiểu dáng, chỉ khác nhau về nhãn hiệu hay
màu sắc thường xuyên xảy ra. Vì thế, các doanh nghiệp cần đăng ký bảo hộ
kiểu dáng công nghiệp cho sản phẩm của doanh nghiệp mình để bảo vệ tài
sản của chính mình.
Đăng ký kiểu dáng công nghiệp làm cho việc kinh doanh có ý nghĩa khi
kiểu dáng đó giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và mang
lại thu nhập bổ sung theo một hoặc nhiều cách sau:
(a) Bằng việc đăng ký kiểu dáng, doanh nghiệp có nhiều khả năng hơn
để ngăn chặn đối thủ cạnh tranh sao chép và bắt chước, và do đó nâng cao vị
thế cạnh tranh của doanh nghiệp;
(b) Các độc quyền có được từ việc đăng ký kiểu dáng góp phần thu hồi
các khoản đầu tư cho việc sáng tạo và tiếp thị sản phẩm có liên quan, do đó
nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp;
(c) Kiểu dáng công nghiệp là tài sản của doanh nghiệp, có thể làm tăng

giá trị thương mại của công ty và sản phẩm của họ. Kiểu dáng càng thành
công thì giá trị của nó đóng góp cho công ty và thương hiệu càng cao;
(d) Một kiểu dáng được bảo hộ cũng có thể được chuyển nhượng quyền
sử dụng (hoặc bán) cho người khác để thu phí. Bằng việc cấp quyền sử dụng
đối với kiểu dáng, doanh nghiệp có thể thâm nhập vào các thị trường mà theo
cách thức khác doanh nghiệp không thể làm được;
(e) Việc đăng ký kiểu dáng công nghiệp khuyến khích hoạt động cạnh

13


tranh công bằng và thương mại trung thực, cũng như thúc đẩy việc sản xuất
các sản phẩm có tính thẩm mỹ cao.
Tóm lại, việc doanh nghiệp tiến hành nghiêm túc công tác đăng ký
kiểu dáng công nghiệp nói riêng và tài sản trí tuệ nói chung tác động trực
tiếp đến sự tồn tại và phát triển của sản phẩm, đến uy tín và doanh thu của
chính doanh nghiệp.
Vai trò của việc bảo hộ kiểu dáng công nghiệp đối với người tiêu dùng:
Xét cho đến cùng, sản phẩm trí tuệ cũng là để phục vụ cho người tiêu
dùng, nhằm thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Trên thị trường hiện nay,
việc các sản phẩm khác nhãn hiệu nhưng có chung kiểu dáng thường xuyên
xảy ra. Và cũng không phải người tiêu dùng nào cũng đủ kiến thức để phân
biệt chúng với nhau khi nhìn bề ngoài thì các sản phẩm này có kiểu dáng gần
như giống nhau hoàn toàn.
Việc doanh nghiệp tiến hành đăng ký bảo hộ đối với kiểu dáng công
nghiệp cho sản phẩm của mình và công bố công khai cũng là cách giúp người
tiêu dùng phân biệt được các sản phẩm của các nhà sản xuất khác nhau, tránh
mua phải hàng giả, hàng kém chất lượng; giúp cho người tiêu dùng có thể trở
thành nhà tiêu dùng thông thái.
Quy định của pháp luật Việt Nam về đăng ký kiểu dáng công nghiệp

1.2.1. Đối tượng của kiểu dáng công nghiệp
1.2.

Về mặt khái niệm, kiểu dáng công nghiệp gồm tất cả những đặc điểm
thuộc về hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình khối,
đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này. Chủ sở hữu có thể tiến
hành các thủ tục đăng ký cần thiết để yêu cầu sự bảo hộ của Nhà nước đối với
một kiểu dáng công nghiệp nhất định.
Tuy nhiên, không phải tất cả các sản phẩm với hình dáng bên ngoài
khác biệt đều được bảo hộ. Tại Việt Nam, một số hình dáng bên ngoài của sản

14


phẩm không được bảo hộ với danh nghĩa kiểu dáng công nghiệp trong các
trường hợp sau:
Hình dáng bên ngoài của sản phẩm do đặc tính kỹ thuật bắt buộc
phải có:
Trên thị trường, có nhiều sản phẩm để đảm bảo đúng chức năng sử
dụng mà hình dáng của chúng giống nhau, dù được sản xuất bởi các doanh
nghiệp khác nhau. Ví dụ quả bóng đá có thể được sản xuất bởi rất nhiều
doanh nghiệp nhưng luôn có hình cầu. Nếu nhà nước bảo hộ cho một doanh
nghiệp nào đó sản xuất bóng đá để thực hiện đúng chức năng của nó thì sẽ
ngăn cản sự phát triển của các doanh nghiệp khác. Vì vậy, đối với những sản
phẩm do đặc tính kỹ thuật hay chức năng của nó buộc phải có hình dáng nhất
định thì không được bảo hộ là kiểu dáng công nghiệp.
Hình dáng bên ngoài của công trình xây dựng dân dụng hoặc
công nghiệp:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 Luật sở hữu trí tuệ thì bản họa đồ,
sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học

được coi là tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả. Hình dáng bên ngoài của các
công trình xây dựng dân dụng hoặc công nghiệp thường được quy định trong
các bản thiết kế bằng các bản sơ đồ, bản vẽ đặc trưng. Trong trường hợp này,
các bản vẽ đó đã được coi là tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả. Vì vậy,
hình dáng bên ngoài của các công trình đó sẽ không được bảo hộ là kiểu dáng
công nghiệp nữa.
Mặt khác, các công trình xây dựng dân dụng hoặc công nghiệp có thể có
hình dáng bên ngoài giống nhau, bởi vì hình dáng bên ngoài của các công trình
xây dựng cũng có thể coi là do đặc tính kỹ thuật bắt buộc phải có; nhưng điểm
quyết định sự khác biệt giữa các công trình không phải là hình dáng; mà là thiết
kế bên trong công trình như vật liệu xây dựng, cách bố trí đồ trang trí, nội thất

15


bên trong. Vì vậy, hình dáng bên ngoài của công trình xây dựng không được
bảo hộ với danh nghĩa là kiểu dáng công nghiệp là hoàn toàn hợp lý.
Hình dáng của sản phẩm không nhìn thấy được trong quá trình sử
dụng sản phẩm:
Một trong những tính năng quan trọng của kiểu dáng công nghiệp là
tính thẩm mỹ nhằm thu hút sự chú ý của người tiêu dùng, từ đó đẩy mạnh quá
trình tiêu thụ sản phẩm. Đối với những loại sản phẩm mà hình dáng bên ngoài
là một trong những đặc điểm quan trọng ảnh hưởng đến sức tiêu thụ sản phẩm
thì việc bảo hộ cho những hình dáng đó là cần thiết. Tuy nhiên, có những loại
sản phẩm mà trong suốt quá trình sử dụng chúng ta không hề nhìn thấy nó thì
kiểu dáng của sản phẩm đó không ảnh hưởng trực tiếp đến sức mua của người
tiêu dùng. Ví dụ một số bộ phận trong động cơ của xe máy, trong suốt quá
trình sử dụng chúng ta đều không nhìn thấy. Vì vậy trong trường hợp này,
hình dáng của sản phẩm chỉ là đặc tính kỹ thuật bắt buộc phải có, việc bảo hộ
kiểu dáng cũng là không cần thiết.

1.2.2. Tiêu chuẩn bảo hộ kiểu dáng công nghiệp
Luật Sở hữu trí tuệ đã quy định rõ kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ
nếu “có tính mới”, “có tính sáng tạo” và “có khả năng áp dụng công nghiệp”.
Tính mới của kiểu dáng công nghiệp:
Điều 65 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Kiểu dáng công nghiệp
được coi là có tính mới nếu kiểu dáng công nghiệp đó khác biệt đáng kể
với những kiểu dáng công nghiệp đã bị bộc lộ công khai dưới hình thức
sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong
nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên
nếu đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp được hưởng quyền ưu tiên”.
Hai kiểu dáng công nghiệp không được coi là khác biệt đáng kể với nhau
nếu chỉ khác biệt về những đặc điểm tạo dáng không dễ dàng nhận biết, ghi
nhớ và không thể dùng để phân biệt tổng thể hai kiểu dáng công nghiệp đó.
16


Đặc điểm tạo dáng là một trong những đặc điểm cơ bản tạo nên kiểu
dáng đặc trưng cho sản phẩm. Đặc điểm tạo dáng của một kiểu dáng công
nghiệp là yếu tố thể hiện dưới dạng đường nét, hình khối, màu sắc, tương
quan vị trí hoặc tương quan kích thước để khi kết hợp với các đặc điểm (dấu
hiệu) khác tạo thành một tập hợp cần và đủ để tạo thành kiểu dáng công
nghiệp đó. Theo đó, đặc điểm tạo dáng cơ bản là đặc điểm tạo dáng dễ dàng
nhận biết/ghi nhớ, cần và đủ để xác định kiểu dáng công nghiệp và phân biệt
kiểu dáng công nghiệp với kiểu dáng công nghiệp khác dùng cho sản phẩm
cùng loại. Những đặc điểm dạo dáng không đáp ứng điều kiện trên thì được
gọi là đặc điểm tạo dáng không cơ bản.
Các yếu tố sau đây không được coi là đặc điểm tạo dáng của kiểu dáng
công nghiệp:
• Hình khối, đường nét được quyết định bởi chính chức năng kỹ thuật
của sản phẩm (ví dụ: hình dạng dẹt, phẳng của đĩa ghi dữ liệu được quyết

định bởi chuyển động tương đối giữa đĩa và đầu đọc...);
• Yếu tố mà sự có mặt của nó trong tập hợp các dấu hiệu không đủ gây
ấn tượng thẩm mỹ (ấn tượng về hình dáng của sản phẩm không thay đổi khi có
mặt và khi không có mặt yếu tố đó; ví dụ: sự thay đổi một hình khối, đường nét
quen thuộc nhưng sự thay đổi đó không đủ để nhận biết, do đó hình khối,
đường nét đã thay đổi vẫn chỉ được nhận biết là hình khối, đường nét cũ);
• Vật liệu dùng để chế tạo sản phẩm;
• Các dấu hiệu được gắn, dán... lên sản phẩm chỉ để thực hiện chức
năng thông tin, hướng dẫn về nguồn gốc, đặc điểm, cấu tạo, công dụng, cách
sử dụng... sản phẩm đó; ví dụ: các từ ngữ trên nhãn hàng hoá;
• Kích cỡ của sản phẩm, trừ trường hợp thay đổi kích cỡ trang trí của
mẫu vải và vật liệu tương tự.

17


Tính mới của kiểu dáng công nghiệp còn phải đảm bảo được điều kiện
chưa bị bộc lộ công khai. Kiểu dáng công nghiệp được coi là chưa bị bộc lộ
công khai nếu chỉ có một số người giới hạn được biết và có nghĩa vụ giữ bí
mật về kiểu dáng công nghiệp đó.
Kiểu dáng công nghiệp không bị coi là mất tính mới nếu được công bố
trong các trường hợp sau đây với điều kiện đơn đăng ký kiểu dáng công
nghiệp được nộp trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày công bố:
• Kiểu dáng công nghiệp bị người khác công bố nhưng không được

phép của người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật Sở hữu trí
tuệ (tác giả tạo ra kiểu dáng công nghiệp; tổ chức, cá nhân đầu tư kinh phí,
phương tiện vật chất cho tác giả dưới hình thức giao việc, thuê việc, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác và thỏa thuận đó không trái với quy
định về kiểu dáng công nghiệp được tạo ra do sử dụng cơ sở vật chất - kỹ

thuật, kinh phí từ ngân sách nhà nước);
• Kiểu dáng công nghiệp được người có quyền đăng ký quy định tại

Điều 86 của Luật Sở hữu trí tuệ công bố dưới dạng báo cáo khoa học;
• Kiểu dáng công nghiệp được người có quyền đăng ký quy định tại

Điều 86 của Luật Sở hữu trí tuệ trưng bày tại cuộc triển lãm quốc gia của
Việt Nam hoặc tại cuộc triển lãm quốc tế chính thức hoặc được thừa nhận
là chính thức.
Tại Mục 35.7 Thông tư 01/2007/TT-BKHCN quy định: Để đánh giá
tính mới của kiểu dáng công nghiệp, phải tiến hành so sánh tập hợp các đặc
điểm tạo dáng cơ bản của kiểu dáng công nghiệp đó với tập hợp các đặc điểm
tạo dáng cơ bản của kiểu dáng công nghiệp trùng lặp/tương tự gần nhất dùng
làm kiểu dáng công nghiệp đối chứng tìm được trong quá trình tra cứu thông
tin. Kiểu dáng công nghiệp được coi là mới nếu:
• Không tìm thấy kiểu dáng công nghiệp đối chứng trong nguồn thông

18


tin tối thiểu bắt buộc; hoặc
• Mặc dù có tìm thấy kiểu dáng công nghiệp đối chứng trong nguồn
thông tin tối thiếu hoặc bắt buộc nhưng kiểu dáng công nghiệp nêu trong đơn
có ít nhất một đặc điểm tạo dáng cơ bản không có mặt trong tập hợp các đặc
điểm tạo dáng cơ bản của kiểu dáng công nghiệp đối chứng; hoặc
• Kiểu dáng công nghiệp đối chứng chính là kiểu dáng công nghiệp
được công bố/bộc lộ thuộc trường hợp quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều
65 Luật sở hữu trí tuệ.
Ngoài Luật Sở hữu trí tuệ, các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham
gia cũng ghi nhận về “tính mới” của kiểu dáng công nghiệp. Điều kiện về “có

tính mới” được nêu ra trong Điều 10 Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ như là một trong các điều kiện để được bảo hộ: “Mỗi bên quy định việc
bảo hộ các kiểu dáng công nghiệp được tạo ra một cách độc lập, có tính mới
hoặc nguyên gốc”.
Tại Khoản 2 Điều 25 Mục 4 Hiệp định TRIPS quy định khá linh hoạt:
“Các thành viên phải bảo hộ các kiểu dáng công nghiệp mới hoặc nguyên
gốc được tạo ra một cách độc lập”. Hiệp định cũng nói rõ, các Thành viên có
thể quy định rằng kiểu dáng công nghiệp không được coi là mới hoặc nguyên
gốc nếu không khác biệt cơ bản với những kiểu dáng đã biết hoặc với tổ hợp
các đặc điểm tạo dáng của kiểu dáng đã biết; các Thành viên có thể quy định
rằng việc bảo hộ đó không áp dụng cho những kiểu dáng mà hình dáng chủ
yếu do các đặc tính kỹ thuật và chức năng quyết định.
Có thể thấy cả hai Hiệp định trên đều quy định về “tính nguyên gốc” và
“tính mới”. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chỉ quy định về “tính mới” mà
không đặt ra tiêu chí về “tính nguyên gốc”. Pháp luật một số nước trên thế
giới cũng chỉ thấy quy định về “tính mới”. Như Luật kiểu dáng công nghiệp
của Nhật Bản quy định kiểu dáng công nghiệp được coi là có “tính mới” và

19


×