Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở hà nội ( 1958 1975 )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (857.1 KB, 121 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
…………………………………

LƯU QUỐC KHÁNH

XÂY DỰNG HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở HÀ NỘI
(1958 - 1975)

LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam

Hà Nội - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
…………………………………

LƯU QUỐC KHÁNH

XÂY DỰNG HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở HÀ NỘI
(1958 - 1975)

LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Mã số
: 60.22.56


Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Văn Thịnh

Hà Nội - 2012

2


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………………
Chương 1: XÂY DỰNG HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở HÀ
NỘI TỪ NĂM 1958 ĐẾN NĂM 1964 …………………………...
1.1. Xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở Hà Nội từ năm
1958 đến năm 1960 ………………………………………………
1.1.1. Chủ trương chung của Đảng về xây dựng hợp tác xã
nông nghiệp ……………………………………………………….
1.1.2. Tình hình nông nghiệp Hà Nội và chủ trương của
Đảng bộ Thành phố ……………………………………………….
1.1.3. Quá trình tổ chức thực hiện …………………………
1.2. Tăng cường chỉ đạo đưa hợp tác xã nông nghiệp Hà Nội
từ bậc thấp lên bậc cao từ năm 1961 đến năm 1964 .......................
1.2.1. Chủ trương chung của Đảng ………………………..

4
12
12
12
17
21
30
30


1.2.2. Sự vận dụng của Đảng bộ Hà Nội và quá trình tổ
chức thực hiện ……………………………………………………
Chương 2: HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở HÀ NỘI TỪ NĂM
1965 ĐẾN NĂM 1975 ……………………………………………
2.1. Xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở Hà Nội những
năm chống chiến tranh phá hoại (1965 - 1972) …………………..
2.1.1. Chủ trương chung của Đảng ………………………
2.1.2. Sự vận dụng của Đảng bộ Hà Nội và quá trình tổ
chức thực hiện …………………………………………………….
2.2. Củng cố hợp tác xã nông nghiệp ở Hà Nội từ năm 1973
đến năm 1975 …………………………………………………….
2.2.1. Chủ trương chung của Đảng về củng cố tổ chức,
phát triển sản xuất nông nghiệp…………………………………...
2.2.2. Sự vận dụng của Đảng bộ Thành phố và quá trình
tổ chức thực hiện ………………………………………………….

3

34
50
50
50
55

74
74
78



Chương 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ………...
3.1. Một số nhận xét ………………………………………..

87
87

3.1.1. Ưu điểm …………………………………………...

87

3.1.2. Hạn chế ……………………………………………

93

3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu ………………………….

99

KẾT LUẬN ………………………………………………...
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………..
PHỤ LỤC …………………………………………………..

105
109
118

4


NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


CNTB

Chủ nghĩa tư bản

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

HTX

Hợp tác xã

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

5


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp
Mỹ, cũng như nhiều địa phương khác trên miền Bắc, Thủ đô Hà Nội, trung
tâm chính trị, kinh tế văn hóa, trái tim của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
bước vào thời kỳ lịch sử mới - thời kỳ khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa,
tiến hành cải tạo các thành phần kinh tế theo chủ nghĩa xã hội, từng bước xây
dựng hậu phương của chiến tranh cách mạng.
Công cuộc cải tạo, xây dựng bảo vệ Thủ đô theo con đường XHCN có
ảnh hưởng to lớn và quyết định đến tiến trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến

lược cách mạng. Sự phát triển của Thủ đô Hà Nội không chỉ tác động toàn
diện đến quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc mà còn phản ánh sự
vững mạnh của đất nước, của chế độ mới, một nhân tố quyết định cuộc đấu
tranh giải phóng miền Nam.
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng bộ Hà Nội đã xác
định nông nghiệp có vai trò, vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế Thủ
đô. Sau ngày giải phóng, cùng với lãnh đạo ổn định tình hình, củng cố hệ
thống chính trị, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, Đảng bộ
Thành phố tập trung chỉ đạo đẩy mạnh cải cách ruộng đất, nhanh chóng vượt
qua thử thách, tạo điều kiện đưa người nông dân tiến lên một bước trong sản
xuất nông nghiệp. Thành ủy đã chủ trương vận động nông dân xây dựng các
tổ đổi công, đoàn kết giúp đỡ nhau khắc phục khó khăn để phục hóa, chống
đói, chống hạn, phục hồi sản xuất. Hội nghị Thành ủy tháng 3 - 1956 đã xác
định: Ngay từ bây giờ cần chấn chỉnh và phát triển các tổ đổi công cho rộng
khắp…; chú ý không được gò ép nông dân, phải vận động, phải thuyết phục

6


nông dân tự nguyện, tự giác đi vào con đường tập thể. Trên cơ sở phát triển tổ
đổi công được tốt, sẽ tiến hành xây dựng hợp tác xã nông nghiệp.
Ngay khi phong trào tổ đổi công đang mở rộng, Thành ủy đã chỉ đạo xây
dựng thí điểm hợp tác xã nông nghiệp. Ngày 22 - 6 - 1958, Hợp tác xã Đại Từ
(Đại Kim) là hợp tác xã nông nghiệp đầu tiên ở ngoại thành Hà Nội được
thành lập. Đến cuối tháng 12 - 1958, cuộc vận động tổ chức thí điểm hợp tác
xã được mở rộng, đã xây dựng được 30 hợp tác xã ở 19 xã với 939 hộ, là tiền
đề đóng góp cho sự phát triển của nền nông nghiệp Thủ đô, góp phần cải
thiện đời sống người nông dân.
Trong quá trình bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, cùng với sự phát
triển của các ngành kinh tế, trong nông nghiệp miền Bắc nói chung và của

Thủ đô Hà nói riêng, các HTX nông nghiệp chiếm một vị trí quan trọng, vừa
cố kết người dân vào con đường làm ăn tập thể nhằm xây dựng đời sống ấm
no, vừa góp phần làm tròn vai trò là hậu phương lớn cung cấp sức người, sức
của cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Để có thể thấy được rõ vị trí, vai trò của HTX nông nghiệp trong quá
trình xây dựng CNXH của miền Bắc thời kỳ 1954 - 1975, việc nhận thức
khách quan quá trình lãnh đạo của Đảng bộ thành phố Hà Nội đã chỉ đạo nhân
dân thủ đô tiến hành xây dựng mô hình hợp tác xã ra sao, sự phát triển từ hợp
tác xã bậc thấp lên hợp tác xã bậc cao diễn tiến thế nào, qua đó đánh giá
những thành tựu, hạn chế của việc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp của Hà
Nội là một việc làm hết sức có ý nghĩa và cần thiết. Trên cơ sở đó, rút ra
những nguyên nhân, bài học lịch sử từ quá trình lãnh đạo chỉ đạo, xây dựng
hợp tác xã là những kinh nghiệm quý báu cho thời kỳ đổi mới nông nghiệp
nông thôn hiện nay ở Hà Nội và cả nước. Vì vậy, chúng tôi chọn vấn đề “Xây
dựng hợp tác xã nông nghiệp ở Hà Nội (1958 - 1975)” làm đề tài luận văn
Thạc sỹ của mình.

7


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hợp tác hóa nông nghiệp là một cuộc cách mạng lớn trong quá trình phát
triển của kinh tế nông nghiệp Việt Nam. Trải qua nửa thế kỷ tồn tại và phát
triển, các HTX có một vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở
miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam. Vì thế HTX nông
nghiệp đã trở thành đề tài hấp dẫn đối với nhiều cơ quan, nhiều nhà nghiên
cứu. Có thể phân thành mấy loại công trình chủ yếu sau đây:
Một là các công trình chuyên khảo của các nhà nghiên cứu về hợp tác xã
nông nghiệp:
- “Mô hình phát triển Hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam” của tác giả

Hồ Văn Vĩnh, Nguyễn Quốc Thái, Nxb Nông nghiệp, H, 2005.
- “Hợp tác xã nông nghiệp Việt Nam - lịch sử - vấn đề - triển vọng” của
tác giả Chử Văn Lâm, Nguyễn Thái Huyền, Nxb Sự thật, H, 1992.
- “Nông nghiệp Việt Nam 1945 - 1995” của tác giả Nguyễn Sinh Cúc,
Nxb Thống kê, H, 1995.
“Hợp tác hóa nông nghiệp ở miền Bắc Việt Nam” của tác giả Bùi Công
Trừng, Lưu Thanh Hà, Nxb Sự thật, H, 1960.
Các công trình trên đã mô tả khá chi tiết về phong trào hợp tác hóa nông
nghiệp ở miền Bắc nước ta cũng như về các mô hình hợp tác xã nông nghiệp
Việt Nam: từ quá trình hình thành, phát triển cũng như những tồn tại và làm
thế nào để khắc phục những hạn chế, tiếp tục phát triển HTX nông nghiệp ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay. Những tác phẩm trên giúp tôi có thể hình
dung được một cách khá đầy đủ về mô hình hợp tác xã nông nghiệp của nước
ta, bổ sung, liên hệ và so sánh về các mặt, nội dung của HTX nông nghiệp để
hoàn thiện luận văn của mình.

8


Hai là các bài viết đăng tải trên tạp chí nghiên cứu lịch sử. Đây là loại
công trình khá phong phú, các tác giả đã đề cập cụ thể đến nhiều khía cạnh
của HTX như vai trò, vị trí của HTX, làm thế nào để nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh tế của HTX… Có thể kể đến 1 số công trình như:
- “Bước đầu tìm hiểu về quá trình hình thành và phát triển tư tưởng làm
chủ tập thể của người nông dân Việt Nam”, tác giả Đinh Thu Cúc, Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, số 2 (1976).
- “Tìm hiểu quá trình từng bước củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất
XHCN trong các HTX sản xuất nông nghiệp ở miền Bắc nước ta”, tác giả
Đinh Thu Cúc, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 175 (4/1977).
- “Nhìn lại quá trình chuyển hóa hợp tác xã sản xuất nông nghiệp từ bậc

thấp lên bậc cao ở miền Bắc nước ta”, tác giả Trần Đức Cường, Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, số 187 (4/1979).
Các bài viết trên cũng giúp tôi thấy được sự đa dạng của HTX nông
nghiệp ở Việt Nam, nó cho thấy viết về HTX nông nghiệp có rất nhiều mặt,
nhiều vấn đề cần nghiên cứu trong đó điều quan trọng nhất là làm sao xây
dựng được HTX nông nghiệp toàn diện, khắc phục những hạn chế, tồn tại và
nêu lên được những giải pháp để hoàn thiện và tiếp tục phát triển HTX nông
nghiệp trong giai đoạn hiện nay.
Ba là một số luận văn, luận án cũng đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu về HTX
nông nghiệp như:
“Đảng bộ Hà Nội lãnh đạo, tổ chức hợp tác hóa nông nghiệp (1954 1975)”, tác giả Lương Thị Phương Thảo, Luận văn Thạc sỹ, H, 1996.
- “Đảng bộ Thái Bình lãnh đạo xây dựng và phát triển HTX nông nghiệp
(1958 - 1975)”, tác giả Phạm Thị Kim Lan, Luận văn Thạc sỹ, H, 2006.
Luận văn của tác giả Lương Thị Phương Thảo “Đảng bộ Hà Nội lãnh
đạo, tổ chức hợp tác hóa nông nghiệp (1954 - 1975)” đã tìm hiểu, nghiên cứu

9


sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Hà Nội với phong trào hợp tác hóa nông
nghiệp của Thủ đô giai đoạn 1954 - 1975, trong đó có đề cập đến vấn đề hợp
tác xã nông nghiệp. Công trình này đã tập trung phân tích về phong trào hợp
tác hóa nông nghiệp của Thủ đô Hà Nội dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành
phố, từ công cuộc cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế đến xây dựng hợp tác
xã nông nghiệp trong giai đoạn thời bình (1954 - 1964) và thời chiến (1965 1975) nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp của Thủ đô, cùng với nhân dân
miền Bắc là hậu phương chi viện cho tiền tuyến miền Nam trong cuộc kháng
chiến chống đế quốc Mỹ. Tuy nhiên, đề tài chưa hệ thống đầy đủ các chủ
trương của Trung ương về HTX nông nghiệp đồng thời chưa đi sâu nghiên
cứu toàn diện về xây dựng hợp tác xã nông nghiệp của Thủ đô trong giai đoạn
1958 - 1975.

Công trình “Đảng bộ Hà Nội lãnh đạo, tổ chức hợp tác hóa nông nghiệp
(1954 - 1975)” cũng đã nêu lên những ưu điểm và tồn tại của việc xây dựng
HTX nông nghiệp của Thủ đô trong giai đoạn này nhưng chủ yếu là đánh giá
thành quả và hạn chế của mô hình quản lý kinh tế nông nghiệp dưới sự lãnh
đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Thành phố theo hướng hợp tác hóa - tập thể hóa.
Đề tài “Xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở Hà Nội (1958 - 1975)” một
mặt kế thừa những tư liệu về HTX nông nghiệp Hà Nội trong công trình luận
văn của tác giả Lương Thị Phương Thảo, mặt khác tiếp tục bổ sung, đi sâu
nghiên cứu một cách toàn diện về xây dựng HTX nông nghiệp của Thủ đô
trên tất cả các mặt: không chỉ ở quy mô mà còn ở cơ cấu, kế hoạch, quản lý
lao động, quản lý tài vụ, quan hệ kỹ thuật, quan hệ sản xuất. Đồng thời, qua
đề tài, chúng tôi cũng mong muốn chỉ ra diễn tiến, quá trình xây dựng, phát
triển của HTX nông nghiệp Thủ đô theo trình tự rõ ràng, thống nhất: hệ thống
các chủ trương của Đảng về HTX nông nghiệp những năm 1958 - 1975, sự
vận dụng của Đảng bộ Hà Nội và quá trình tổ chức thực hiện.

10


Luận văn “Xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở Hà Nội (1958 - 1975)”
tiếp tục bổ sung thêm nhiều nguồn tư liệu, đặc biệt là tài liệu lưu trữ của
Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội để có thể cái nhìn đầy đủ hơn,
hoàn thiện hơn về HTX nông nghiệp của Thủ đô trong giai đoạn 1958 - 1975.
Tất cả những công trình nghiên cứu trên đã giúp người viết có những
hình dung ban đầu về hợp tác xã với nhiều phương thức hoạt động và sản xuất
khác nhau. Đồng thời nó cung cấp những kiến thức khái quát về HTX nông
nghiệp ở nước ta nói chung, và một số vấn đề cụ thể về sự lãnh đạo của Đảng
trong việc xây dựng HTX nông nghiệp miền Bắc giai đoạn 1958 - 1975. Đó là
những cơ sở quan trọng giúp chúng tôi hoàn thành luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn nhằm làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ Hà Nội trong việc xây
dựng và phát triển hợp tác xã nông nghiệp giai đoạn 1958 - 1975; những
chuyển biến của kinh tế nông nghiệp Hà Nội trong giai đoạn 1958 - 1975,
đồng thời đưa ra một số nhận xét về thành tựu và hạn chế; rút ra những bài
học kinh nghiệm chủ yếu trong lãnh đạo tổ chức hợp tác xã nông nghiệp của
Đảng bộ Hà nội thời kỳ 1958 - 1975.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các chủ trương chính sách của Đảng về HTX nông
nghiệp và sự vận dụng của Đảng bộ Hà Nội trong quá trình xây dựng HTX
nông nghiệp trên địa bàn Thủ đô và những chuyển biến của HTX nông nghiệp
dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ những năm từ 1958 đến 1975.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu toàn diện về HTX nông nghiệp
của Hà Nội bao gồm: quản lý sản xuất, quản lý lao động, quản lý tài vụ (các
nội dung và biện pháp tiến hành), công tác lãnh đạo, chỉ đạo.

11


- Về thời gian: tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng của
Đảng bộ Hà Nội từ 1958 đến 1975.
- Về không gian: giới hạn nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ Hà Nội
đối với nông nghiệp ngoại thành.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu:
5.1. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp luận: Luận văn có sử dụng phương pháp chung của ngành
khoa học xã hội: phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp lịch sử (trình bày theo diễn tiến

lịch sử từ 1958 - 1975) kết hợp với phương pháp logic là hai phương pháp
chính. Luận văn cũng sử dụng phương pháp so sánh, thống kê, phân tích, tổng
hợp và lập bảng biểu để làm căn cứ có thêm sức thuyết phục.
5.2. Nguồn tài liệu:
Để thực hiện luận văn chúng tôi dựa vào:
- Các Văn kiện Đảng, Chỉ thị, Nghị quyết của Thành ủy về HTX nông
nghiệp.
- Các chương trình, báo cáo của Ủy ban, các ban ngành của Thành phố.
- Một số công trình chuyên khảo của các tác giả về HTX nông nghiệp.
- Các công trình đăng tải trên báo chí.
6. Đóng góp của Luận văn:
- Tập hợp hệ thống hóa nguồn tư liệu về chủ trương, giải pháp xây dựng
HTX nông nghiệp của Đảng và Đảng bộ Hà Nội
- Phân tích làm rõ một số ưu điểm và hạn chế trong quá trình Đảng bộ
Hà Nội lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở Thủ
đô trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ

12


- Rút ra một số kinh nghiệm có tác dụng định hướng, hoàn thiện hợp tác
xã nông nghiệp trong thời kỳ mới, qua đó phục vụ tổ chức sản xuất nông
nghiệp của Hà Nội.
7. Bố cục của Luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phần tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở Hà Nội từ năm 1958 đến
năm 1964
Chương 2: Hợp tác xã nông nghiệp ở Hà Nội từ năm 1965 đến năm 1975
Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm


13


Chương 1: XÂY DỰNG HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở HÀ NỘI
TỪ NĂM 1958 ĐẾN NĂM 1964
1.1. Xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở Hà Nội từ năm 1958 đến
năm 1960
1.1.1. Chủ trương chung của Đảng về xây dựng hợp tác xã nông
nghiệp
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi mở ra cho đất nước
thời kỳ phát triển mới với 2 nhiệm vụ chiến lược khác nhau ở 2 miền. Miền
Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, miền Bắc được hoàn
toàn giải phóng tiến hành cách mạng XHCN.
Đối với cách mạng miền Bắc, ngay từ những ngày đầu sau giải phóng,
Đảng đã tập trung lãnh đạo thực hiện nốt những nhiệm vụ của cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhằm tạo tiền đề xây dựng CNXH. Nghị quyết Bộ
chính trị (9/1954) và Nghị quyết lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa II
(5/1955) đã chỉ rõ: muốn khôi phục kinh tế, trước hết cần hoàn thành cải cách
ruộng đất, chia ruộng đất cho nông dân, xóa bỏ chế độ sở hữu ruộng đất của
giai cấp phong kiến. Thực hiện chủ trương đó của Đảng, công cuộc cải cách
ruộng đất đã được tiến hành một cách nhanh chóng và đến năm 1957 đã cơ
bản hoàn thành. Mặc dù cải cách ruộng đất đã mắc một số sai lầm nghiêm
trọng, nhưng thành quả lớn nhất của nó đã tạo ra sự chuyển biến sâu sắc, toàn
diện đối với nông dân và nền nông nghiệp miền Bắc, đưa nông nghiệp miền
Bắc thoát khỏi sự cùm trói của phương thức bóc lột phong kiến đã tồn tại
trong nhiều thế kỷ; đưa nông dân nô lệ, làm thuê lên vị trí người nông dân tự

14



do. “Trong lịch sử tiến hóa của giai cấp nông dân, đây là một bước nhảy vọt
có ý nghĩa cách mạng” [24; tr.9].
Tuy nhiên cải cách ruộng đất đã tạo ra một vấn đề mới trong nông
nghiệp nông thôn đòi hỏi phải giải quyết khi xây dựng CNXH, đó là tình
trạng nhỏ lẻ, manh mún trong sản xuất nông nghiệp. Cải cách ruộng đất đã
đem lại ruộng đất cho hơn 2 triệu hộ nông dân nhưng đồng thời cũng biến họ
thành hơn 2 triệu đơn vị sản xuất độc lập. Sau khi có ruộng đất, sự phân hóa
trong nội bộ dân diễn ra như một xu thế không thể tránh khỏi trong nền sản
xuất nhỏ của người nông dân cá thể. Lối làm ăn nhỏ lẻ như vậy mâu thuẫn với
nền sản xuất lớn XHCN. Thực tế đó đòi hỏi Đảng phải có những chính sách
nhằm cải tạo nền sản xuất nhỏ cá thể của người nông dân, đưa họ tiến lên con
đường làm ăn tập thể XHCN. Hơn nữa để phục vụ cho mục tiêu công nghiệp
hóa XHCN đối với miền Bắc thì vấn đề phát triển một nền nông nghiệp đủ
mạnh là yêu cầu không thể thiếu.
Chính vì vậy, khi tiến hành cải tạo XHCN toàn bộ nền kinh tế quốc dân
ở miền Bắc, Đảng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của cải tạo theo hướng
XHCN: cải tạo nông nghiệp là khâu chính của toàn bộ công cuộc cải tạo
XHCN. Để thực hiện nhiệm vụ trên chúng ta phải tiến hành hợp tác hóa, xây
dựng thành công HTX nông nghiệp.
Trước khi phát động phong trào hợp tác hóa, Đảng chủ trương phát triển
hình thức đổi công trong sản xuất nông nghiệp. Từ giữa năm 1955, sau hội
nghị tổng kết đổi công (3/1955) và sau chỉ thị số 31 của Trung ương Đảng
(6/1955), phong trào đổi công đã tiến triển rất nhanh. Từ tháng 6 đến tháng 12
- 1958, tỷ lệ nông hộ vào tổ đổi công đã từ 41% lên tới 65%. Tuy vậy, tổ đổi
công vẫn chỉ là một hình thức tổ chức đầu tiên để nông dân tập dượt trên con
đường đi vào làm ăn tập thể. Nó mới chỉ là tổ chức sản xuất có mầm mống
CNXH. Với quy mô một vài chục hộ, làm đổi công cho nhau trên các thửa

15



ruộng vẫn còn thuộc quyền sử dụng từng gia đình nông dân; tổ đổi công chưa
có ruộng đất, công cụ vốn liếng đáng kể để sản xuất. Vì thế, tổ đổi công
không còn là một hình thức tổ chức thích hợp trước những yêu cầu đẩy mạnh
sản xuất nữa. Nó phải được thay thế bằng một hình thức mới cao hơn - các
HTX nông nghiệp bậc thấp.
Đồng thời với việc phát triển tổ đổi công, trong thời gian này Đảng cũng
chủ trương nhanh chóng xây dựng thí điểm một số HTX nông nghiệp, lấy đó
làm cơ sở thực tiễn để định hướng công cuộc cải tạo XHCN đối với nông
nghiệp, nhằm từng bước tích lũy kinh nghiệm, bồi dưỡng cán bộ, chuẩn bị
điều kiện mở rộng dần các HTX sau này. Cho đến tháng 10/1958 đã xây dựng
42 HTX thí điểm. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm về mô hình xây dựng
HTX nông nghiệp, hội nghị Trung ương Đảng tháng 11/1958 đi đến kết luận:
“Hợp tác hóa nông nghiệp là yêu cầu phát triển khách quan của nông thôn, là
nhiệm vụ trọng tậm của Đảng trong giai đoạn mới”, “Muốn phát triển nông
nghiệp, chúng ta chỉ có một con đường là phải ra sức đẩy mạnh hợp tác hóa
nông nghiệp” [47; tr.466]. Xuất phát từ nhận thức: muốn xóa bỏ tận gốc chế
độ bóc lột, chặn đứng con đường phát triển tự phát của chủ nghĩa tư bản ở
nông thôn; muốn có cơ sở để tiến hành công nghiệp hóa XHCN; muốn củng
cố khối liên minh công nông trong thời kỳ lịch sử mới… Đảng ta trên cơ sở
vận dụng những kinh nghiệm của các nước XHCN, đã quyết định tiến hành
hợp tác hóa, xây dựng các HTX nông nghiệp trên toàn miền Bắc, coi đó là
khâu then chốt trong toàn bộ công cuộc cải tạo XHCN ở nước ta trong những
giai đoạn tiếp theo.
Hợp tác hóa là cơ sở để tiến lên thực hành nhiệm vụ cách mạng kỹ thuật
trong nông nghiệp, biến nông nghiệp lạc hậu thành một nền nông nghiệp
XHCN tiên tiến. “Thực tiễn cũng chỉ rõ là ngay trong thời kỳ cách mạng
XHCN, cùng với việc thay đổi quan hệ sản xuất, với tổ chức lao động tập thể,


16


nhờ phong trào thi đua XHCN kích thích mạnh mẽ quần chúng nông dân
không những nâng cao được năng suất lao động mà còn có những sáng tạo
lớn lao về cải tiến kỹ thuật, có thể đưa nông nghiệp lạc hậu chủ yếu vẫn dùng
công cụ thô sơ và dùng sức người là phổ biến, tiến lên một bước dài. Đó là
một sự phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin trong công cuộc cách mạng
XHCN ở những nước kinh tế nông nghiệp thấp kém” [24; tr.467].
Như vậy hợp tác hóa là yêu cầu phát triển khách quan của nông nghiệp
và nông dân, là một nhiệm vụ kinh tế và chính trị căn bản của Đảng ta trong
cuộc cách mạng XHCN. Sau cải cách ruộng đất, hợp tác hóa là cuộc cách
mạng to lớn nhất ở nông thôn.
Đó là bước đi tất yếu để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, đẩy
nhanh cách mạng kỹ thuật, để xây dựng quyền làm chủ tập thể của nhân dân
lao động về mặt kinh tế. Bởi vì ở nước ta, xây dựng quan hệ sản xuất XHCN
thực chất là xây dựng chế độ làm chủ tập thể về kinh tế bao gồm làm chủ tập
thể đối với tư liệu sản xuất, làm chủ lực lượng lao động, làm chủ tập thể trong
việc tổ chức quản lý sản xuất và trong lĩnh vực phân phối. Trong nông nghiệp,
nội dung đó thể hiện trên ba mặt, xây dựng, củng cố sở hữu tập thể, gắn chặt
sở hữu tập thể với sở hữu toàn dân, xây dựng chế độ quản lý đúng đắn và chế
độ phân phối hợp lý. Đồng thời Đảng cũng chỉ rõ, xây dựng HTX sản xuất
nông nghiệp lúc này nhất thiết phải có 4 điều kiện.
1. “Có cơ sở đổi công khá (tức là phải có tổ đổi công thường xuyên có
bình công chấm điểm làm nòng cốt).
2. Có cán bộ cốt cán (tức là chi bộ xã phải nắm và có những Đảng viên
tích cực tham gia và trực tiếp lãnh đạo).
3. Quần chúng thực sự yêu cầu (tức là quần chúng thấy HTX là tốt, là có
lợi cho họ, họ thật sự muốn tham gia).
4. Có cán bộ chính trị và cán bộ quản lý HTX.


17


Tổ chức tổ đổi công, HTX sản xuất nông nghiệp, phải luôn nắm vững ba
nguyên tắc: tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ” [48; tr.616].
Phương châm chung tổ chức phong trào hợp tác hóa hiện nay vẫn là tích
cực lãnh đạo, tiến bước vững chắc. Trong đó hai mặt tích cực lãnh đạo và tiến
bước vững chắc có quan hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau. Tích cực lãnh đạo tức
là những nơi có đủ điều kiện thì phải kiên quyết đưa quần chúng tiến lên,
đồng thời phải tích cực chuẩn bị những điều kiện đó không chờ đợi, thụ động.
Tiến bước vững chắc không phải là kìm hãm sự phát triển của phong trào mà
đảm bảo cho phong trào tiến lên được tốt. “Hợp tác hóa là một phong trào
cách mạng của quần chúng, phải tích cực lãnh đạo nhưng phải chuẩn bị điều
kiện cho thật tốt. Hiện nay có khuynh hướng cho rằng chỉ cần nhấn mạnh tích
cực đó là đúng, nhưng nếu tách rời phương châm tiến bước vững chắc là
không đúng. Quần chúng yêu cầu tiến lên HTX sản xuất nông nghiệp, đó là
một biểu hiện tốt, nhưng nếu chưa đủ điều kiện để tổ chức HTX thì phải giải
thích cho quần chúng tích cực tham gia và củng cố tổ đổi công, tạo điều kiện
để tổ chức tốt HTX, cần khuyến khích tinh thần tiến lên của quần chúng, tích
cực vươn lên để lãnh đạo quần chúng, nhưng không bị động, đi đến thiếu thận
trọng, làm không tốt” [48; tr.617, 618].
Đồng thời Ban chấp hành Trung ương cũng chỉ ra rằng xây dựng HTX
phải gắn với cải tiến kỹ thuật, đẩy mạnh sản xuất “Nhiệm vụ hợp tác hóa
nông nghiệp có hai nội dung lớn. Về chính trị nó nhằm xây dựng quan hệ sản
xuất mới, xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ bóc lột và xóa bỏ giai cấp. Về
kinh tế, nó tạo ra lực lượng sản xuất to lớn, mạnh mẽ, trên cơ sở đó cải tiến và
áp dụng kỹ thuật rộng rãi, nâng cao sản xuất. Phải trên cơ sở hợp tác hóa mà
cải tiến kỹ thuật” [47; tr.622].
Đến năm 1960, trên cơ sở sự phát triển của phong trào hợp tác hóa miền

Bắc, nhằm đáp ứng yêu cầu của việc đưa miền Bắc tiến lên theo định hướng

18


XHCN và bảo đảm vai trò là hậu phương lớn trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương (mở rộng) lần thứ 16
tiếp tục khẳng định “Kiên quyết đưa nông thôn miền Bắc nước ta qua con
đường hợp tác hóa nông nghiệp tiến lên XHCN”.
1.1.2. Tình hình nông nghiệp Hà Nội và chủ trương của Đảng bộ
Thành phố
Sau ngày giải phóng, cùng với lãnh đạo ổn định tình hình, củng cố hệ
thống chính trị, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, Đảng bộ Hà
Nội tập trung chỉ đạo đẩy mạnh cải cách ruộng đất, phục hồi và bước đầu phát
triển kinh tế.
Khi mới giải phóng, ngoại thành Hà Nội gồm phần lớn các xã của hai
huyện: Từ Liêm, Thanh Trì và mấy xã bên kia cầu Long biên của huyện Gia
Lâm. Sau khi tiếp quản cho đến cải cách ruộng đất để đơn vị hành chính là
thôn như thời kỳ từ 1950 trở đi.
Ngoại thành là vành đai để bảo đảm an toàn về chính trị và cũng là nơi
cung cấp nông sản, thực phẩm cho nội thành. Song ruộng đất ngoại thành ít,
lúc mới giải phóng có 10.394 hecta, lại chia làm nhiều vùng khác nhau. Bên
cạnh những vùng chuyên trồng lúa, trồng màu còn có vùng chuyên trồng rau,
trồng hoa và cây ăn quả. Trong cách mạng tháng 8 và trong kháng chiến
chống thực dân Pháp, địa vị chính trị, kinh tế của giai cấp địa chủ ở ngoại
thành đã bị giảm sút nhiều. Nhìn chung tình hình tập trung ruộng đất không
cao. Tuy nhiên, giai cấp địa chủ vẫn còn chiếm giữ 16,7% tổng số ruộng đất
gồm cả ruộng đất công và ruộng đất tư và tiếp tục bóc lột nông dân bằng địa
tô.
Tháng 3/1955, Thành ủy đề ra biện pháp trước mắt đối với ruộng đất

ngoại thành: ruộng công và ruộng bán công bán tư, nếu nằm trong tay nông

19


dân thì để nguyên, nếu nằm trong tay địa chủ thì lấy lại hoặc hoặc vận động
lấy lại cấp cho người thiếu ruộng; không cho phép bán ruộng và hiến ruộng.
Từ ngày 12 đến 15/10/1955, Thành ủy Hà Nội họp bàn về nhiệm vụ cải
cách ruộng đất đã nhận định: tính chất chiếm hữu ruộng đất và thành phần xã
hội ở nông thôn ngoại thành phức tạp, khác nhiều so với các vùng nông thôn
khác và đề ra chủ trương:
- Đánh đổ giai cấp địa chủ, trấn áp bọn cường hào gian ác và phản cách
mạng; thu vũ khí còn sót lại; xây dựng mối quan hệ tốt giữa thành thị và nông
thôn.
- Những người làm nghề công thương nghiệp có ruộng đất phát canh,
nguồn sống chủ yếu ở thành thị, nói chung không quy thành phần địa chủ.
Những người làm nghề khác có ruộng đất phát canh đã có mức bình quân gấp
3 lần cũng không quy là địa chủ.
- Ruộng đất chia cho nông dân chỉ là giao quyền sử dụng, không giao
quyền sở hữu, các loại tài sản khác được quyền sở hữu.
Trong quá trình cải cách ruộng đất, Hà Nội cũng đã mắc phải những sai
lầm như: tiếp thu một cách thụ động những biện pháp giáo điều từ trên đưa
xuống; nhiều nơi cố tìm mọi cách quy cho được số địa chủ theo tỷ lệ đã định;
trong chỉ đạo do không nắm vững tính chất phức tạp của nông thôn ngoại
thành, nên đã phát động cải cách ruộng đất cả ở những nơi đã và đang thành
thị hóa… Tuy vậy, nhờ phát hiện và nghiêm khắc sửa sai, cuối năm 1956,
công tác sửa sai đã được triển khai rộng khắp các xã ngoại thành, đến năm
1957, công cuộc cải cách ruộng đất của Hà Nội đã giành được thắng lợi. Đầu
tháng 7 - 1957, Hội nghị Thành ủy mở rộng kiểm điểm công tác sửa sai cải
cách ruộng đất ở ngoại thành đã khẳng định: “Công tác sửa sai kết thúc thắng

lợi đã làm cho cải cách ruộng đất ở ngoại thành được hoàn thành tốt”.

20


Ngay trong tiến trình thực hiện cải cách ruộng đất, thực hiện chủ trương
của Đảng, từ năm 1955 Đảng bộ Hà Nội đã chỉ đạo từng bước thực hiện tổ
đổi công trong sản xuất nông nghiệp, trên cơ sở phong trào tổ đổi công phát
triển tiến lên xây dựng thí điểm các hợp tác xã nông nghiệp. Hội nghị Thành
ủy tháng 3 - 1956 đã xác định: Đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể là
nhiệm vụ chủ yếu của Đảng ta ở nông thôn sau cải cách ruộng đất. Tính đến
tháng 6 - 1956, ngoại thành đã có “411 tổ đổi công gồm 3.120 hộ nông dân
tham gia; lúc phong trào lên cao nhất đã thành lập được 2.308 tổ bao gồm
18.076 hộ, chiếm tỷ lệ 65,6% số hộ nông dân ngoại thành, trong đó có 384 tổ
thường xuyên. Quận 8 (quận Gia Lâm) và quận 6, số hộ nông dân vào tổ đổi
công chiếm tỷ lệ cao; trong đó quận 8 có 423 tổ, chiếm tỷ lệ 75%; quận 6 có
578 tổ chiếm tỷ lệ 70%. Xã có phong trào đổi công mạnh nhất là Mễ Trì, có
118 tổ, trong đó có 34 tổ thường xuyên, chiếm 85%; tiếp đến các xã Xuân La,
Phú Thượng, Trung Hòa, Việt Hưng, Đại Kim, Yên Sở…” [9; tr.323].
Phong trào đổi công có tác dụng to lớn trong việc cải tiến kỹ thuật, thúc
đẩy sản xuất. Tuy vậy, quá trình xây dựng phong trào đổi công đã vấp phải
một số khuyết điểm, trong đó “vi phạm 3 nguyên tắc do Trung ương đề ra.
Hiện tượng phổ biến là gò ép mệnh lệnh, khoanh nhà định tổ, tổ chức hàng
loạt tổ trong một lúc. Có nơi đe dọa nông dân: Ai không vào tổ đổi công là lạc
hậu, là đi với phú nông, địa chủ. Ai vào tổ đổi công thì được Đảng và Chính
phủ cho vay, giúp đỡ… Giá công, trong các tổ đổi công, định hạ hơn bên
ngoài, nhất là công trâu bò nên người có trâu bò không muốn ở lại tổ, hoặc
muốn bán trâu bò. Việc ghi công và thanh toán không rõ ràng. Cán bộ tự tư tự
lợi” [9; tr.324].
Như vậy sau khi hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, vấn

đề đặt ra đối với toàn miền Bắc cũng như Hà Nội là khắc phục lối làm ăn nhỏ

21


lẻ, manh mún của người nông dân, đưa người nông dân vào con đường làm ăn
tập thể XHCN, vận động nông dân xây dựng các HTX sản xuất nông nghiệp.
Trước tình hình đó, tại hội nghị về nhiệm vụ công tác năm 1958, Thành
ủy đã chỉ rõ phải tích cực thực hiện từng bước phong trào hợp tác hóa, phát
triển sản xuất nông nghiệp ở ngoại thành, hướng nông dân vào con đường tiến
lên CNXH. Phải tích cực củng cố phát triển tổ đổi công từng vụ từng việc và
tổ đổi công thường xuyên, tổ chức thí điểm HTX nông nghiệp ở 1 số xã.
Trên cơ sở phân tích và nhận định tình hình, Thành ủy đã chỉ đạo:
“Chúng ta cần nhận định rằng tổ đổi công mặc dù đã có tác dụng tốt đối với
sản xuất nông nghiệp ngoại thành, so với làm ăn riêng lẻ của nông dân là tiến
bộ hơn nhiều nhưng bản thân tổ đổi công vẫn là dựa trên cơ sở kinh tế phân
tán, không thể khắc phục được khó khăn của nền sản xuất nông nghiệp tiến
lên một cách vững chắc. Vì vậy đã đến lúc phải xây dựng dần dần HTX sản
xuất nông nghiệp thí điểm để sang năm 1959 sẽ phát triển đúng mức hơn làm
cơ sở cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp, đưa dần nông thôn vào con
đường CNXH… Chỉ có HTX nông nghiệp, thống nhất sử dụng ruộng đất, trâu
bò, nông cụ, sử dụng hợp lý sức lao động, mới tạo điều kiện để dần dần cải
tiến kỹ thuật, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo kế hoạch, đưa nông nghiệp
từ chỗ lạc hậu, cá thể, tiến dần lên trình độ cao, dùng máy móc với quy mô
ngày càng lớn, chỉ có như thế mới làm cho nông dân vĩnh viễn thoát khỏi
cảnh nghèo đói và bị bóc lột, đời sống vật chất và tinh thần mới dần được
nâng cao” [85; tr.1].
Căn cứ vào các điều kiện trên, vào tình hình tổ chức và khả năng tiến
triển của phong trào trong thời gian tới ở 1 số xã ngoại thành, Thường vụ
quyết định tổ chức xây dựng thí điểm xây dựng HTX sản xuất nông nghiệp ở

5 xã: Đại Kim, Phú Thượng, Vĩnh Tuy, Việt Hưng và Mễ Trì. Trước hết sẽ

22


tiến hành ngay thí điểm ở Đại Kim (Quận 7), sau đó sẽ làm ở Vĩnh Tuy và
cuối cùng sẽ tiến hành cùng một lúc ở Mễ Trì, Việt Hưng, Phú Thượng.
Từ đó, đề ra nhiệm vụ cụ thể cho các ngành, các cấp: “Ngay từ bây giờ
Ban công tác nông thôn và Quận ủy Quận 7 có trách nhiệm chuẩn bị kế hoạch
cụ thể để tiến hành xây dựng thí điểm HTX sản xuất nông nghiệp ở xã Đại
Kim và trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng HTX này. Các HTX sản xuất nông
nghiệp thí điểm kể trên sẽ mới chỉ xây dựng theo hình thức nửa XHCN, tức là
hình thức HTX cấp thấp trong đó có phần tư liệu sản xuất là của chung và có
phần tư liệu sản xuất của xã viên góp vào để xây dựng tập thể, lao động tập
thể nhưng vẫn thuộc quyền tư hữu của xã viên, họ được hướng dẫn hoa lợi về
những thứ đó. Khi sản xuất của HTX đã phát triển mạnh, giác ngộ XHCN của
xã viên đã nâng cao, sẽ tích cực bàn bạc với nông dân, đưa HTX từ cấp thấp
lên cấp cao hoàn toàn XHCN” [85; tr.2].
1.1.3. Quá trình tổ chức thực hiện
Ngay khi phong trào tổ đổi công đang mở rộng, Thành ủy đã chỉ đạo
xây dựng thí điểm HTX nông nghiệp. Ngày 22 - 6 - 1958, HTX Đại Từ (Đại
Kim) là HTX nông nghiệp đầu tiên được thành lập. Tháng 8 - 1958, xây dựng
thêm HTX trồng rau ở Vĩnh Tuy. Cuối tháng 12 - 1958, cuộc vận động tổ
chức thí điểm HTX được mở rộng, đã xây dựng được 30 HTX ở 19 xã với
939 hộ, đạt tỷ lệ 3,8% tổng số nông hộ ngoại thành [9; tr.350].
Quá trình xây dựng thí điểm HTX nông nghiệp gặp không ít khó khăn do
việc truyền đạt chủ trương của Trung ương và Nghị quyết của Thành ủy chưa
chu đáo, cán bộ còn bỡ ngỡ chưa có nhiều kinh nghiệm, tư tưởng nông dân
còn nhiều dao động và lựa chọn giữa con đường làm ăn riêng lẻ với con
đường làm ăn tập thể. Nhưng Thành ủy đã quyết tâm lãnh đạo các quận, các

ngành, nâng cao nhận thức về đường lối chính sách, nâng cao giác ngộ XHCN
cho toàn thể cán bộ, đảng viên, xã viên, đề cao ý thức trách nhiệm ra sức phấn

23


đấu khắc phục tư tưởng bi quan, dao động, ngại khó, ỷ lại. Người nông dân,
đặc biệt là đảng viên, đoàn viên và số xã viên tích cực dần hiều được đường
lối chính sách của Đảng đã khắc phục những khó khăn chống hạn gieo mạ,
nhiều HTX làm không quản ngày đêm như HTX Lâm Du tát nước được 6 - 7
ngày đêm liền. Có nơi tập trung đến 80 gầu một lúc và tát nhiều đợt, đã gieo
thêm được 7 mẫu mạ như HTX Mễ Trì Thượng. Nhiều nơi tìm mọi cách gieo
đủ mạ, có nơi để khẩu hiệu “đem ruộng mạ đến gần nước để gieo” như Đại
Từ (Đại Kim) thay đổi cả tập quán lâu đời của bà con nông dân trước đây là:
“khoai đất lạ, mạ đất quen”.
Sang năm 1959, chấp hành Nghị quyết lần thứ 14 của Trung ương về cải
tạo XHCN đối với nông nghiệp, Thành ủy Hà Nội đã chỉ đạo đẩy mạnh công
cuộc cải tạo nông nghiệp, củng cố HTX nông nghiệp, củng cố và phát triển tổ
đổi công, đẩy mạnh sản xuất.
Nghị quyết số 115 ngày 21/3/1959 của Thường vụ Thành ủy đã chỉ rõ:
Cuối năm 1958, chúng ta đã xây dựng thí điểm HTX, theo quy định của
Thành ủy thì sang năm 1959, chúng ta sẽ phấn đấu để căn bản hoàn thành
việc tổ chức các HTX sơ cấp và đưa 1 phần HTX sơ cấp lên HTX cao cấp. Đó
là yêu cầu phát triển khách quan của nông thôn ngoại thành, lại là một khâu
chính trong nhiệm vụ chính trị của Đảng ta trong giai đoạn mới.
Quyết định trên phù hợp với tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Bắc,
cũng như điều kiện thực tế của ngoại thành Hà Nội, xuất phát từ yêu cầu cải
tạo, phát triển kinh tế theo định hướng XHCN và nguyện vọng của quần
chúng nông dân muốn được tổ chức lại để làm ăn và cải thiện đời sống.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ năm 1959, Thành ủy cũng nhấn mạnh:

“…Hợp tác hóa đã bắt đầu trở thành phong trào quần chúng, nhưng là phong
trào mới vươn lên chưa thật sâu rộng và vững chắc, cốt cán lãnh đạo tuy bản
chất tốt, tinh thần công tác tích cực, nhưng nói chung thì vẫn thiếu và yếu so

24


với nhu cầu của phong trào. Ta đã có một số kinh nghiệm trong việc xây dựng
30 HTX thí điểm nhưng các HTX này còn mới, việc xây dựng và củng cố còn
phải tiếp tục nhiều…’’ [86; tr.8].
Đồng thời Thành ủy đã đề ra nhiệm vụ cụ thể quán triệt đối với các quận,
các ngành:
- Củng cố tốt 31 HTX sản xuất đã có, củng cố và phát triển tổ đổi công,
chủ yếu là tổ đổi công thường xuyên có bình công chấm điểm.
- Cần nắm chắc tinh thần lao động sản xuất toàn diện ở ngoại thành và
trong HTX phải lấy sản xuất nông nghiệp là chính và kinh doanh nhiều nghề,
để tăng thêm thu nhập của HTX và xã viên.
- Thông qua phong trào hợp tác hóa và phát triển sản xuất ra sức củng cố
và phát triển Đảng, Đoàn, kiện toàn tổ chức, bồi dưỡng cán bộ cũ, đào tạo cán
bộ mới.
- Tích cực bồi dưỡng cán bộ cũ và đào tạo hàng loạt cán bộ mới xuất
hiện trong phong trào cách mạng sôi nổi.
Nhờ những chủ trương đúng đắn của Thành ủy, tính đến tháng 6 năm
1959, Hà Nội đã lập thêm được 142 HTX nông nghiệp, nâng tổng số lên 172
HTX với 6.398 hộ, chiếm 26,6% nông hộ. Đến cuối năm 1959 đã có 227
HTX với hơn 1 vạn hộ. Ban công tác nông thôn đã chọn một số HTX thí điểm
đưa lên HTX bậc cao. Đầu tiên là HTX Phú Thượng (Quận 5), tiếp đó là HTX
Vĩnh Tuy, Đại Từ (Quận 7), Việt Triều xã Xuân La…
Căn cứ vào nhiệm vụ chung năm 1960, Thành ủy đề ra nhiệm vụ củng cố
HTX ở ngoại thành: “ra sức củng cố tốt những HTX sản xuất nông nghiệp đã

có, tích cực phấn đấu dành vụ mùa thắng lợi toàn diện, vượt bậc và vững
chắc, làm cho sản xuất HTX hơn hẳn tổ đổi công và người làm ăn riêng lẻ,
tích cực chuẩn bị điều kiện để căn bản hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp
bậc thấp vào cuối năm 1960 theo đúng nghị quyết của Thành ủy” [25; tr.22].

25


×