Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ GIÁO DỤC LỐI SỐNG CHO HỌC SINH TIỂU HỌC DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.06 KB, 62 trang )

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ GIÁO DỤC LỐI
SỐNG CHO HỌC SINH TIỂU HỌC DỰA
VÀO CỘNG ĐỒNG


Cơ sở lý luận
Nghiên cứu về giáo dục đạo đức lối sống
- Trên thế giới
- Khổng Tử (551- 479 TrCN),
Khổng Tử là một học giả lớn, nhà tư tưởng, nhà giáo dục
vĩ đại của Trung Quốc thời cổ đại. Học thuyết của ông có ảnh
hưởng không chỉ trong suốt chiều dài lịch sử Trung Quốc mà
còn ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều quốc gia phương Đông
khác như Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam.
Khổng Tử có nhiều quan niệm giáo dục rất tiến bộ so với
đương thời, đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm giáo dục
phong phú, trong đó có nhiều kinh nghiệm giá trị lịch sử và
giá trị thực tiễn cho đến ngày nay, đánh giá cao vai trò của
giáo dục, coi trọng giáo dục đạo đức trong nhân cách con
người [8, tr.47].
- Sôcrát (469 – 399 TrCN),
Ông hướng triết học vào việc giáo dục con người sống
có đạo đức. Ông cho rằng: “Nguyên nhân sâu xa của hành vi


có hay không có đạo đức là do nhận thức” [8, tr.55]. Ông
không lưu lại một tác phẩm nào nhưng ngày nay người ta biết
được quan điểm triết học của ông là nhờ vào những ghi chép
của học trò như Platon, Arixtot. Sôcrat rất quan tâm đến vấn
đề giáo dục đạo đức và lí luận nhận thức. Theo ông mục đích
của triết học là giảng về đạo đức, thông qua các tri thức triết


học mà con người nhận thức chân lí và hành động đúng.
- J.A. Cômenxki (1592- 1670)
Sau này trên thế giới có nhiều triết gia, nhiều nhà giáo
dục khác bàn về vấn đề đạo đức, trong đó phải kể đến nhà sư
phạm lỗi lạc người Tiệp Khắc J.A. Cômenxki. Cả cuộc đời
ông hiến dâng cho sự nghiệp giáo dục, ông đã để lại cho nhân
loại 100 tác phẩm giáo dục, trong đó có những tác phẩm kiệt
xuất đóng góp vào kho tàng giáo dục những kinh nghiệm quí
báu.
Theo J.A. Cômenxki, nội dung giáo dục đạo đức cần tập
trung vào hai điểm:
Giáo dục lòng tin vào thượng đế, vào chúa Trời và Nhận
thức vào bản thân mình và nhận thức được thế giới xung
quanh, biết xây dựng đời sống thực tế, tham gia tích cực vào


cuộc sống [8, tr.92]. Về các phương tiện giáo dục đạo đức thì
ông cho rằng:
+ Giáo dục đạo đức thông qua dạy học;
+ Thông qua thực tiễn đời sống, hoạt động của con
người;
+ Bằng sự gương mẫu;
+ Bằng qui tắc của cuộc sống, bằng kỉ luật [8, tr 93].
- John Dewey (1859 – 1952)
Tư tưởng giáo dục của nhà triết học, nhà tâm lí, giáo dục
học John Dewey có ý nghĩa lớn lao đối với việc khởi xướng
phong trào giáo dục tiến bộ của nước Mỹ từ những năm đầu
thế kỉ XX.
Dewey xác định ba yếu tố độc lập nhưng có quan hệ chặt
chẽ không tách rời đối với mỗi quyết định liên quan đến đạo

đức con người là: giá trị vật chất, quyền lợi và lương tâm.
Điều này được Dewey phân tích rõ trong tác phẩm: “Ba nhân
tố độc lập của đạo đức” viết năm 1930. Ông cho rằng: Yếu tố
bản sắc văn hóa và đạo đức luôn sống mạnh mẽ trong mỗi cá
nhân, đó là thành viên yếu ớt nhất trong xã hội. Cho nên có


thể nhận thấy rõ rằng các yếu tố văn hóa và đạo đức được
hình thành trong quá trình sống, chứ không phải bẩm sinh có
từ trước, nó luôn được bảo tồn, nuôi dưỡng và phát triển trong
từng cá nhân. Do đó, đánh giá đạo đức phải là nhiệm vụ của
từng thế hệ, quyết định những quy phạm đạo đức cần được
xét trong trường hợp cụ thể, trong những điều kiện chính trị,
xã hội khác nhau [8, tr.167].
Bên cạnh đó còn kể đến cuốn: “Bách khoa Toàn thư
Triết học Stanford” xem đạo đức là các quy tắc hành xử được
xã hội thống nhất, chấp nhận và đóng vai trò hướng dẫn hành
vi cho tất cả thành viên trong xã hội đó.
- Trong tác phẩm: “Nguồn gốc của đạo đức trong giáo
dục Nhật Bản” của tác giả F. N. Kerlinger cho rằng tu thân
chính là luân thường đạo đức hay những tiêu chuẩn về đạo
đức. Tu thân chính là trọng tâm của chương trình giáo dục tại
Nhật Bản, và cũng là trọng tâm trong cuộc sống người Nhật
Bản [21, tr. 119-120].
- Trong kế hoạch hiện tại Nhật Bản đã xây dựng xong bộ
sách giáo khoa về giáo dục đạo đức và tiến hành đưa vào
giảng dạy từ năm 2017 đối với bậc tiểu học, và từ năm 2018


đối với bậc THCS. Điều này đánh dấu một sự thay đổi lớn về

vị trí của môn đạo đức trong giáo dục tại Nhật Bản. Bộ giáo
dục Nhật Bản cũng đã hoàn thành việc kiểm định sách giáo
khoa giảng dạy môn đạo đức trong nhà trường và từ năm
2016 mô hình giảng dạy đạo đức trên sách giáo khoa chuyên
biệt được đưa vào áp dụng.
- Trong tập san: “Giáo dục đạo đức” của Bộ Giáo dục
quốc gia Nhật Bản năm 1958 có đưa ra những chi tiết của
từng chủ đề giáo dục đạo đức giúp cho thầy cô giáo noi theo
trong việc thực hành giảng dạy bao gồm: Tập quán lễ nghi,
quý trọng sự sống và sức khỏe, hoà nhập, ý thức trách nhiệm
và sáng tạo, tâm hồn trong sáng và hướng thiện, tinh thần
“hoà hiếu hạnh” trong gia đình, can đảm khi hành động và
phục vụ chính nghĩa, lòng yêu nước và cộng đồng quốc tế.
Giáo sư Lanying Zhang, Dezhou University China, trong
nghiên cứu về giáo dục đạo đức ở các trường cao đẳng trong
thời kỳ mới đã có những nhận định và phân tích sâu sắc về vị
trí, vai trò của giáo dục đạo đức ở các trường cao đẳng và đại
học, qua đó ông đưa ra định hướng và biện pháp kết hợp giáo
dục đạo đức trong thời kỳ mới [14].


Tại Bungari vào những năm 1977-1978, Trung tâm
nghiên cứu khoa học về thanh niên đã tiến hành một số đề tài
khoa học nghiên cứu về đạo đức và GDĐĐ cho thanh niên.
Các nhà khoa học đã đề cập đến vấn đề định hướng giá trị cho
thanh niên nói chung, trong đó có các giá trị đạo đức: Lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa, đạo đức cộng sản, tinh thần tập thể
XHCN. Giáo viên, một bộ phận trong xã hội, phải có đủ các
giá trị đạo đức nêu trên.
Tại Nga, Nhà xuất bản giáo dục Matxcơva đã cho

xuất bản cuốn “GDĐĐ cho học sinh-Những vấn đề lý luận”
của tác giả N.I.Ônđưrev. Tác giả đã đề cập tới một số vấn đề:
Lý luận giáo dục đạo đức cộng sản chủ nghĩa cho thanh niên,
chỉ ra nội hàm khái niệm của đạo đức cộng sản và đề xuất
những con đường tiến hành GDĐĐ cho học sinh nói riêng và
thanh niên nói chung [2].
Tác giả Edward J. Caropreso của Đại học Bắc Carolina ở
Wilmington và

Aaron W.Weese ở Trường Charlotte-

Mecklenberg trong nghiên cứu: “Giáo dục đạo đức - Bài
học cho các chương trình chuẩn bị giáo viên” đã khái quát:
Chúng tôi cho rằng vai trò của "giáo dục đạo đức" dạy và học
về thực hành đạo đức là một trong những yếu tố chưa được


khai thác đầy đủ, khả năng cần thiết và có ảnh hưởng của
kinh nghiệm giáo dục, dành cho học sinh và giáo viên. Bài
viết này khám phá một số tài liệu liên quan, trích dẫn ví dụ về
sự cần thiết phải giáo dục đạo đức và trình bày một khuôn
khổ dự kiến để đưa giáo dục đạo đức trong chương trình đào
tạo giáo viên.
Tác phẩm: “Triết lý giáo dục quốc dân và ảnh hưởng đến
sự phát triển quốc gia” của Bassey Ubong (2011) cho rằng:
“Đạo đức còn có nghĩa là ý thức tuân thủ kỷ luật phản ánh
qua quan niệm xem giáo dục là con đường dẫn đến cuộc sống
tốt đẹp hơn. Chính vì vậy mà thanh niên tích cực học tập, tuân
theo các chuẩn mực về tôn trọng mọi người xung quanh và
như vậy giảm tỉ lệ thất nghiệp, mọi người đều tốt nghiệp và

có việc làm” [15].
- Ở Việt Nam
Vấn đề đạo đức phải gắn với những đặc điểm văn hóa,
đặc điểm phát triển kinh tế xã hội của đất nước; Mục tiêu giáo
dục đạo đức học sinh cần tập trung nhấn mạnh những điểm
cần thiết, nhưng phải gắn với mục tiêu giáo dục cấp học, mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng, Nhà nước đề ra;


- Nghị quyết số 29 - NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội
nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về
“Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
Cùng với đánh giá những kết quả quan trọng sau gần 20 năm
thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và các chủ
trương của Đảng, Nhà nước về định hướng chiến lược phát
triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Đảng ta đã nghiêm túc nhìn nhận những hạn chế; xác
định 07 quan điểm chỉ đạo trong quá trình thực hiện đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trong đó tiếp tục xác
định “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp
của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là
đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương
trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”. Đồng thời xác định
“phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” với mục tiêu tổng quát là “tạo
chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo
dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục



con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất
tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình,
yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả”. Chỉ thị số 42 - CT/TW ngày 24/3/2015 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng (khóa XI) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối
sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015 - 2030”. Chỉ thị
được Ban Bí thư ban hành ngay trước thềm Đại hội XII của
Đảng, với những đánh giá quan trọng về thế hệ trẻ; xác định
rõ nguyên nhân, từ đó chỉ ra những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể
yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân tập trung lãnh đạo,
chỉ đạo, thực hiện tốt nhằm tiếp tục thực hiện có hiệu quả
công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho
thế hệ trẻ.
Nghiên cứu về cộng đồng trong giáo dục
Ở nước ngoài
Bắt đầu khoảng 30 năm cuối của thế kỷ XX, đặc biệt
những năm đầu thế kỷ XXI, đa số các nước phát triển như
Anh, Đức, Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Ôxtrâylia, Malaysia,


Singapore, Hàn Quốc... đều tiến hành nhận thức lại vai trò, sứ
mệnh của GD, coi GD là nền tảng của mọi sự phát triển xã
hội. Tại các nước này rất nhiều chương trình cải cách GD
được thực hiện, nhằm đổi mới toàn diện nền GD đất nước, tạo
ra nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng với yêu cầu phát
triển và sự thay đổi nhanh chóng trong xu hướng toàn cầu hóa
tri thức. Khuynh hướng cải cách GD là tập trung thu hút và

tăng cường sự tham gia của các lực lượng xã hội, gia đình,
các tổ chức trong và ngoài nước cùng với nhà nước tham gia
phát triển GD.
Một số tài liệu, công trình tiêu biểu đã đề cập đến vai trò
quan trọng của các lực lượng xã hội trong việc tham gia vào
sự nghiệp phát triển nhà trường nhằm nâng cao chất lượng
GD&ĐT của nhà trường và kết quả học tập của HS.
Epstein và đồng nghiệp đã đưa ra khái niệm về mối quan
hệ giữa Gia đình - Nhà trường - Xã hội như là những chiến
lược hành động của cha mẹ HS - Nhà trường - Xã hội, giúp
HS có được kết quả cao trong học tập, đồng thời sự tham gia
của cộng đồng vào GD nhà trường là rất quan trọng [16].


Tác giả Anne Henderson và Karen Mapp đã nghiên cứu
hơn 50 công trình được công bố từ năm 1995 để biên dịch
cuốn sách: “Minh chứng mới về những tác động của nhà
trường, gia đình và cộng đồng đến kết quả học tập của HS”.
Kết quả cho thấy, để có được sự tham gia tích cực của cha mẹ
HS thì nhà trường phải liên kết các hoạt động của cha mẹ HS
với mục tiêu học tập của HS và phải quan tâm đến hoàn cảnh
khác nhau của mỗi gia đình HS [17].
Luận án của Marie DeLuci, với đề tài“Nghiên cứu điển
hình về sự tham gia của xã hội vào các trường học ở ba
trường của Ethiopia” đã nêu tầm quan trọng của cộng đồng
tham gia phát triển nhà trường. Đồng thời tác giả đã chứng
minh rằng, rất cần sự nỗ lực phối hợp giữa Nhà nước – cha
mẹ HS và các tổ chức phi chính phủ trong việc cùng quan tâm
đến sự nghiệp phát triển nhà trường… [18].
Ở Việt Nam

Sự tham gia của các LLXH trong XHHGD, XHHGD
tiểu học nói riêng và sự nghiệp GD nói chung đã được Đảng
và Nhà nước quy định. Trong kho tàng các tư liệu nghiên cứu
đề cập rất nhiều sự cần thiết của các LLXH tham gia phát


triển giáo dục. Cùng với việc biên soạn, phát hành các tài liệu,
Đảng và Nhà nước đã ban hành các Nghị định, chiến lược
phát triển GD; Bộ GD&ĐT đã ban hành nhiều văn bản làm cơ
sở pháp lí của quá trình tổ chức, vận động các tổ chức kinh tế
- xã hội tham gia vào GD; điều lệ tổ chức và hoạt động của
HĐGD các cấp chính quyền địa phương; Hướng dẫn thực
hiện điều lệ và hoạt động của Hội đồng GD; tổ chức Đại hội
giáo dục các cấp....
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 coi việc
phát triển GD là quốc sách hàng đầu để đạt được mục tiêu
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nhà nước tăng đầu tư,
đồng thời đẩy mạnh XHHGD, huy động toàn xã hội chăm lo
phát triển GD [3].
Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 đưa ra quan
điểm chỉ đạo phát triển GD là quốc sách hàng đầu, là sự
nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đồng thời cũng
quy định trách nhiệm tham gia, đóng góp nguồn lực của các
ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng và gia đình
tạo cơ hội học tập suốt đời cho mọi người, góp phần từng
bước xây dựng xã học tập [4].


Luật GD sửa đổi năm 2009 tại điều 13 quy định “Đầu tư
cho GD là đầu tư phát triển” và “Nhà nước ưu tiên đầu tư

cho GD; khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư cho GD”
[5].
Bên cạnh đó là các công trình nghiên cứu về sự tham gia
của cộng đồng của các tác giả khác đã tổng hợp những quan
điểm lí luận và thực tiễn về vai trò và nhiệm vụ phối hợp của
Nhà trường - Gia đình - Xã hội trong sự nghiệp phát triển GD:
- Trong cuốn “GD Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế
kỉ XXI” tác giả Phạm Minh Hạc khẳng định sự nghiệp GD của
Việt Nam không phải chỉ do Nhà nước gánh vác, mà phải có
sự chung sức của các lực lượng xã hội cùng tham gia vào sự
nghiệp GD nước nhà, tạo nên một xã hội học tập [6].
- Tác giả Phạm Tất Dong“Phát triển GD hướng tới một
xã hội học tập” đã đề cập đến các vấn đề xã hội học tập và
những vấn đề cơ bản trong cấu trúc của nó; cấu trúc của xã
hội học tập; tình hình phát triển GD giai đoạn 2000 - 2010


theo chủ trương xây dựng xã hội học tập; đổi mới căn bản và
toàn diện nền GD theo hướng xây dựng xã hội học tập [7].
Các khái niệm cơ bản của đề tài
Cộng đồng
Theo Phạm Hồng Trung - Đại học Quốc gia Hà Nội
(Thông tin hoa học xã hội, số 12.2009) “Cộng đồng” là một
khái niệm đã và đang được sử dụng khá rộng rãi trên văn đàn
khoa học, trong nhiều lĩnh vực như sử học, văn hóa học, xã
hội học, tâm lý học, triết học, nhân học, sinh học, nghiên cứu
phát triển v.v…Vì vậy, một yêu cầu khách quan đặt ra là phải
có những cách định nghĩa về khái niêm “cộng đồng” để xây

dựng được một định nghĩa vừa đảm bảo tính chặt chẽ, khoa
học, vừa có tính công cụ hay tính “thao tác luận”
(functionalist) cao, làm cơ sở và là công cụ cho những nghiên
cứu về cộng đồng và các vấn đề có liên quan đến cộng đồng.
Đây là một vấn đề đã được bàn thảo khá nhiều ở nước ngoài,
song còn chưa được quan tâm thỏa đáng ở Việt Nam. Thuật
ngữ “cộng

đồng” vốn bắt nguồn từ gốc tiếng Latin



“cummunitas”, với nghĩa là toàn bộ tín đồ của một tôn giáo


hay toàn bộ những người đi theo một thủ lĩnh nào đó. Một số
quan điểm cho rằng:
- Cộng đồng phải là tập hợp của một số đông người;
- Mỗi cộng đồng phải có một bản sắc bản thể riêng;
- Các thành viên của cộng đồng phải tự cảm thấy có sự
gắn kết với cộng đồng và với thành viên khác của cộng đồng;
- Có thể có nhiều yếu tố tạo nên bản sắc và sức bền gắn
kết cộng đồng, nhưng quan trọng nhất chính là sự thống nhất
về ý chí và chia sẻ về tình cảm, tạo nên ý thức cộng đồng;
- Mỗi cộng đồng đều có những tiêu chí bên ngoài để
nhận biết về cộng đồng và có những quy tắc chế định hoạt
động và ứng xử chung của cộng đồng.
Theo tác giả Võ Tấn Quang: Cộng đồng là tập hợp người
có sức bền cố kết nội tại cao, với những tiêu chí nhận biết và
quy tắc hoạt động, ứng xử chung dựa trên sự đồng thuận về ý

chí, tình cảm, niềm tin và ý thức cộng đồng, nhờ đó các thành
viên của cộng đồng cảm thấy có sự cố gắn kết họ với cộng
đồng và với các thành viên khác của cộng đồng [8].


Trên cơ sở những nội hàm như trên, có thể đi đến một
định nghĩa chung nhất như sau về “cộng đồng”: Cộng đồng là
một tập hợp người có cùng chung một mục đích, cùng làm
việc vì cùng một mục đích chung nào đó và cùng sinh
sống trong một khu vực xác định (Unesco).
Giáo dục dựa vào cộng đồng
Giáo dục là một quá trình tác động có kế hoạch, có nội
dung và phương pháp phù hợp với đối tượng giáo dục nhằm
thúc đẩy sự thay đổi của đối tượng về kiến thức, kỹ năng và
thái độ. Giáo dục cộng đồng là hình thức giáo dục phi chính
quy có sự tham gia nhằm trang bị cho các thành viên cộng
đồng kiến thức, kỹ năng và thái độ phù hợp để họ phát triển,
nâng cao đời sống cá nhân và góp phần vào sự phát triển cộng
đồng.
Giáo dục cộng đồng là một thành phần cơ bản và quan
trọng nhất của phát triển cộng đồng Giáo dục cộng đồng là
một cách thức can thiệp của xã hội nhằm hướng tới sự phát
triển công bằng và bền vững.


Giáo dục dựa vào cộng đồng là hình thức học tập lấy
cộng đồng làm định hướng giáo dục họ theo mục đích chung
của cộng đồng.
Giáo dục dựa vào cộng đồng là hình thức học tập suốt
đời cho cộng đồng và của cộng đồng, do cộng đồng lựa chọn,

hoạch định và triển khai. Phải dựa trên lợi ích, sự tham gia
của cộng đồng.
Lối sống
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa về lối
sống như sau: “Lối sống là toàn bộ những hình thức hoạt
động sống của con người trong một xã hội nhất định được
xem xét thống nhất với các điều kiện kinh tế – xã hội nhất
định. Lối sống bao gồm những mặt cơ bản: lao động vốn là
nhu cầu sống hàng đầu, là giá trị lớn nhất trong bậc thang giá
trị xã hội, là điều kiện biểu thị nội dung xã hội và nền tảng
để phát triển toàn diện cá nhân con người; tính tích cực chính
trị – xã hội là thể hiện sự tham gia của các giai cấp và tầng
lớp xã hội vào các tổ chức xã hội, vào quản lý, kiểm tra xã
hội và nhà nước trong các lĩnh vực khác nhau, ở các cấp độ
khác nhau; sinh hoạt tinh thần là các hoạt động liên quan đến


nhu cầu phi sản xuất vật chất nhằm khôi phục và phát triển
sức lực con người, tổ chức đời sống văn hóa, tinh thần trong
thời gian tự do ngoài lao động sản xuất ở nơi công tác; văn
hóa – giáo dục là hoạt động nâng cao trình độ hiểu biết, học
vấn để hoàn thiện đạo đức và trí tuệ, tiếp thu những giá trị
tinh thần, biến các giá trị văn hóa thành bộ phận khăng khít
trong sinh hoạt hàng ngày trở thành những cơ sở cho những
tiêu chuẩn hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội”. [9]
Theo Phạm Hồng Tung: “Lối sống của con người là các
chiều cạnh chủ quan của văn hóa, là quá trình hiện thực hóa
các giá trị văn hóa thông qua hoạt động sống của con người.
Lối sống bao gồm tất cả những hoạt động sống và phương
thức tiến hành các hoạt động sống được một bộ phận lớn hoặc

toàn thể nhóm hay cộng đồng người chấp nhận và thực hành
trong một khoảng thời gian tương đối ổn định, đặt trong mối
tương tác biện chứng của các điều kiện sống hiện hữu và
trong các mối liên hệ lịch sử của chúng” [10].
Như vậy, lối sống là một thói quen có định hướng, là
phương cách thể hiện tổng hợp tất cả các cấu trúc, nền văn
hóa, đặc trưng văn hóa của con người hay cộng đồng. Lối
sống phụ thuộc vào thời đại con người đang sống, với các


điều kiện vật chất, kinh tế, các quan hệ xã hội, các thói quen,
tập quán, tục lệ của thời đại đó.
Bên cạnh khái niệm lối sống, hiện nay chúng ta cũng bàn
nhiều đến khái niệm lối sống mới. “Lối sống mới là phương
thức sống của con người thể hiện ở sự lựa chọn các hoạt động
và cách thức thực hiện các hoạt động đó mang tính dân tộc,
hiện đại, nhân văn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
nhằm thực hiện mục tiêu phát triển con người toàn diện trên
các lĩnh vực đức, trí, thể, mỹ” [11].
Theo Nguyễn Trần Bạt (2005) trong cuốn “Văn hóa &
Con người”, tác giả cho rằng: “Con người luôn luôn phải tồn
tại trong một cộng đồng người, một nước, một khu vực nhất
định. Trong cuộc sống chung như thế, người ta buộc phải tuân
thủ những qui tắc nhất định, thành văn hoặc bất thành văn.
Những qui tắc này bao trùm tất cả các lĩnh vực: đạo đức, thẩm
mỹ... Trong số đó, có những qui tắc dần dần được cá nhân
thừa nhận và trở thành thói quen. Đó là lối sống cá nhân. Có
những qui tắc được thừa nhận rộng rãi trong nội bộ một cộng
đồng nào đó. Chúng được người ta tuân thủ gần như vô điều
kiện, gần như một lẽ đương nhiên. Đó là lối sống cộng đồng.”



Lối sống là một thói quen có định hướng, có chất lượng
lý tưởng. Lối sống là phương cách thể hiện tổng hợp tất cả các
cấu trúc, nền văn hoá, đặc trưng văn hoá của một con người
hay một cộng đồng.
Lối sống liên quan và ảnh hưởng đến mục đích sống, có
liên quan đến mức sống và chất lượng sống, gắn liền với trình
độ kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội của con người và với mối
quan hệ với các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, giữa
nhà nước và nhân dân, giữa thành thị và nông thôn, giữa lao
động trí óc và lao động chân tay.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi đưa
ra khái niệm như sau: Lối sống là toàn bộ những hình thức
hoạt động nâng cao trình độ hiểu biết để hoàn thiện và trí
tuệ, tiếp thu giá trị về tinh thần, biến các giá trị văn hóa
thành bộ phận khăng khít trong sinh hoạt hàng ngày trở
thành những cơ sở cho những tiêu chuẩn hành vi phù hợp với
các chuẩn mực xã hội.
Giáo dục đạo đức, lối sống
Giáo dục đạo đức lối sống là một trong những hoạt động
song song với giáo dục trí tuệ trong nhà trường. Tác giả I. A.


Ilina cho rằng đây là một hoạt động chuyên biệt, có mục đích
của nhà giáo dục nhằm xây dựng cho học sinh những nét tính
cách nhất định, bồi dưỡng cho các em các tiêu chuẩn và quy
tắc hành vi quy định thái độ của các em với nhau, đối với gia
đình, đối với những người xung quanh, đối với Tổ quốc [12].
Cũng liên quan đến giáo dục lối sống, tác giả Hà Nhật

Thăng quan niệm:
Giáo dục hệ thống giá trị đạo đức nhân văn là một quá
trình tổ chức hoạt động giáo dục bằng nhiều con đường, nhiều
biện pháp nhằm giúp mọi người hiểu biết hệ thống giá trị
chuẩn mực đạo đức nhân văn theo yêu cầu của sự phát triển
xã hội và giúp mọi người tự giác, có nhu cầu thực hiện những
chuẩn mực đó. Hệ thống giá trị đó định hướng điều chỉnh
hành vi của con người [13].
Giáo dục đạo đức, lối sống giúp cho mỗi cá nhân nâng
cao trình độ nhận thức về các giá trị đạo đức, lối sống từ đó tự
điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp với những chuẩn mực đạo
đức, lối sống của xã hội.
Giáo dục đạo đức, lối sống góp phần gìn giữ, phát huy
những giá trị đạo đức mà các thế hệ trước đã tạo dựng; đồng


thời góp phần tích cực trong việc giáo dục hình thành những
giá trị đạo đức, lối sống mới, khắc phục những quan điểm lạc
hậu, sự lệch chuẩn các giá trị đạo đức truyền thống, những
thói hư tật xấu hay những hiện tượng phi đạo đức.
Giáo dục đạo đức, lối sống không chỉ làm cho con người
nhận thức đúng các chuẩn mực đạo đức, các giá trị đạo đức,
lối sống mà còn thông qua đó để hình thành niềm tin và tình
cảm đạo đức. Trên cơ sở đó giúp con nguời nhận ra giá trị của
các giá trị đạo đức, nhận thấy giá trị và ý nghĩa cuộc sống
mang tính nhân bản, nhân ái, nhân văn sâu sắc, góp phần nhân
đạo hóa con người và đời sống xã hội.
Nhìn chung các tác giả đều thống nhất khái niệm giáo
dục lối sống thực chất là một quá trình biến những chuẩn
mực, những quy tắc xã hội từ chỗ là đòi hỏi của xã hội đối với

con người thành hệ thống nhu cầu, động cơ lối sống bên trong
của mỗi cá nhân, là quá trình thể hiện nhận thức, thái độ và
hành vi phù hợp chuẩn mực xã hội.
Tóm lại, trong luận văn này chúng tôi hiểu về khái niệm
giáo dục lối sống là một quá trình giáo dục được tổ chức có
mục đích, có kế hoạch, có hệ thống nhằm chuyển hóa một


cách tích cực, tự giác các chuẩn mực lối sống thành nhận
thức, tình cảm, niềm tin, thái độ, hành vi và thói quen phù
hợp với yêu cầu chuẩn mực xã hội.
Giáo dục lối sống cho HS tiểu học
GD lối sống cho HS tiểu học là giáo dục cách cư xử
chuẩn mực trong cuộc sống thường ngày. Trẻ học cách cư xử
một cách có trách nhiệm và chia sẻ. Cư xử với ai? Đó là cách
cư xử của trẻ với bạn bè cùng trang lứa, với thầy cô ở trường,
với anh chị em trong gia đình, với người khác nói chung.
Từ những hiểu biết, những khái niệm về lối sống, giáo
dục đạo đức lối sống nêu trên, chúng tôi có thể phát triển
thành khái niệm giáo dục lối sống cho HS Tiểu học: Giáo dục
lối sống cho HS Tiểu học là quá trình giáo dục được tổ chức
có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống nhằm chuyển hóa một
cách tích cực, tự giác các chuẩn mực lối sống thành nhận
thức, tình cảm, niềm tin, thái độ, hành vi và thói quen phù
hợp với yêu cầu chuẩn mực xã hội cho HS Tiểu học.
Giáo dục lối sống dựa vào cộng đồng


Từ các khái niệm cộng đồng, giáo dục lối sống, chúng
tôi có thể đưa ra khái niệm giáo dục lối sống dựa vào cộng

đồng là: Toàn bộ các lượng lượng xã hội cùng tham gia vào
quá trình giáo dục được tổ chức có mục đích, có kế hoạch, có
hệ thống nhằm giúp mọi người trong cộng đồng chuyển hóa
một cách tích cực, tự giác các chuẩn mực lối sống thành nhận
thức, tình cảm, niềm tin, thái độ, hành vi và thói quen phù
hợp với yêu cầu chuẩn mực xã hội.
Giáo dục lối sống cho học sinh tiểu học dựa vào cộng
đồng
Trên các khái niệm giáo dục lối sống giáo dục và giáo
dục lối sống dựa vào cộng đồng, chúng tôi có thể khái quát
thành khái niệm giáo dục lối sống cho HS tiểu học dựa vào
cộng đồng là: Toàn bộ xã hội làm giáo dục, mọi tầng lớp
nhân dân tham gia vào hoạt động giáo dục nhằm giúp HS
tiểu học chuyển hóa tích cực, tự giác các chuẩn mực lối sống
thành nhận thức, tình cảm, niềm tin, thái độ, hành vi, thói
quen phù hợp với yêu cầu chuẩn mực xã hội.
Giáo dục lối sống cho HS tiểu học dựa vào cộng đồng
Đặc điểm nhân cách của học sinh tiểu học


×