Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Tìm hiểu thành tố thuần việt và hán việt trong thành ngữ việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.5 KB, 75 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC
*****

HOÀNG THIỀU HOA

TÌM HIỂU THÀNH TỐ THUẦN VIỆT VÀ
HÁN VIỆT TRONG THÀNH NGỮ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI - 2011


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC
*****

HOÀNG THIỀU HOA

TÌM HIỂU THÀNH TỐ THUẦN VIỆT VÀ
HÁN VIỆT TRONG THÀNH NGỮ VIỆT NAM
Chuyên ngành

: Ngôn ngữ học

Mã số học viên

: NQ5352 (Trung Quốc)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Chính

HÀ NỘI - 2011


LỜI CẢM ƠN

Luận văn này đã được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của
PGS. TS. Nguyễn Văn Chính. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
Thầy, cảm ơn Thầy đã dành nhiều thời gian để chỉ bảo tận tình, hướng
dẫn cách làm và đóng góp những ý kiến quý báu để tôi hoàn thành luận
văn một cách thuận lợi.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các Thầy, các Cô trong Khoa
Ngôn Ngữ học, Trường Đại học khoa học xã hội & Nhân văn (Đại Học
Quốc Gia Hà Nội) đã tận tâm dạy dỗ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
học tập và hoàn thành luận văn tại Việt Nam.
Nhân đây, tôi cũng xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp, bạn bè
đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và viết luận văn.
Xin chân thành cảm ơn.

Tác giả luận văn

Hoàng Thiều Hoa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
0.1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................1
0.2. Đối tượng nghiên cứu..........................................................................3

0.3. Mục đích và nội dung nghiên cứu.......................................................4
0.4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.............................................4
0.5. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu....................................................5
0.6. Cấu trúc của luận văn..........................................................................5
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
1.1.Quan niệm về từ thuần Việt và Hán -Việt...........................................6
1.1.1 Từ thuần Việt..........................................................................6
1.1.2 Từ Hán-Việt...........................................................................9
1.2. Quan niệm về thành ngữ và cách phân biệt tạm thời giữa thành ngữ
với các đơn vị khác (Từ ghép, tục ngữ, quán ngữ, cách ngôn, cụm từ tự
do) ............................................................................................................12
1.2.1 Quan niệm về thành ngữ.......................................................12
1.2.1.1. Quan niệm về thành ngữ của các học giả Trung Quốc.....13
1.2.1.2 Quan niệm của các nhà Việt ngữ học về thành ngữ...........16
1.2.2. Phân biệt thành ngữ với các kiểu loại đơn vị khác...............17
1.2.2.1. Phân biệt thành ngữ và từ ghép.........................................17
1.2.2.2. Phân biệt thành ngữ với quán ngữ.................................,...18


1.2.2.3. Phân biệt thành ngữ với tục ngữ........................................21
1.2.2.4. Phân biệt thành ngữ với cụm từ tự do...............................21
1.3.Tiểu kết chương I.....................................................................28
CHƯƠNG II. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG YẾU TỐ THUẦN VIỆT VÀ
HÁN - VIỆT TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT
2.1 Tình hình sử dụng yếu tố Hán - Việt trong thành ngữ tiếng Việt.......29
2.1.1. Yếu tố Hán Việt được giữ nguyên dạng ..............................30
2.1.2. Yếu tố Hán - Việt được dịch trực tiếp và sử dụng như thành
ngữ thuần Việt................................................................................34
2.1.3. Yếu tố Hán Việt được Nôm hoá để phù hợp với văn hoá ngôn

ngữ của người Việt.............................................................................36
2.1.4 Thay đổi từ ngữ vị trí trong thành ngữ gốc Hán...................37
2.1.5 Tăng thêm từ thuần Việt hoặc giản lược yếu tố Hán Việt khi
sử dụng thành ngữ Hán Việt................................................................39
2.2 Tình hình sử dụng yếu tố thuần Việt trong thành ngữ tiếng Việt.......41
2.2.1 Yếu tố thuần Việt trong thành ngữ tiếng Việt.......................41
2.2.2 Cấu tạo của thành ngữ mang ngữ thuần Việt........................43
2.3.Tiểu kết chương II..............................................................................47
CHƯƠNG III. THỬ SO SÁNH THÀNH NGỮ THUẦN VIỆT VỚI
THÀNH NGỮ HÁN - VIỆT VỀ GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ
THUẬT


3.1. So sánh giá trị nghệ thuật giữa thành ngữ thuần Việt và thành ngữ sử
dụng yếu tố Hán - Việt.............................................................................48
3.1.1. Sự giống và khác nhau về kết cấu........................................48
3.1.2. Sự giống và khác nhau về thanh vận....................................50
3.1.3. Sự giống và khác nhau về nghệ thuật so sánh......................50
3.1.4. Nghệ thuật phác họa hình tượng..........................................51
3.2. So sánh về giá trị nội dung của thành ngữ thuần Việt và thành ngữ có
yếu tố Hán - Việt.
3.2.1 Khái quát giá trị nội dung của các thành ngữ thuần Việt......52
3.2.2 Khái quát giá trị nội dung của thành ngữ tiếng Việt có yếu tố
Hán Việt..............................................................................................58
3.3 Tiểu kết chương III.............................................................................64
KẾT LUẬN.............................................................................................65


MỞ ĐẦU
0.1. Tính cấp thiết của đề tài

Tiếng Việt hay gọi là Việt ngữ, là ngôn ngữ của người Việt (người
Kinh) và là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam. Đây là tiếng mẹ đẻ của khoảng
85% dân cư Việt Nam, cùng với gần ba triệu người Việt hải ngoại. Mặc dù,
trong vốn từ vựng tiếng Việt có một số lượng khá lớn có nguồn gốc từ tiếng
Hán được người Việt vay mượn để sử dụng trong quá trình tiếp xúc văn hoá.
Về mặt văn tự, trước đây người Việt dùng chữ Hán để ghi lại ngôn ngữ của
mình, song hành với việc vay mượn và sử dụng chữ Hán (Hán tự), người Việt
còn sáng tạo ra loại chữ Nôm của riêng mình. Chữ nôm là loại hình chữ viết
do người Việt sáng tạo dựa trên chữ Hán của người Trung Quốc. Tiếng Việt
ảnh hưởng rất nhiều từ tiếng Hán, trong quá trình phát triển đã du nhập thêm
những từ Hán cổ như “đầu, gan, ghế, ông, bà, cậu…, từ đó hình thành nên hệ
thống từ Hán - Việt trong tiếng Việt bằng cách đọc các chữ Hán theo ngữ âm
hiện có của tiếng Việt. Số lượng từ vựng tiếng Việt có thêm hàng loạt các yếu
tố Hán như: tâm, minh, đức, thiên, tự do…Khi du nhập vào tiếng Việt chúng
vẫn giữ nguyên ý nghĩa chỉ khác cách đọc, thay đổi vị trí các yếu tố cấu tạo từ
chẳng hạn như “nhiệt náo” thành “náo nhiệt”, “thích phóng” thành “phóng
thích”… hoặc được sử dụng dưới dạng rút gọn như

“thừa trần” thành “trần”

(trong trần nhà), “lạc hoa sinh” thành “lạc” (trong “củ lạc”, còn gọi là đậu

1


phộng)… Hay đổi khác nghĩa hoàn toàn như “phương phi” trong tiếng Hán có
nghĩa là “hoa cỏ thơm tho” thì trong tiếng Việt có nghĩa là béo tốt. Đặc biệt là
các yếu tố Hán Việt được sử dụng để tạo tên những từ ngữ đặc trưng chỉ có
trong tiếng Việt, không có trong tiếng Hán như là các từ “sĩ diện”, “phi công”
(dùng hai yếu tố Hán -Việt) hay “bao gồm”, “sống động” (một yếu tố Hán kết

hợp với một yếu tố thuần Việt. Nói chung tỉ lệ vay mượn tiếng Hán trong
tiếng Việt rất lớn (khoảng trên 70%) nhưng đại đa số các yếu tố đó đều đã
được Việt hoá cho phù hợp với bản sắc tiếng Việt và với nhận thức của người
Việt. Do vậy tiếng Việt trải qua một quá trình vay mượn lâu dài đã vừa làm
giàu cho mình lại vừa giữ được bản sắc riêng trước ảnh hưởng của văn hoá
Hán. Việc lợi dụng được những thành tựu ngôn ngữ trong tiếng Hán để tự cải
tiến mình, hoàn thiện mình rõ ràng là một đặc điểm độc đáo mà tiếng Việt có
được. Nói đến quá trình vay mượn, thường người ta thường chú ý nhiều đến
các yếu tố vay mượn mà đôi khi xao lãng, ít quan tâm đến các yếu tố gốc,
trong trường hợp tiếng Việt thì đó là các yếu tố thuần Việt.
Cùng với sự phát triển của xã hội, văn hóa và ngôn ngữ có liên hệ chặt
chẽ, không thể tách rời. Ngôn ngữ là phương tiện chuyên chở văn hóa và văn
hóa chứa đựng trong ngôn ngữ. Chính vì vậy người ta đã nói rằng ngôn ngữ là
kết tinh của văn hóa dân tộc, nhờ ngôn ngữ và văn tự mà văn hoá được lưu
truyền. Văn hóa và ngôn ngữ luôn nương nhờ vào nhau để tồn tại và phát
triển.

2


Mỗi vùng đất do điều kiện tự nhiên khác nhau tạo nên một cách lối
sống và tư tuy văn hóa khác nhau. Những yếu tố này, do vậy, góp phần hình
thành nền văn hóa riêng của từng vùng đất. Cho nên, mỗi nền văn hóa có nét
đặc sắc riêng thể hiên đặc trưng cho mỗi dân tộc. Tính độc đáo, cái “hồn cốt”
văn hoá không chỉ thể hiện thông qua các từ trong vốn từ vựng mà bên cạnh
đó còn chứa đựng trong một loại đơn vị khá đặc biệt đó là thành ngữ.
Đối với người Việt và người Trung Quốc, thành ngữ không phải là loại
đơn vị từ vựng chỉ được những người “có chữ” sử dụng trong các tác phẩm
văn học nghệ thuật mà còn được đại đa số quần chúng, những người “bình
dân” dùng trong mọi lĩnh vực giao tiếp của đờì sống thường nhật, tính cô

đọng về mặt ngữ nghĩa, uyển chuyển trong sử dụng khiến cho thành ngữ có
giá trị ứng dụng rất lớn.
Việc tìm hiểu thành ngữ, cụ thể là tìm hiểu sâu việc sử dụng các yếu tố
thuần Việt và Hán - Việt trong thành ngữ Việt Nam sẽ giúp chúng ta hiểu toàn
diện hơn về kho tàng thành ngữ trong tiếng Việt, từ đó có cái nhìn sâu sắc hơn
về văn hoá Việt Nam, hiểu đúng và nắm bắt được những cái ý nhị trong ngữ
nghĩa mà thành ngữ tiếng Việt biểu đạt.
0.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn đi vào tìm hiểu các yếu tố thuần Việt và Hán - Việt trong
thành ngữ tiếng Việt. Đối tượng mà luận văn hướng đến chính là cố gắng mô
tả một số đặc điểm của hai loại yếu tố khác nguồn gốc này. Tiến thêm một

3


bước, chúng tôi sẽ gắng chỉ ra vai trò, vị trí của từng loại yếu tố trong việc
làm nên bản sắc của thành ngữ tiếng Việt. Và để làm được điều đó, luận văn
sẽ từng bước thống kê, nhận diện rồi phân tích mô tả các loại yếu tố cấu thành
thành ngữ tiếng Việt trên một số phương diện.
0.3. Mục đích và nội dung nghiên cứu
Như đã xác định trong nhan đề luận văn, luận văn của chúng tôi có mục
đích khảo cứu các yếu tố Hán - Việt và thuần Việt trong kho tàng thành ngữ
tiếng Việt từ đó thấy rõ hơn diện mạo của loại đơn vị từ vựng này về các mặt
hình thức cấu tạo, cách thức cấu tạo. Tiến thêm một bước chúng tôi sẽ tìm
hiểu về cách thức pha trộn các yếu tố Hán - Việt với yếu tố thuần Việt trong
một thành ngữ như thế nào.
0.4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Về khoa học: Nhận diện lại các yếu tố gốc Hán, thuần Việt trong hệ
thống từ vựng tiếng Việt nói chung, trong thành ngữ tiếng Việt nói riêng.
Hiểu rõ thêm về cách quan niệm về thành ngữ của các nhà ngôn ngữ học

Trung Quốc, Việt Nam. Giúp người nước ngoài nhận biết về lịch sử và nguồn
gốc các yếu tố cấu thành thành ngữ Việt Nam.
- Về thực tiễn: Giúp cho học viên nước ngoài học tốt tiếng Việt và hiểu
biết sâu sắc hơn về ngôn ngữ, văn hoá Việt Nam. Giải quyết tốt một số vấn đề
về thành ngữ tiếng Việt sẽ giúp cho công tác dịch thuật các tác phẩm văn học
nghệ thuật cũng như các văn bản thuộc các lĩnh vực khác một cách thiết thực.

4


0.5. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu chúng tôi sử dụng trong luận văn này được lựa chọn
trong cuốn “ Từ điển thành ngữ - tục ngữ Việt Hán” do Nguyễn Văn Khang
biên soạn, NXB. Văn hoá Sài Gòn 2008. Sở dĩ chúng tôi chọn cuốn này để
khảo cứu là vì: đây là một cuốn từ điển mới xuất bản (2008) và tác giả cuốn
sách là một nhà ngôn ngữ học có vốn Hán học khá uyên bác. Số lượng thành
ngữ Hán (được người Việt chấp nhận và sử dụng) trong cuốn này theo chúng
tôi là nhiều hơn các cuốn khác. Dù vậy, luận văn cũng tham khảo và sử dụng
một số thành ngữ được chúng tôi tham khảo từ các nguồn khác. Chúng tôi coi
đây là một việc dĩ nhiên trong khoa học bởi nguồn tư liệu càng dồi dào thì
tính chính xác và độ thuyết phục khoa học sẽ càng cao.
Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp
thống kê, phân tích và miêu tả.
0.6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm ba chương với nội
dung chính như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận liên quan đến luận văn.
Chương 2. Tình hình sử dụng yếu tố thuần Việt và Hán Việt trong
thành ngữ tiếng Việt
Chương 3. Thử so sánh thành ngữ thuần Việt và thành ngữ sử dụng yếu

tố Hán Việt về giá trị nội dung và hình thức nghệ thuật.

5


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN

1.1.Quan niệm về từ thuần Việt và Hán -Việt
1.1.1 Từ thuần Việt.
Khái niệm từ thuần Việt thực ra không phải là một khái niệm dễ nhận
biết và đến nay cũng chưa phải đã có sự thống nhất trong quan niệm của các
nhà ngôn ngữ học. Từ thuần Việt, theo Nguyễn Văn Tu là các từ vốn có từ lâu
đời làm thành vốn từ vựng cơ bản riêng của tiếng Việt. Ví dụ: cha, mẹ, mưa,
nắng, bếp, vườn, mặt trời, đẹp, xấu ... Ông cho rằng, từ thuần Việt như chúng
ta thấy ngày nay chính là kết quả của sự Việt hoá các yếu tố từ vựng bắt
nguồn từ nhiều ngôn ngữ họ hàng khác. Ông viết:
“Những từ thuần Việt là những từ được dân tộc ta dùng từ thượng cổ
đến nay. Những từ thuần Việt có quan hệ đến vốn từ vựng cơ bản của nhiều
ngôn ngữ Đông Nam Á như: tiếng Thái, tiếng Môn – Khơ – me v.v...”
(Nguyễn Văn Tu [14,187],.
Có cùng quan điểm với Nguyễn văn Tu, Phan Ngọc cũng khẳng định:
“khi nói đến thuật ngữ thuần Việt, một người không quen với ngôn ngữ học
hiện đại có thể tưởng đâu rằng đó là những từ do chính bản thân người Việt
tạo ra, không vay mượn ở đâu hết. Sự thực thì khái niệm từ Việt, từ Nga, từ

6


Anh đều không phải là những khái niệm lịch sử mà chỉ dựa trên hình thức ...

câu trả lời đối với tiếng Việt là hết sức đơn giản; bất kỳ từ nào đơn tiết cũng
là từ thuần Việt”. (Phan Ngọc [16, 114]. Tiến xa hơn một bước, Phan Ngọc
lấy thái độ của người Việt làm tiêu chuẩn đầu để nhận diện đâu là thuần Việt,
đâu là ngoại lai. Ông viết:
“Bất kỳ từ láy âm nào cũng được xem là thuần Việt không kể nguồn
gốc; Những từ như lặc lè, lập là, long tong mặc dầu là gốc Pháp cũng được
người Việt Nam xem là từ thuần Việt” (Phan Ngọc [17, 116]. Tương tự như
hai học giả trên, Nguyễn Thiện Giáp, trong các công trình của mình quan
niệm: “Ngoài những từ có thể xác định chắc chắn là tiếng Việt tiếp nhận của
tiếng Hán và các ngôn ngữ Ấn, Âu, tất cả các từ còn lại đều được gọi là các từ
thuần Việt. Những từ được gọi là thuần Việt thường trùng với bộ phận từ
vựng gốc của tiếng Việt, chúng biểu thị những sự vật, hiện tượng cơ bản nhất,
chắc chắn phải tồn tại từ rất lâu”. (Nguyễn Thiện Giáp [11, 269]. Rõ ràng,
ngoài những từ có thể xác định chắc chắn đó là gốc Hán hoặc Ấn – Âu thì ông
nhất loạt coi vốn từ vựng còn lại trong tiếng Việt đều là từ thuần Việt cả bất
kẻ chúng có gốc từ ngôn ngữ nào.
Nguyễn Như Ý, không gọi thẳng là từ thuần Việt mà gọi đó là từ gốc.
Ông viết: “Từ gốc: Từ vốn có trong thành phần từ vựng ban đầu của một
ngôn ngữ, nằm trong vốn từ cơ bản của một ngôn ngữ, đối lập với từ vay

7


mượn,; còn gọi là từ bản ngữ, từ chính gốc, từ thuần”. (Nguyễn Như Ý [4;
896].
Theo Trần Trí Dõi: Lớp từ thuần Việt là cốt lõi của từ vựng tiếng Việt.
Nó làm chỗ dựa và có vai trò điều khiển, chi phối sự hoạt động của mọi lớp từ
khác. Nếu coi từ thuần Việt là kết quả của quá trình tiếp xúc, tác động lâu dài
giữa các ngôn ngữ Nam Á và Tày-Thái thì các từ này hình thành nên một lớp
từ vựng cơ bản và lâu đời nhất trong tiếng Việt, có thể chia ra như sau:

Những từ tương ứng với tiếng Mường như: đuôi, móng, mồm, sừng...;
cô gái, đàn ông, vợ, chồng...; cây, củ, cơm, mả...; bí, cỏ, chuối, hành..., bướm,
cáo, cầy, chuột...; bẩn, cay, chậm, dài...; ăn, bơi, cấy, chạy...
Những từ tương ứng với các tiếng Tày-Thái như: bánh, bóc, buộc,
đường, gọt, ngắt, ngọn, rẫy, vắng...
Những từ tương ứng với các tiếng Việt-Mường và Tày-Thái như: bão,
bể, dao, gạo, ngà voi, sống...
Những từ tương ứng với nhóm Việt-Mường và Bru ở tây Quảng Bình:
bụng, bốc, bớt, củi, đêm, mặt trăng, mặt trời, núi, rắn, chuột...
Những từ tương ứng với nhóm Việt-Mường và Môn-Khơme ở Tây
Nguyên: dốc, đèo, khói, mây, mưa, rừng, sấm...; da, đầu gối, mỡ, người, óc,
tim, thịt...; bố, bọn, mày, mẹ, nó...; bếp, cày, chổi, cuốc, ruộng...; bịt, bóp, bú,
bưng, cắn, cắt, đứng, gãi, hét, lắc, mặc, nghĩ, ngồi, phá, quăng, ôm, rụng,
tát, về, xé...

8


Những từ tương ứng với nhóm Việt-Mường và các ngôn ngữ
Môn-Khơme nói chung: một, hai, ba, bốn, năm...; con, cháu, mọi, người; đất,
đá, gió, lửa...; cằm, chân, cổ, lưng...; bay, cắt, đẻ, kẹp, liếc...; ao, cá, chim,
lá...; cong, già, mới, ngát.
Các ví dụ trên đây chứng tỏ rằng cội rễ của từ vựng tiếng Việt hết sức
phức tạp. Chúng gồm nhiều nguồn đan xen, chồng chéo, thậm chí phủ lấp lên
nhau. Nghiên cứu chúng sẽ có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc khảo
cứu nguồn gốc tiếng Việt nói chung. Quan điểm trên của Trần Trí Dõi rõ ràng
là rất thống nhất với các cách quan niệm của các tác giả Nguyễn Văn Tu,
Phan Ngọc, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Như Ý... nhưng ông đi vào chi tiết
hơn, cụ thể hơn. Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ cách quan niệm này và muốn
nhấn mạnh hơn vào cái tiêu chí “thái độ của người Việt”, bởi vì, thật khó để

chúng ta phân biệt được thế nào là một từ thuần Việt nếu không dựa vào cảm
quan của người bản ngữ. Trên thực tế, xử lý tư liệu sẽ có một số trường hợp
mà nếu xét một cách nghiêm ngặt thì đó là từ ngoại lai (gốc Hán chẳng hạn)
nhưng trong quá trình sử dụng chúng đã trở nên gần gũi với người Việt, được
người Việt coi như yếu tố gốc, yếu tố thuần Việt.
1.1.2 Từ Hán-Việt
Sự tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Hán bắt đầu khi nhà Hán của Trung
Quốc đô hộ Việt Nam. Quá trình tiếp xúc lâu dài giữa hai ngôn ngữ này đã
dẫn đến kết quả là tiếng Việt du nhập một khối lượng rất lớn từ ngữ gốc Hán.

9


Hiện tượng này diễn ra với các mức độ khác nhau qua các thời kỳ. Giai đoạn
đầu sự tiếp xúc vay mượn còn mang tính chất lẻ tẻ, rời rạc, chủ yếu thông qua
con đường tiếp xúc khẩu ngữ giữa người Việt và người Hán. Đến đời Đường,
tiếng Việt mới có sự tiếp nhận các từ ngữ Hán một cách có hệ thống qua con
đường sách vở. Các từ ngữ gốc Hán này chủ yếu được đọc theo ngữ âm đời
Đường tuân thủ nguyên tắc ngữ âm tiếng Việt gọi là âm Hán-Việt. Ví dụ:
phiền, phòng, trà, trảm, chủ... Các từ ngữ gốc Hán nhưng không đọc theo âm
Hán-Việt như: Các từ được du nhập vào tiếng Việt trước đời Đường, cũng gọi
là âm Hán cổ (tương ứng với các âm Hán-Việt trên là buồn, buồng, chè,
chém, chúa...). Ngoài ra cũng cần kể đến những từ xuất phát từ các phương
ngữ Trung Quốc khác nhau (như tiếng Quảng Đông, tiếng Triều Châu...) được
du nhập thông qua đường khẩu ngữ như: ca la thầu, mì chính, xì dầu, bánh
pía, sương sáo, lẩu...
Vấn đề nguồn gốc từ, đặc biệt là từ Hán - Việt vốn đã được các nhà
Việt ngữ học chú ý từ lâu. Theo một số học giả thì từ Hán Việt được định
nghĩa như sau: “từ Hán Việt đã nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Việt, chịu sự
chi phối của các quy luật ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa của tiếng Việt; còn

gọi là từ Việt gốc Hán. Ví dụ: Chính phủ, quốc gia, giang sơn, nhân dân, tổ
quốc, xã tắc. (Cao Xuân Hạo- Hoàng Dũng [2, 360]. Theo Bùi Đức Tịnh: “Có
thể định nghĩa một cách giản dị rằng tiếng Hán Việt là những từ tiếng Hán
phát âm theo lối Việt. Ban đầu đó là những chữ Hán mà khi học trong sách

10


Trung Hoa, các nhà trí thức ta đọc trại đi theo giọng Việt”; “ Những tiếng
Trung Hoa học được, tổ tiên ta nói trại đi. Sự biến hoá các tiếng Hán theo âm
hưởng Việt Nam ấy đã diễn ra bằng hai cách nói trại của dân chúng (dân hoá)
và cách nói trại của các nhà trí thức (nho hoá).
Những tiếng do các nhà trí thức nói trại sẽ được gọi là tiếng HánViệt”.
(Bùi Đức Tịnh [1, 10].
Cũng theo Bùi đức Tịnh thì: “Tiếng Hán Việt có hai đặc tính.
1. Về chính tả, giữa âm và thinh có một sự liên quan trực tiếp.
Ví dụ: Các tiếng hán Việt khởi đầu bằng một nguyên âm chỉ có thể
có các dấu sắc, hỏi, hay không dấu; những tiếng khởi đầu bằng một phụ âm (l,
m, n, ng, ngh, nh) chẳng hạn chỉ có dấu ngã hay dấu nặng.
- ẩn, ổn, uỷ, ỷ, ảnh.
- Lễ, mẫu, nỗ, ngũ, nghĩa, nhã.
2. Về vị trí tương đối của các tiếng dùng chung, tiếng chỉ định đứng
trước tiếng được chỉ định.
Các nhà ngôn ngữ học gọi đó là ngữ pháp đặt ngược. Ví dụ:
- Hắc y “hắc” chỉ định, làm cho rõ nghĩa tiếng “y”
- Ký sinh trùng: “kí” chỉ định “sinh”, “kí sinh” chỉ định “trùng”
[1, 11].
Nguyễn Văn Tu, với một cách quan niệm mang tính hệ thống, đã đưa ra
một nhận định rất đáng lưu ý: “Trái với từ gốc Hán cổ, những từ Hán Việt hoá


11


ra đời sau khi ta đã mượn toàn bộ hệ thống từ gốc Hán. Nhưng hai thứ đều
giống nhau ở một điểm là chúng đi sâu vào sinh hoạt của quần chúng. Chính
chúng đã biến đổi các dạng của từ Hán mượn có thể không được dùng như
những từ Hán Việt hoá vẫn tồn tại” (Nguyễn Văn Tu [14,228].
Nguyễn Thiện Giáp, đưa ra một cách nhìn nghiêm ngặt hơn về từ Hán
Việt. Ông viết: “Chỉ được phép coi là từ Việt gốc Hán những từ Hán nào thực
sự nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Việt, chịu sự chi phối của các quy luật
ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp của tiếng Việt”. Như vậy, theo sự hình dung
của chúng tôi, từ gốc Hán trong tiếng Việt sẽ gồm hai bộ phận chính:
a. Các từ ngữ gốc Hán đọc theo âm hán Việt, gọi tắt là từ Hán Việt;
b. Các từ ngữ gốc Hán không đọc theo âm Hán Việt.
Cả hai bộ phận trên đây đều có những đặc điểm riêng khác với các từ
Hán đọc theo âm Hán Việt” (Nguyễn Thiện Giáp [11, 276]. Cũng bàn về từ
Hán Việt, nhóm tác giả cuốn “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt” quan niệm:
“Từ Hán Việt là những từ gốc Hán du nhập vào tiếng Việt trong giai đoạn hai,
mà người Việt đã đọc âm chuẩn của chúng theo hệ thống ngữ âm của mình”
[7, 254].
1.2. Quan niệm về thành ngữ và cách phân biệt tạm thời giữa thành
ngữ với các đơn vị khác (Từ ghép, tục ngữ, quán ngữ, cách ngôn, cụm từ
tự do)

12


1.2.1 Quan niệm về thành ngữ
1.2.1.1. Quan niệm về thành ngữ của các học giả Trung Quốc
Theo thư tịch Trung Quốc, trước khi dùng thuật ngữ “thành ngữ” thì

người Trung quốc dùng hai chữ thành ngôn để chỉ khái niệm này. Vi Trường
Phúc, trong luận văn “Đặc điểm của các thành ngữ chỉ tâm lý tình cảm trong
tiếng Hán (có sự đối chiếu với tiếng việt)” của mình đã viết “Theo Từ Diệu
Dân thì trước khi hai chữ thành ngữ xuất hiện người ta thường gặp khái niệm
“thành ngôn”. Hai chữ này có sớm nhất trong, Kinh dịch, Tả truyện, Li Tao và
một số thư tịch cổ khác” (tr. 7). Vi Trường Phúc, cũng trích theo Từ Diệu Dân
cho rằng “thực ra từ thời Nguyên, Minh đã có một số sách sử dụng hai chữ
thành ngữ, còn trước đó, ở đời Tống chưa thấy xuất hiện khái niệm này và
thường gọi những câu nói của người xưa là “cổ ngữ”, “thường ngữ”.
Trong các từ điển Trung Quốc, thành ngữ thường được định nghĩa như sau:
Từ điển Từ Nguyên (1915) đưa ra một quan niệm rất rộng về thành ngữ.
Từ điển này coi “thành ngữ là cổ ngữ, phàm những gì lưu hành trong xã hội,
có thể dẫn để biểu thị ý nghĩa của mình đều là thành ngữ”. Tương tự như vậy,
từ điển Từ Hải (1936) cũng coi “những cổ ngữ mà được người nay dẫn dụng
gọi là thành ngữ. Thành ngữ có nguồn gốc hoặc từ kinh truyện, hoặc từ ngạn
ngữ ca dao, được xã hội quen biết, được người dân hay dùng quen nghe”. Ở
lần xuất bản mới đây (tháng 9 năm 1979), định nghĩa thành ngữ của Từ Hải
có sự thay đổi chút ít, theo đó: Thành ngữ là những từ tổ cố định được quen

13


dùng. Thành ngữ trong tiếng Hán thường được cấu tạo dưới dạng tứ tự (bốn
chữ)... một số thành ngữ có thể lý giải qua từng yếu tố cấu tạo của nó, một số
thành ngữ phải biết được nguồn gốc mới hiểu được ý nghĩa của chúng.
Cũng xuất hiện vào thập kỷ 70 của thế kỷ trước, Mã Quốc Phàm cho
rằng thành ngữ là những từ tổ cố định được nhân dân quen dùng, có tính lịch
sử và tính dân tộc. Về mặt hình thức cấu tạo, thành ngữ Hán dạng thành ngữ
bốn âm tiết phổ biến nhất. Ra đời cùng kì nhưng tác giả Sử Thức có quan
niệm về thành ngữ một cách đa diện hơn, ông chú ý đến không chỉu mặt hình

thức kết cấu mà còn chú ý đến cả mặt ngữ nghĩa, chức năng của thành ngữ
nữa. Theo ông, thành ngữ là những từ tổ định hình, được mọi người quen
dùng xưa nay, có tính ước định, thường có hình thức kết cấu và thành phần
cấu thành cố định, có hàm nghĩa đặc biệt, không thể chỉ nhìn vào mặt chữ mà
đoán nghĩa, chức năng của chúng trong câu tương đương với một từ.
Sang thập kỷ 80 (TK.XX) quan niệm về thành ngữ của các nhà Hán
ngữ học lại tiến thêm một bước. Hồ Dục Thụ, trong Hán ngữ hiện đại cho
rằng thành ngữ là một loại từ tổ cố định, tính chất của nó gần với quán ngữ,
thường được sử dụng như một đơn vị với ý nghĩa hoàn chỉnh. Ông phân biệt
thành ngữ với những đơn vị ngôn ngữ khác, cụ thể: so với quán ngữ thì
thành ngữ có tính ổn định hơn. Thông thường, thành ngữ có kết cấu chặt chẽ,
không thể tuỳ ý thay đổi thành phần, cũng không giống như quán ngữ có thể
tách rời hoặc chen vào một số thành phần khác. Thành ngữ cũng khong giống

14


với các danh ngữ cố định. danh ngữ cố định tuy cũng không thể tuỳ tiện tách
rời hoặc thay đổi thành phần nhưng không phải có sẵn.
Phần lớn thành ngữ đều có tính điển hình, có cơ sở vững chắc trong tập
quán xã hội, nhưng chúng khác với một số từ ghép mang tính điển cố. Thành
ngữ tuy có kết cấu chặt chẽ nhưng trong thực tế sử dụng vẫn chỉ được xem
như một vật ngang giá với từ, bởi chúng vẫn chưa có được sự cố kết của một
từ mà vẫn còn dáng dấp của một loại từ tổ cố định.
Gần đây, khoảng những năm 90 của thế kỷ trước khi xuất bản Thành
ngữ cửu chương, hai tác giả Nhi Bảo Nguyên và Nhiêu Bằng Từ đưa ra cách
hiểu về thành ngữ như sau: Thành ngữ là những từ tổ cố định, đượcv mọi
người lâu nay quen dùng, có ý nghĩa hoàn chỉnh, kết cấu ổn định, hình thức
ngắn gọn, được sử dụng như một chỉnh thể. Với các tác giả này, thành ngữ
phải là các đơn vị có tính quen dùng về mặt lịch sử, có tính hoàn chỉnh về mặt

kết cấu, ngắn gọn về mặt hình thức và là một khối khi sử dụng. Tiến xa hơn
họ phân biệt thành ngữ với cụm từ tự do khi cho rằng, về mặt nội dung, cụm
từ tự do chỉ là sự cộng lại đơn thuần của các ý nghĩa từng thành tố, thứ hai, về
hình thức cấu tạo, cụm từ tự do là những tổ hợp có tính lâm thời, lỏng lẻo.
Tóm lại, theo các nhà Hán ngữ học thì thành ngữ, đến nay được quan
niệm là một loại “ngữ” đích thực, nó có các đặc trưng để phân biệt với các
loại ngữ khác cũng như các loại đơn vị ngôn ngữ khác (cụm từ tự do chẳng
hạn). Về mặt sử dụng, thành ngữ có cương vị tương đương một từ.

15


Nói chung, các bước tiến trong quan niệm về thành ngữ về cơ bản có sự
tương đồng giữa các nhà Hán ngữ học và Việt ngữ học, đó là việc từng bước
tìm tòi, vận dụng các tiêu chí khoa học để tách được thành ngữ ra khỏi các
đơn vị tương cận và xác định cho nó một cương vị độc lập.
1.2.1.2 Quan niệm của các nhà Việt ngữ học về thành ngữ
Muốn hiểu rõ thế nào là thành ngữ, cách phổ biến là người ta phân biệt
nó với các loại đơn vị khác: thứ nhất là phân biệt thành ngữ với từ ghép; thứ
hai là phân biệt thành ngữ với những kiểu cụm từ cố định khác như tục ngữ,
quán ngữ, đặc ngữ, cách ngôn; và thứ ba là phân biệt thành ngữ với cụm từ tự
do... Khi nghiên cứu về thành ngữ tiếng Việt, giới Việt ngữ học đã đưa ra một
số định nghĩa như sau:
“Thành ngữ là cụm từ cố định mà các từ trong đó đã mất tính độc lập
đến một trình độ cao về nghĩa, kết hợp làm thành một khối vững chắc, hoàn
chỉnh. Nghĩa của chúng không phải do nghĩa của từng thành tố (từ) tạo ra.
Những thành ngữ này có tính hình tượng hoặc cũng có thể không có. Nghĩa
của chúng đã khác nghĩa của những từ nhưng cũng có thể cắt nghĩa bằng từ
nguyên học” (Nguyễn văn Tu [15, 185]. Nguyễn Thiện Giáp, trong Từ vựng
học tiếng Việt thì định nghĩa ngắn gọn: “Thành ngữ là những cụm từ vừa có

tính hoàn chỉnh về nghĩa vừa có tính gợi cảm”. (tr. 77). Trong “Kể chuyện
thành ngữ, tục ngữ” Hoàng Văn Hành xác định “Theo cách hiểu thông
thường, thành ngữ là một loại tổ hợp từ cố định, bền vững về hình thái - cấu

16


trúc, hoàn chỉnh, bóng bẩy về ý nghĩa, được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp
thường ngày, đặc biệt là trong khẩu ngữ”. (tr. 25). Như Ý thì cho rằng: Thành
ngữ là “cụm từ hay ngữ cố định có tính nguyên khối về ngữ nghĩa, tạo thành
mộtchỉnh thể định danh có ý nghĩa chung, khác tổng số ý nghĩa của các thành
tố cấu thành nó, tức là không có nghĩa đenvà hoạt động như một từ riêng biệt
trong câu”. (tr. 36). Tóm lại, thành ngữ thường được nhận dạng với hai tiêu
chí (hình thức tổ chức và nội dung ) cụ thể:
- Tổ hợp từ hay cụm từ cố định (xét về cấu trúc).
- Có ý nghĩa hoàn chỉnh, ý nghĩa của thành ngữ không phải là phép
cộng đơn thuần mà có tính bóng bẩy, gợi cảm và hình tượng.
1.2.2. Phân biệt thành ngữ với các kiểu loại đơn vị khác
1.2.2.1. Phân biệt thành ngữ và từ ghép
Cả hai loại đơn vị này đều là các đơn vị có sẵn trong kho từ vựng của
một ngôn ngữ. Cả từ ghép và thành ngữ đều là những tổ hợp cố định về hình
thức, nguyên khối về cấu trúc nhưng ở bình diện này, các nhà nghiên cứu đã
chính xác khi cho rằng “mối quan hệ ngữ pháp trong thành ngữ phức tạp hơn,
nhiều bậc hơn, còn ở từ ghép mối quan hệ ngữ pháp đơn giản, ít bậc hơn” [6]
.

“quan hệ nội bộ ở thành ngữ phức tạp hơn ở từ ghép... có thể phân tích ra

hai hoặc hơn hai quan hệ ngữ pháp khác nhau” [13]. Cái phân biệt hai loại
đơn vị này chính là cơ cấu biểu nghĩa, theo đó nghĩa của thành ngữ là nghĩa

của loại “đơn vị định danh bậc hai” và là loại ý nghĩa có tính “biểu trưng hoá”

17


cao độ. Phân tích của Nguyễn Văn Khang khi viết lời bạt cuốn “Thành ngữ
học tiếng Việt” của cố GS. Hoàng Văn Hành [4],về đặc trưng ngữ nghĩa của
thành ngữ là hoàn toàn xác đáng: “Tính hoàn chỉnh về nghĩa của thành ngữ
được ông lý giải từ góc độ nghĩa định danh. “Song, khác với các đơn vị định
danh bình thường, thành ngữ là loại các đơn vị định danh bậc hai”. Với cách
nhìn này ông cho rằng thành ngữ là đơn vị từ vựng có lượng nghĩa đôi và hai
nghĩa này gần như song song tồn tại: nghĩa đen là cơ sở là gốc, nghĩa bóng
hay nghĩa phái sinh là nghĩa được sử dụng trong hành chức, là nghĩa hình
thành qua quá trình biểu trưng hoá. biểu trưng hoá về nghĩa của thành ngữ,
theo ông, thể hiện dưới hai hình thức: hình thức so sánh (ẩn dụ hoá) và hình
thức ẩn dụ (so sánh ngầm)” (tr. 11, 12 - Lời bạt của NVK).
1.2.2.2. Phân biệt thành ngữ với quán ngữ
Đối chiếu với quán ngữ thì sự khác nhau giữa hai loại đơn vị này khó
phân biệt hơn bởi lẽ, chúng đều là cụm từ cố định, đều được cấu tạo từ một số
lượng khá lớn các đơn vị âm tiết, mối quan hệ giữa các thành tố của hai loại
đơn vị này cũng phức tạp hơn mối quan hệ giữa các đơn vị của từ ghép, chúng
cũng có điểm giống nhau về chức năng tạo câu....
Dù vậy, các nhà Việt ngữ học cũng đã phân biệt thành công hai loại
đơn vị này trên cơ sở xem xét các đặc điểm về: Mức độ cố định trong cấu trúc
hình thức, tính hoàn chỉnh, bóng bẩy về nghĩa. Theo đó, Nguyễn Văn Tu cho
rằng: “Quán ngữ là những cụm từ rất gần với cụm từ tự do nhưng tương đối

18



ổn định về cấu trúc, được quen dùng mà các từ tạo ra chúng còn giữ tính độc
lập, có khi một từ trong đó có thể thay thế bằng một từ khác. Nghĩa của cụm
từ được thể hiện qua nghĩa đen hay nghĩa bóng của những từ, thành tố của
chúng” (tr. 182).
Một trong những người bỏ khá nhiều công sức trong việc tìm cách phân
biệt những loại đơn vị ngôn ngữ có nhiều điểm tương cận là Đỗ Hữu châu.
Theo ông, trong tiếng Việt có một loại đơn vị gọi là ngữ cố định. Ngữ cố định
khác với từ ghép và khác cụm từ tự do. Đó là các cụm từ nhưng đã cố định
hoá cho nên cũng có tính chất chặt chẽ, sẵn có, bắt buộc, có tính xã hội giống
như từ. Các ngữ cố định tương đương vớìăt về chức năng tạo câu, tương
đương với cụm từ về mặt ngữ nghĩa. Ông cũng cho rằng, do sự cố định hoá,
do tính chặt chẽ mà các ngữ cố định ít hay nhiều đều có tính thành ngữ. Tiến
hành phân loại ngữ cố định, Đỗ Hữu Châu cho rằng, có thể tách những ngữ
trung gian với cụm từ tự do thành một loại gọi là quán ngữ, những trường hợp
còn lại, tức là những trường hợp trung gian giữa từ phức và các ngữ cố định
thực sự được gọi là thành ngữ.
Nguyễn Thiện Giáp trong công trình của mình cũng tách cái gọi là
“ngữ” ra làm 4 loại: 1) Ngữ định danh, 2) Thành ngữ, 3) Ngữ láy âm. 4) Quán
ngữ. Theo đó, “ngữ định danh là những cụm từ biểu thị các sự vật, hiện tượng
hay khái niệm nào đó của thực tế, bao gồm cả những từ thường được gọi là từ
ghép như: xe đạp, xe máy và những cụm từ thường được gọi là ngữ cố định

19


×