Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Thực hiện chính sách đối với người có công trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.23 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VIẾT CHƯỞNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VIẾT CHƯỞNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành
Mã số

: Chính sách công
: 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN THỊ SÔNG THƯƠNG



HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

NGUYỄN VIẾT CHƯỞNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI
VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG ................................................................................ 8
1.1. Người có công và chính sách ưu đãi người có công .................................. 8
1.2. Nội dung và quy trình thực hiện chính sách đối với người có
công………………………………………………………………………… 19
1.3. Những yêu cầu cơ bản đối với việc tổ chức thực hiện chính sách người có
công ................................................................................................................. 25
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách người có công............ 27
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI
NGƯỜI CÓ CÔNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH
QUẢNG NGÃI............................................................................................... 31
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Sơn Tây.......................... 31
2.2. Thực trạng quá trình triển khai chính sách đối với NCC ở huyện Sơn Tây
......................................................................................................................... 35
2.3. Kết quả thực hiện chính sách đối với NCC trên địa bàn huyện Sơn Tây 43

2.4. Đánh giá chung về thực hiện chính sách đối với người có công trên địa
bàn huyện Sơn Tây .......................................................................................... 54
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG NGÃI ............................................................. 62
3.1. Dự báo những tác động ảnh hưởng đến thực hiện chính sách đối với
người có công trên địa bàn huyện Sơn Tây .................................................... 62
3.2. Quan điểm, định hướng hoàn thiện chính sách và bảo đảm thực hiện
chính sách đối với người có công ................................................................... 65


3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đối với người có công
trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi ................................................ 68
3.4. Khuyến nghị đối với huyện Sơn Tây ....................................................... 77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT

TỪ VIẾT TẮT

DIỄN GIẢI

01

BHYT


Bảo hiểm y tế

02

BHXH

Bảo hiểm xã hội

03

BMVNAH

Bà mẹ Việt Nam anh hùng

04

CSSK

Chăm sóc sức khỏe

05

HĐND

Hội đồng nhân dân

06

KT-XH


Kinh tế - xã hội

07

KCB

Khám chữa bệnh

08

LĐ-TB&XH

Lao động Thương binh - xã hội

09

UBMTTQ

Ủy ban Mặt trận tổ quốc

10

NCC

Người có công

11

TBLS


Thương binh liệt sỹ

12

TN-MT

Tài nguyên – Môi trường

13

UBND

Ủy ban nhân dân

14

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.1

2.2


Số lượng người có công hưởng trợ cấp ưu đãi hàng
tháng trên địa bàn huyện
Tổng số thẻ BHYT đã cấp cho các đối tượng NCC
qua các năm

Trang

46

47

Số lượng người có công và thân nhân được điều
2.3

dưỡng, phục hồi sức khỏe trên địa bàn huyện từ năm

48

2013 - 2018
2.4

2.5

Số lượng con của NCC cách mạng được hỗ trợ về học
phí từ năm 2013 – 2018
Số liệu về sửa chữa, xây mới nhà cho người có công
từ năm 2013 -2018

49


50


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, nhất là trãi
qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã có biết bao
người ngã xuống vì tổ quốc quyết sinh; có biết bao bà mẹ đã tiễn con đi và
khóc thầm lặng lẽ, có biết bao nhiêu chàng trai trẻ đã xếp bút nghiên và tạm
biệt mái trường thân yêu để lên đường ra trận… để rồi trong số họ có người
mãi mãi không trở về, có những người đã mất đi một phần thân thể của mình
hoặc mang trong mình di chứng suốt đời. Để ghi nhớ và đền đáp công ơn
những người đã có công với nước trên mọi miền Tổ quốc, Đảng và Nhà nước
ta hàng năm đã có hệ thống các chính sách đối với người có công (NCC) và tổ
chức thực thi chính sách cùng với các cơ chế huy động mọi nguồn lực tốt nhất
góp phần tạo lập sự ổn định và cải thiện đời sống NCC.
Liên hệ đến huyện Sơn Tây (Quảng Ngãi) vốn có bề dày truyền thống
cách mạng và của Khu 7 cũ (khu V hiện nay) trong công cuộc giải phóng toàn
tỉnh Quảng Ngãi ngày 24-3-1975, để đền đáp và tri ân NCC và gia đình NCC
trên địa bàn huyện, nhiều năm qua chính quyền huyện Sơn Tây đã tổ chức
thực thi căn bản các chính sách của Nhà nước đối với NCC; huy động cả hệ
thống chính trị từ huyện đến xã; và xã hội hóa các tổ chức, doanh nghiệp, cá
nhân tham gia tích cực triển khai chính sách bằng những việc làm và hành
động cụ thể như: huy động, đóng góp quỹ đền ơn đáp nghĩa; tìm kiếm, quy
tập mộ liệt sỹ; thắp nến tri ân; thường xuyên chăm sóc, phụng dưỡng Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng, vay vốn sản xuất phát triển kinh tế. Nhờ đó đã trợ giúp
cho NCC và gia đình NCC từng bước ổn định và cải thiện cuộc sống, tiếp tục
củng cố niềm tin của các đối tượng chính sách đối với Đảng và Nhà Nước.
Tuy vậy, so với yêu cầu mong đợi của địa phương vẫn còn một số hạn chế:


1


(1) Chất lượng và hiệu quả của công tác tuyên truyền chính sách còn có mặt
hạn chế nhất định; (2) Không ít văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách thiếu
tính đồng bộ, chưa rõ và một số quy định chưa phù hợp thực tiễn dẫn đến khó
thực hiện; (3) Thủ tục xét công nhận còn rườm rà, gây khó khăn cho đối tượng
chính sách NCC và việc triển khai thực hiện còn thiếu chặt chẽ trong quá
trình xét duyệt, thẩm định dẫn đến hiện tượng sót đối tượng hoặc tạo kẻ hở
trong quản lý để đối tượng lợi dụng khai man, làm sai lệch hồ sơ; (4) Một số
người dân chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa của chính sách NCC...
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Thực hiện chính
sách đối với người có công trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi”
để làm luận văn thạc sĩ chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về chính sách đối với người có công đã được thực hiện ở các
góc độ về lý luận, thực tiễn và chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong quá
trình nghiên cứu, tác giả đã tham khảo và kế thừa một số công trình và tài liệu
điển hình như sau:
- Bài viết “Thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công là tình cảm
thiêng liêng, trách nhiệm cao cả của hệ thống chính trị và toàn dân” của Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đăng trên Báo Nhân dân điện tử, ngày 27 tháng 7
năm 2017. Tổng Bí thư đã nêu rõ sự hy sinh mất mát, cống hiến thiêng liêng
của các bậc tiền bối cách mạng, anh hùng liệt sĩ, thương binh, chiến sĩ và
đồng bào ta; đồng thời Tổng Bí thư khẳng định: việc quan tâm chăm sóc, cải
thiện và nâng cao đời sống mọi mặt cho gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh
binh và NCC với cách mạng là chủ trương nhất quán của Ðảng và Nhà nước
ta, là đạo lý truyền thống tốt đẹp của cha ông ta.
- Bài viết “Tiếp tục thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công với nước

hiện nay, định hướng đến năm 2020” của tác giả Phạm Thị Hải Chuyền, đăng

2


trên Tạp chí Cộng sản năm 2015, số 837. Theo tác giả, để khắc phục các vấn đề
bất cập còn tồn tại và bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ của quá trình thực
thi chính sách đối với NCC với cách mạng; theo đó, tác giả đã đề xuất nhiều
nội dung giải pháp quan trọng nhằm thực hiện tốt chính sách ưu đãi NCC đến
năm 2020.
- Chuyên đề “Suy nghĩ từ những lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối
với thương binh, liệt sĩ trong Di chúc” của tác giả Lê Thị Liên in trong cuốn
sách “Giá trị nhân văn của Di chúc Hồ Chí Minh” của Bảo tàng Hồ Chí Minh
và Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội năm 2009 do Nxb
Thanh niên ấn hành tại Hà Nội. Chuyên đề này đã phân tích quan điểm của
Người đối với những người đã hy sinh cho nền độc lập tự do của Tổ quốc.
Qua đó, bài viết khẳng định chân giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách
xã hội đối với người có công với cách mạng trong việc hoạch định và tổ chức
thực hiện chính sách đối với người có công trong giai đoạn hiện nay.
- Chuyên đề “Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với
thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng - Bốn mươi năm nhìn
lại” của tác giả Nguyễn Hữu Chí in trong kỷ yếu Hội thảo khoa học 40 năm
thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia khu vực I tổ chức năm 2009 tại Hà Nội. Chuyên đề này khẳng
định Hồ Chí Minh là người khởi xướng phong trào đền ơn đáp nghĩa; và trong
suốt cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người đều đã dành tình cảm đặc
biệt cho thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ. Tác giả bài viết cũng khẳng định
sau 40 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước
ta đã quán triệt sâu sắc lời căn dặn của Hồ Chí Minh thông qua các chủ
trương, chính sách chăm lo đối với thương bệnh binh và gia đình có công với

cách mạng.
- Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học năm 2017 “Vận dụng

3


tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội thời kỳ đổi mới ở Việt Nam” của
tác giả Nguyễn Công Lập. Công trình nghiên cứu này trên cơ sở luận giải một
số khái niệm cơ bản đi vào phân tích trình bày làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh
về chính sách xã hội từ mục đích, đối tượng, nội dung, yêu cầu và lực lượng
thực hiện chính sách xã hội. Đồng thời, nghiên cứu đánh giá thực trạng vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội (thành tựu, hạn chế và
nguyên nhân của nó) trong thời kỳ đổi mới ở những năm qua. Qua đó, đề xuất
các nhóm giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay.
- Một số luận văn Thạc sĩ về đánh giá thực hiện chính sách đối với người
có công với cách mạng của một số tác giả như Hồ Văn Dũng (2016), Nguyễn
Văn Vân (2016), Nguyễn Thị Thanh Tùng (2018), Nguyễn Thị Thanh (2018)
v.v … đã trình bày các vấn đề lý luận, làm rõ một số vấn đề hạn chế và bất
cập trong việc thực thi chính sách đối với NCC ở một số địa phương; từ đó đề
xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc thực hiện chính sách đối với NCC
trong thời gian đến.
- Ngoài ra một số nghiên cứu liên quan đến chính sách an sinh xã hội,
trong đó đề cập đến một số vấn đề lý luận về an sinh xã hội, đánh giá quá trình
thực thi chính sách như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chính sách người có
công v.v…qua đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách
an sinh xã hội ở các địa phương và cả nước. Các nghiên cứu điển hình như Mai
Ngọc Cường và cộng sự (2013), Lê Anh (2017), Dương Thanh Phong (2018)
v.v…
Về cơ bản, phần lớn các công trình và tài liệu kể trên nghiên cứu tập trung

ở diện rộng, nghiên cứu cả hệ thống chính sách an sinh xã hội hoặc nghiên cứu ở
phương diện quy mô cả nước và một số địa phương. Tuy nhiên, hiện rất ít các
nghiên cứu đối với đặc thù vùng, miền, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng

4


bào dân tộc thiểu số để áp dụng chính sách người có công với cách mạng đang
thực hiện cho phù hợp. Riêng đối với địa bàn huyện Sơn Tây hiện vẫn chưa có
công trình nào nghiên cứu trùng lặp về chính sách người có công với cách mạng.
Chính vì vậy, tôi quyết định chọn và thực hiện nghiên cứu đề tài này nhằm làm
rõ hơn cơ sở lý luận và pháp lý về việc thực thi chính sách NCC trong điều kiện
thực tiễn của huyện Sơn Tây, để đáp ứng nhu cầu chính đáng của NCC với cách
mạng, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững và bảo
đảm giữ vững ổn định, an ninh chính trị trên địa bàn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và phân tích đánh giá thực trạng thực thi chính sách
đối với NCC từ thực tiễn huyện Sơn Tây (tỉnh Quảng Ngãi), luận văn đề xuất
giải pháp chủ yếu để gia tăng hiệu quả thực hiện chính sách đối với NCC ở
huyện Sơn Tây thời gian đến.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách đối với NCC.
+ Nghiên cứu đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đối với NCC từ
thực tiễn huyện Sơn Tây (tỉnh Quảng Ngãi) giai đoạn 2013-2018.
+ Xác định những vấn đề hạn chế, bất cập hiện nay đặt ra trong quá trình
thực hiện chính sách đối với NCC ở huyện Sơn Tây (tỉnh Quảng Ngãi).
+ Đề xuất các giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
đối với NCC ở huyện Sơn Tây (tỉnh Quảng Ngãi) thời gian đến.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện chính sách đối với NCC ở huyện Sơn Tây: những
quy định về các điều kiện, quy trình và trình tự thủ tục xác nhận; quá trình
thực hiện chính sách đối với NCC ở huyện Sơn Tây cho những đối tượng thụ

5


hưởng theo luật định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung nghiên cứu: Thực hiện chính sách NCC với cách mạng ở
huyện Sơn Tây.
- Về thời gian nghiên cứu: từ năm 2013 - năm 2018.
- Về không gian nghiên cứu: huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước ta
để nghiên cứu việc thực hiện chính sách đối với người có công.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp sưu tầm tài liệu.
+ Phương pháp thu thập thông tin và phân tích văn bản sơ cấp, thứ cấp.
+ Quan sát thực tế.
+ Phương pháp thống kê, so sánh, tổng hợp đánh giá.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về lý luận:
Các đóng góp của luận văn góp phần bổ sung, làm phong phú thêm hệ
thống cơ sở dữ liệu cho việc phân tích, hệ thống hoá những vấn đề lý luận và
thực tiễn nhằm giúp cho quá trình hoạch định, ban hành các chương trình,
chính sách dành cho người có công và việc tổ chức thực hiện chính sách này

trong thực tiễn.
6.2. Về thực tiễn:
+ Từ nghiên cứu thực tiễn và đánh giá thực trạng công tác quản lý và thực
thi chính sách NCC trên địa bàn huyện Sơn Tây để cung cấp luận cứ khoa học
nhằm đề xuất một số giải pháp hoàn thiện việc thực thi chính sách NCC ở giai

6


đoạn đến.
+ Tư vấn cho các nhà quản lý, cơ quan nhà nước xem xét để bổ sung, hoàn
thiện chính sách NCC; tham mưu cho các cơ quan thực hiện chính sách NCC
trên địa bàn huyện Sơn Tây trong quá trình vận dụng vào thực tiễn tình hình của
địa phương.
Những đóng góp mới của luận văn
Làm rõ hơn các quy định của Nhà nước ta về chính sách đối với người
có công với cách mạng. Nêu ra những vấn đề cần giải quyết trước mắt và lâu
dài trong việc hoàn thiện, ban hành chính sách người có công với cách mạng và
tổ chức thực thi nó. Làm rõ các căn cứ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước để góp phần tạo cơ sở cho cơ quan tổ chức có thẩm quyền các cấp vận
dụng phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương.
7. Cơ cấu của luận văn
Bên cạnh các mục mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung đề tài này được kết cấu thành 3 chương cơ bản:
Chương 1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đối với người có công.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách đối với người có công trên địa
bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đối với người
có công trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi.


7


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG
1.1. Người có công và chính sách ưu đãi người có công
1.1.1. Khái niệm người có công và đặc điểm của người có công với cách
mạng
* Khái niệm người có công:
Chính sách ưu đãi NCC với cách mạng đã thực hiện từ lâu, ngày 16-021947, lần đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 20/SL “Quy định
chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ”. Sắc lệnh này thể hiện chính
sách nhân văn của Nhà nước ta đối với NCC; một năm sau chính sách này
được bổ sung bởi Sắc lệnh 242/SL ngày 12 tháng 10 năm 1948 về quy định
tiêu chuẩn xác nhận thương binh, truy tặng tử sỹ, thực hiện chế độ lương hưu
thương tật cho thương binh và chế độ tiền tuất đối với gia đình liệt sỹ. Truyền
thống và đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây” từ
ngàn đời nay của Nhân dân ta, là cội nguồn sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước.
Vấn đề ưu đãi NCC đã trở thành nguyên tắc Hiến định và được ghi nhận
trang trọng ở Chương III, Điều 59, Khoản 1 của Hiến pháp năm 2013 quy
định : “Nhà nước, xã hội tôn vinh, khen thưởng, thực hiện chính sách ưu đãi
đối với NCC với nước”. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, việc thể chế hóa
nguyên tắc này được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh “Ưu
đãi người hoạt động cách mạng, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh
binh, người hoạt động kháng chiến, NCC giúp đỡ cách mạng” vào ngày 29
tháng 8 năm 1994. Đây là một bước tiến dài, từng bước hoàn thiện chính sách
ưu đãi NCC, theo chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm tạo điều kiện, cơ
hội tốt nhất để góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần đối với NCC,


8


mãi cho đến nay chưa có một văn bản pháp luật nào nêu rõ khái niệm NCC.
Song có thể dựa vào các quy định của Nhà nước về tiêu chuẩn cho mỗi đối
tượng là NCC, do đó quan niệm về NCC hiện nay ở 2 nghĩa, cụ thể đó là:
Theo nghĩa rộng, “người có công với cách mạng là những người không
phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác, đã tự nguyện cống
hiến sức lực, tài năng, trí tuệ, có người hy sinh cả cuộc đời mình cho sự nghiệp
dựng nước, giữ nước và kiến thiết đất nước. Họ là người có những thành tích
đóng góp hoặc những cống hiến xuất sắc phục vụ vì lợi ích của đất nước, của
dân tộc” được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận theo qui định của
pháp luật. Ở nghĩa này có thể xác định những tiêu chí cơ bản của người có công,
đó phải là những người có đóng góp, cống hiến xuất sắc và vì lợi ích của dân tộc.
Những hy sinh, cống hiến thiêng liêng của họ được xã hội tôn vinh và sự công
nhận của Nhà nước có thể là trong đấu tranh vì độc lập, tự do cho Tổ quốc và
cũng có thể là trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Bởi xuất phát từ
lịch sử và đặc điểm của dân tộc ta trong quá trình đấu tranh giành, giữ và dựng
nước, nên đối tượng NCC là một bộ phận lớn những người đã hy sinh quên
mình, cống hiến cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng
đất nước. Họ là lực lượng những NCC với đất nước, với cách mạng được nhân
dân và Nhà nước ta ghi nhận với lòng biết ơn sâu sắc. Nên đối tượng NCC với
cách mạng là những người được pháp luật Nhà nước công nhận mà không có
sự phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo, tộc người, giới tính, tuổi tác, nghề
nghiệp…, bởi họ đã quên mình để cống hiến sức lực, trí tuệ và mạng sống của
mình vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng phát triển
đất nước, vì lợi ích quốc gia dân tộc và sự bình an của xã hội, mà không hề đòi
hỏi hay yêu cầu phải bù đắp.
Theo nghĩa hẹp, người có công là những người không phân biệt tôn giáo,
tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác có những đóng góp, những cống hiến xuất

sắc trong thời kỳ trước cách mạng tháng Tám năm 1945, trong các cuộc kháng

9


chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, được các cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền công nhận. Ở nghĩa này, người có công bao gồm người tham gia hoặc
giúp đỡ cách mạng, họ đã hy sinh cả cuộc đời mình hoặc một phần thân thể hoặc
có thành tích đóng góp cho sự nghiệp cách mạng.
Căn cứ vào công lao đóng góp, hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của đất nước;
đồng thời để có chính sách ưu đãi phù hợp với từng đối tượng, Nhà nước ta đã
quy định một cách cụ thể về NCC được thể hiện trong Pháp lệnh “Ưu đãi
người hoạt động cách mạng, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh
binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng” do Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 29/8/1994, được sửa đổi, bổ sung,
thay thế qua các năm 2000, 2002, 2005, 2007, 2012; và Pháp lệnh số
05/2012/UBTVQH13 ngày 20/10/2012 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước
“Bà mẹ Việt Nam anh hùng”; gần đây, tại Khoản 1, Điều 4 trong Dự thảo lần
2 về Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng (Sửa đổi) năm 2019 đã
định nghĩa: Người có công với cách mạng là người hy sinh, chết, bị thương
hoặc có đóng góp thành tích, công lao trong các thời kỳ cách mạng từ năm
1925 đến 31/12/1991 hoặc trong xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc; xứng đáng
được Đảng, Nhà nước và Nhân dân tôn vinh và được cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền công nhận theo quy định.
Như vậy, có thể xác định cụ thể từng đối tượng như sau:
- Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945 là người
được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận đã tham gia tổ chức cách mạng
trước ngày 01 tháng 01 năm 1945.
- Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày

khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 là người được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
công nhận đứng đầu một tổ chức quần chúng cách mạng cấp xã hoặc thoát ly
hoạt động cách mạng kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày khởi nghĩa

10


tháng Tám năm 1945.
- Liệt sĩ là người đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc,
bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế hoặc vì lợi ích của Nhà nước, của
Nhân dân được Nhà nước truy tặng Bằng "Tổ quốc ghi công" thuộc một trong
các trường hợp sau đây:
+ Chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu;
+ Trực tiếp đấu tranh chính trị, đấu tranh binh vận có tổ chức với địch;
+ Hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt, tra tấn vẫn
không chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh hoặc thực hiện chủ trương vượt
tù, vượt ngục mà hy sinh;
+ Làm nghĩa vụ quốc tế;
+ Đấu tranh chống tội phạm;
+ Dũng cảm thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc
phòng, an ninh; dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân;
+ Do ốm đau, tai nạn khi đang làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa
bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;
+ Khi đang trực tiếp làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ do cơ
quan có thẩm quyền giao;
+ Trực tiếp làm nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu hoặc diễn tập phục vụ
quốc phòng, an ninh có tính chất nguy hiểm;
+ Thương binh hoặc là đối tượng được thụ hưởng chính sách như thương
binh theo quy định ở khoản 1 và khoản 2 tại Điều 19 của Pháp lệnh
04/2012/UBTVQH13 chết vì vết thương tái phát.

- Bà mẹ Việt Nam anh hùng là những bà mẹ có nhiều cống hiến, hy sinh vì
sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Các bà
mẹ được tặng/ truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” khi thuộc một
trong những trường hợp dưới đây:
+ Có 2 con trở lên là liệt sĩ;

11


+ Chỉ có 2 con mà 1 con là liệt sĩ và 1 con là thương binh suy giảm khả
năng lao động từ 81% trở lên;
+ Chỉ có 1 con mà người con đó là liệt sĩ;
+ Có 1 con là liệt sĩ và có chồng hoặc bản thân là liệt sĩ;
+ Có 1 con là liệt sĩ và bản thân là thương binh suy giảm khả năng lao
động từ 81% trở lên.
- Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động trong
kháng chiến là người được Nhà nước tặng hoặc truy tặng danh hiệu “Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân”; người được Nhà nước tuyên dương Anh hùng
Lao động trong thời kỳ kháng chiến vì có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao
động, sản xuất phục vụ kháng chiến.
- Thương binh là quân nhân, công an nhân dân bị thương làm suy giảm
khả năng lao động từ 21% trở lên, được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền cấp
“Giấy chứng nhận thương binh” và “Huy hiệu thương binh” thuộc một trong
các trường hợp sau đây:
+ Chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu;
+ Bị địch bắt, tra tấn vẫn không chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh,
để lại thương tích thực thể;
+ Làm nghĩa vụ quốc tế;
+ Đấu tranh chống tội phạm;
+ Dũng cảm thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc

phòng, an ninh; dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân;
+ Làm nhiệm vụ quốc phòng an ninh ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn;
+ Khi đang trực tiếp làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ do cơ
quan có thẩm quyền giao;
+ Trực tiếp làm nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu hoặc diễn tập phục vụ
quốc phòng, an ninh có tính chất nguy hiểm.

12


- Đối tượng thụ hưởng chính sách như thương binh là những người không
phải là công an nhân dân, quân nhân, họ bị thương và bị suy giảm khả năng lao
động từ 21% trở lên thuộc diện một trong những trường hợp theo quy định như
thương binh, được cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận về người hưởng
chính sách như thương binh.
- Bệnh binh là quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh làm suy giảm khả
năng lao động từ 61% trở lên khi xuất ngũ về gia đình được cơ quan, đơn vị
có thẩm quyền cấp "Giấy chứng nhận bệnh binh" thuộc một trong các trường
hợp sau đây:
+ Chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu;
+ Hoạt động liên tục ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn từ mười lăm tháng trở lên;
+ Hoạt động ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn
chưa đủ mười lăm tháng nhưng đã có đủ mười năm trở lên công tác trong
Quân đội nhân dân, Công an nhân dân;
+ Đã công tác trong Quân đội nhân dân, Công an nhân dân đủ mười lăm
năm nhưng không đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí;
+ Làm nghĩa vụ quốc tế;
+ Thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an

ninh;
+ Khi đang làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ do cơ quan có
thẩm quyền giao.
- Đối tượng hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học là những
người được cấp có thẩm quyền công nhận đã chiến đấu, phục vụ chiến đấu
hoặc tham gia công tác từ tháng 8/1961 đến 30-4-1975 ở các khu vực mà
quân Mỹ sử dụng chất độc hóa học; và do bị nhiễm chất độc này dẫn đến một
trong những tình trạng sau:
+ Mắc bệnh làm suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên;

13


+ Vô sinh;
+ Sinh con dị dạng, dị tật.
- Người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù,
đày là người được cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền công nhận trong thời
gian bị tù, đày không khai báo có hại cho cách mạng, cho kháng chiến, không
làm tay sai cho địch.
- Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm
nghĩa vụ quốc tế là người tham gia kháng chiến được tặng Huân chương kháng
chiến, Huy chương kháng chiến.
- Người có công giúp đỡ cách mạng là người đã có thành tích giúp đỡ cách
mạng trong lúc khó khăn, nguy hiểm, bao gồm: Người được tặng Kỷ niệm
chương “Tổ quốc ghi công” hoặc Bằng “Có công với nước”; người trong gia
đình được tặng Kỷ niệm chương “Tổ quốc ghi công” hoặc Bằng “Có công với
nước” trước cách mạng tháng Tám năm 1945; người được tặng Huân chương
kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến; người trong gia đình được tặng
Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến.
* Đặc điểm của người có công với cách mạng:

NCC với cách mạng là những người đã có nhiều cống hiến đáng kể và xã
thân hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta; họ cùng thân nhân chịu
nhiều mất mát thiệt thòi và hầu hết họ đều có hoàn cảnh hết sức khó khăn, nên
không có đủ điều kiện và cơ hội bình thường để phát triển như các thành phần xã
hội khác. Đặc điểm này đòi hỏi khách quan sự quan tâm đặc biệt trong chăm sóc,
động viên, chia sẻ và giúp đỡ hỗ trợ của Đảng, Nhà nước ta.
Phần lớn những NCC với cách mạng hiện nay đều lớn lên và trưởng thành
trong chiến tranh và hoạt động cách mạng, họ thuộc lớp người lớn tuổi. Trãi qua
các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc, những NCC với cách mạng luôn có lòng yêu nước nồng nàn, gan dạ, bền
bỉ, suốt đời xã thân vì nước, vì dân, sẵn sàng cống hiến hết tài sản, của cải của

14


mình để phục vụ cách mạng, thậm chí xã thân sẵn sàng hy sinh bản thân mình,
vận động thân nhân gia đình bảo vệ che chở cách mạng; họ kiên cường chiến
đấu chống lại kẻ thù, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Khi đất nước độc lập thống
nhất và hòa bình lặp lại, dù rằng di chứng của bệnh tật và thương tích mang
trong mình, những NCC với cách mạng vẫn tiếp tục phát huy phẩm chất tốt đẹp,
nỗ lực phấn đấu và tự lo cho bản thân tìm công việc phù hợp sức lao động, vượt
qua khó khăn để đóng góp vào sự nghiệp xây dựng Tổ quốc XHCN trong thời
kỳ đổi mới; luôn thực hiện nếp sống gương mẫu, giáo dục trao truyền các giá trị
truyền thống cách mạng cho con em, chấp hành chuẩn mực các chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước, là tấm gương để gia đình và xã hội
noi theo; luôn trung thành với chế độ XHCN và thể hiện tinh thần đấu tranh
trước các tiêu cực xã hội. Nên những NCC với cách mạng là những người có
tín nhiệm cao đối với Đảng, Nhà nước và cộng đồng dân cư, họ là bộ phận trụ
cột, là chỗ dựa và có tiếng nói quan trọng trong nhân dân để động viên nhân dân
hưởng ứng và tham gia tích cực các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp

luật Nhà nước.
Ngoài đặc điểm trên, đối tượng chính sách còn có một số đặc thù sau:
Đối với thương, bệnh binh giai đoạn kháng chiến chống Pháp: hiện họ
tuổi cao sống khiêm tốn, trong sạch, ít đòi hỏi quyền lợi cá nhân; nhu cầu vật
chất giản dị, thậm chí họ sẵn sàng hiến tặng tài sản ít ỏi còn lại của mình cho
công việc từ thiện, khuyến học, chia sẽ với gia đình NCC còn gặp nhiều khó
khăn.
Đối với thương, bệnh binh thời chống Mỹ trở về sau: Đa số họ có tuổi
trung niên, có ý thức tự kiềm chế, tự chủ và hăng hái tích cực đóng góp nhiệm
vụ được giao trong công tác và xã hội. Tuy vậy, một số ít lợi dụng chính sách ưu
đãi để trục lợi cho cá nhân dẫn đến vi phạm pháp luật, ảnh hưởng việc thực hiện
chính sách ưu đãi đối với NCC của Đảng và Nhà nước.
Đối với thân nhân liệt sỹ và NCC: sự mất mát, thiệt thòi của người thân

15


là sự đau đớn lớn nhất của người cha, mẹ, vợ, người con liệt sỹ không thể bù
đắp được. Họ cần quan tâm chia sẻ, động viên, nhất là vào dịp ngày tết, lễ.
Vê tổng quát, NCC là những người đóng góp vì quốc gia dân tộc XHCN,
nên cần phải có chính sách phù hợp từng vùng và đặc điểm, nhu cầu của đối
tương NCC.
1.1.2. Khái niệm chính sách ưu đãi người có công
- Khái niệm chính sách
+ Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam “Chính sách là những chuẩn tắc cụ
thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một
thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và
phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm
vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…”
+ Theo Từ điển Tiếng Việt “Chính sách là sách lược và kế hoạch cụ thể

nhằm đạt một số mục đích nhất định dựa vào đường lối chính trị chung và
thực tế mà nhà nước đề ra”.
+ Theo Giáo trình hoạch định và Phân tích chính sách công của Học viện
Hành chính do Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật xuất bản năm 2008, chính
sách là những hành động ứng xử của chủ thể với các hiện tượng tồn tại trong
quá trình vận động phát triển nhằm đạt mục tiêu nhất định.
+ Theo các tác giả khác xác định chính sách là cách thức hành động có
chủ đích của một tập đoàn xã hội này vào các tập đoàn xã hội khác thông qua
những tổ chức thiết chế khác nhau trong hệ thống chính trị để thực thi mục
tiêu đã được định sẵn.
Như vậy, chính sách công là một chuỗi hành động được thực hiện bởi hệ
thống nhà nước về các vấn đề đời sống xã hội để điều hành và quản lý, phục
vụ nhân dân, duy trì và phát triển xã hội. Nhà nước quy định các chế tài, pháp
lý và các văn bản quy phạm pháp luật dựa trên cơ sở các chính sách được đưa
ra và tổ chức thực hiện trong đời sống xã hội.

16


- Khái niệm chính sách xã hội
+ Là dạng chính sách thể hiện bằng luật pháp của Nhà nước trở thành
một hệ thống quan điểm, phương hướng, cách thức và biện pháp giải quyết
các vấn đề xã hội nhất định, mà trước hết là các vấn đề liên quan tới công
bằng xã hội và an sinh xã hội để đóng góp vào sự ổn định, phát triển và tiến
bộ xã hội.
+ Là công cụ được thể chế hóa để tác động vào những quan hệ xã hội
nhằm giải quyết những vấn đề xã hội đang đặt ra, góp phần thực hiện công
bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội và phát triển toàn diện con người.
Như vậy mục tiêu chính sách xã hội nhằm đạt tới: Một là, góp phần giải
quyết những hậu quả xã hội có tính lịch sử như: tàn dư chiến tranh, hậu quả

của chủ nghĩa thực dân, tàn dư của phong tục, tập quán lạc hậu…; Hai là, xác
định và góp phần giải quyết những vấn đề xã hội đang nảy sinh do chính tình
trạng lạc hậu về kinh tế, văn hóa, xã hội và những hệ quả của ngay sự phát
triển tạo ra, làm sao tạo được môi trường tự nhiên và xã hội tốt nhất cho sự
phát triển của mỗi con người, mỗi nhóm xã hội, đảm bảo cho họ phát huy cao
nhất tiềm năng sẳn có của chính mình.
- Khái niệm ưu đãi xã hội, trợ cấp xã hội
Ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ đặc biệt của Nhà nước và xã hội để ghi nhận
và đền đáp công lao của các cá nhân, tổ chức đã có cống hiến, hy sinh đặc biệt
vì cộng đồng xã hội. Thực hiện tốt ưu đãi xã hội góp phần đảm bảo công bằng
xã hội, Tạo ra những giá trị tinh thần cao đẹp, giữ gìn truyền thống tốt đẹp của
dân tộc. Bảo đảm ổn định cho thể chế đất nước, tiến tới việc xây dựng một xã
hội phồn thịnh, ấm no, hạnh phúc
Trợ cấp ưu đãi xã hội là khoản tiền do Nhà nước cấp thường xuyên hoặc
một lần đối với NCC với đất nước theo quy định pháp luật về ưu đãi xã hội.
Trợ cấp ưu đãi xã hội có nhiều loại khác nhau, trợ cấp cho từng diện đối
tượng hưởng ưu đãi xã hội dựa trên những điều kiện, tiêu chuẩn cụ thể. Song

17


xét ở một góc độ nào đó, ưu đãi đối với NCC với cách mạng cũng là ưu đãi
xã hội.
Qua phân tích rõ hơn từ khái niệm nêu trên, đi đến xác định: ưu đãi NCC
được hiểu là việc Nhà nước và xã hội đề cao sự ưu tiên cho NCC về các quyền
lợi, điều kiện đặc biệt hơn so với các nhóm đối tượng khác. Như vậy, ưu đãi
NCC với cách mạng là sự hậu đãi đặc biệt về vật chất và tinh thần của Nhà nước
và của xã hội để ghi công, đền đáp đối với những NCC với cách mạng.
Chính sách đối với NCC là một hợp phần quan trọng trong hệ thống
chính sách an sinh xã hội của Nhà nước ta. Chính sách đối với NCC được ban

hành, thể hiện tính nhân văn sâu sắc, khẳng định chủ trương nhất quán của
Đảng ta trong việc thực hiện chính sách thương binh, liệt sĩ và người có công
với cách mạng. Hơn nữa, đó còn là sự thể hiện trách nhiệm, tình cảm của thế
hệ hôm nay đối với những thế hệ ông cha đã hy sinh xương máu vì độc lập, tự
do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của Nhân dân. Hơn lúc nào hết, trách nhiệm và
tình cảm đối với người có công đã trở thành một nội dung quan trọng trên các
diễn đàn và truyền thông đại chúng, trở thành nét đẹp trong đời sống văn hóa
Việt Nam. Đó là sự chuẩn bị cần thiết để công tác thương binh, liệt sĩ và
người có công với cách mạng có bước phát triển mạnh mẽ. Làm tốt công tác
chính sách người có công sẽ góp phần phát triển kinh tế, chính trị - xã hội ổn
định, quốc phòng - an ninh được giữ vững. Mặt khác, nhằm định hướng, giáo
dục cho thế hệ trẻ ý thức trách nhiệm, ý thức rèn luyện, phấn đấu vươn lên để
cống hiến, hy sinh cho sự nghiệp gìn giữ, xây dựng và phát triển đất nước,
bảo vệ những giá trị tốt đẹp, những thành quả to lớn mà cha ông ta đã ra sức
gìn giữ. Đồng thời thể hiện được trách nhiệm của toàn xã hội trong việc thực
hiện “đền ơn đáp nghĩa” đối với người có công với cách mạng.
Kế thừa giá trị hợp lý từ những quan niệm kể trên, chính sách đối với
NCC có thể được định nghĩa như sau: Chính sách đối với NCC là tập hợp
những quyết định chính trị - pháp lý có liên quan để lựa chọn mục tiêu, giải

18


×