Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Quản Lý Nhà Nước Về Tôn Giáo Từ Thực Tiễn Quận Hai Bà Trưng, Thành Phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (669.13 KB, 97 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ KIM OANH

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO TỪ THỰC TIỄN
QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ KIM OANH

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO TỪ THỰC TIỄN
QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS PHẠM TUẤN ANH

HÀ NỘI, 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Quản lý nhà nước về tôn giáo từ thực tiễn
quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội” là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các tài liệu, số liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, chính xác và có nguồn
gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất cứ công trình khoa học nào.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Kim Oanh


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ

9

NƯỚC VỀ TÔN GIÁO
1.1. Khái niệm, vai trò và nguyên tắc của quản lý nhà nước về

9

tôn giáo
1.2. Mục tiêu, chủ thể, khách thể và nội dung quản lý nhà nước

17


về tôn giáo
Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN

30

GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HAI BÀ TRƯNG,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
2.1. Khái quát về vị trí địa lý, tình hình kinh tế - xã hội và tôn

30

giáo trên địa bàn quận Hai Bà Trưng
2.2. Thực tiễn quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn quận

43

Hai Bà Trưng và những vấn đề đặt ra
2.3. Đánh giá chung
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU

54
61

QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO TRÊN
ĐỊA BÀN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ
HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tôn

61


giáo trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về

64

tôn giáo trên địa bàn quận Hai Bà trưng, thành phố Hà Nội
trong thời gian tới
KẾT LUẬN

77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

79

PHỤ LỤC

86


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

BCHTW

Ban Chấp hành Trung ương


CTTG

Công tác tôn giáo

CSVN

Cộng sản Việt Nam

GHPGVN

Giáo hội Phật Giáo Việt Nam

HĐND

Hội đồng nhân dân

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

QLNN

Quản lý nhà nước

TTCP

Thủ tướng Chính phủ

UBND


Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 1.1

Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước đối với hoạt động

20

tôn giáo


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo là một thực thể xã hội xuất hiện sớm trong lịch sử loài người, có
nguồn gốc hình thành, phát triển và ảnh hưởng đến đời sống chính trị, văn hoá,
xã hội khác nhau trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Tự do tôn giáo là một
trong những quyền tự nhiên của con người và phải được pháp luật bảo vệ, đồng

thời đó cũng là một mặt của giá trị dân chủ trên thế giới hiện nay. Tín ngưỡng,
tôn giáo là một nhu cầu tinh thần của nhân dân, nhưng tôn giáo với tư cách là
một thực thể xã hội, là một lĩnh vực của đời sống xã hội thì tôn giáo cũng phải
được Nhà nước quản lý như quản lý các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Quản lý nhà nước (QLNN) về tôn giáo là một yêu cầu khách quan, cần
thiết, bởi chỉ có được quản lý thì hoạt động tôn giáo mới thực sự diễn ra bình
thường, quan hệ giữa các tôn giáo, giữa các tín đồ mới thực sự bình đẳng, quyền
tự do theo hoặc không theo tôn giáo nào của công dân mới được đảm bảo và tôn
giáo không bị lợi dụng để nhằm mục đích chính trị hay ý đồ xấu. Việt Nam là
đất nước có nhiều tôn giáo, đa dạng về tổ chức, khác nhau về số lượng, có nguồn
gốc phát sinh, du nhập, phát triển và ảnh hưởng khác nhau trong đời sống chính
trị, văn hoá, xã hội. Kể từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời (tháng
8/1945) đến nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vấn đề quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo luôn được thực hiện nhất quán đó là: đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; mọi tôn giáo đều bình đẳng trước
pháp luật, các hành vi lợi dụng tôn giáo vào mục đích chính trị gây mất an ninh, trật
tự và chủ quyền quốc gia đều bị nghiêm trị. Điều này được thể hiện rõ trong các văn
kiện của Đảng và các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, 2013.
QLNN về tôn giáo luôn giữ vai trò quan trọng trong thực hiện chính sách
tôn giáo của Đảng, Nhà nước; góp phần củng cố, phát huy khối đại đoàn kết toàn
dân tộc; giữ vững an ninh - quốc phòng; phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao dân trí cho nhân dân, trong đó có
tín đồ các tôn giáo; phát huy dân chủ, tiếp thu những nhu cầu, nguyện vọng

1


chính đáng của chức sắc, tín đồ các tôn giáo để đề ra những chủ trương, chính
sách phù hợp với tình hình thực tế, góp phần tạo ra sự ổn định chính trị xã hội,
phát huy tinh thần đoàn kết trong nhân dân. QLNN về tôn giáo khuyến khích

chức sắc, tín đồ các tôn giáo tham gia các hoạt động từ thiện xã hội có lợi cho sự
phát triển đất nước, phù hợp với pháp luật và đạo lý. Đồng thời, ngăn chặn được
những hoạt động lợi dụng công việc từ thiện nhân đạo để tiến hành hoạt động tôn
giáo trái pháp luật. QLNN về tôn giáo giúp tạo ra tinh thần phấn khởi, tin tưởng vào
chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
Quận Hai Bà Trưng nằm ở phía đông nam thành phố Hà Nội, là quận trung
tâm của thành phố. Với vị trí địa lý quan trọng và đặc điểm dân cư đông, nhiều
thành phần, công tác QLNN tại quận Hai Bà Trưng luôn được quan tâm; đặc biệt
là QLNN đối với hoạt động tôn giáo. Số lượng các tôn giáo hoạt động trên địa
bàn quận Hai Bà Trưng tương đối đa dạng nhưng quy mô các tôn giáo không
giống nhau, trong đó Phật giáo và Công giáo là hai tôn giáo có số lượng tín đồ
đông nhất. Hoạt động của các tín đồ, chức sắc trên địa bàn quận Hai Bà Trưng về
cơ bản chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước; tích cực tham gia các hoạt động xã hội, ủng hộ các phong trào của
địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh những tôn giáo được Nhà nước công nhận,
tuân thủ pháp luật; trên địa bàn Quận vẫn có tôn giáo hoạt động trái phép; việc
xây dựng, sửa chữa các cơ sở thờ tự vẫn còn vi phạm,... Do đó, QLNN đối với
hoạt động tôn giáo là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Quận.
Từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “Quản lý nhà nước về tôn giáo
từ thực tiễn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp
thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Đây là vấn
đề có tính cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
QLNN là chức năng cơ bản của Nhà nước được thể hiện trên nhiều phương
diện như kinh tế, văn hóa, xã hội,... Đảng và Nhà nước ta nhận định: tôn giáo là
vấn đề còn tồn tại lâu dài; tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ

2



phận nhân dân. Với vai trò và sự ảnh hưởng đa chiều, tôn giáo và vấn đề QLNN
đối với các hoạt động tôn giáo trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà
khoa học và được đề cập trong các công trình khoa học khác nhau. Tác giả tổng
quan tình hình nghiên cứu theo các vấn đề sau:
2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo nói chung
Cuốn sách “Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trong điều kiện
xây dựng Nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam hiện nay” của tác giả
Nguyễn Hữu Khiển [52], đã làm rõ ưu điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo; sự ra đời, vận động và phát triển của tôn giáo,
các yếu tố cấu thành của tôn giáo; tình hình tôn giáo ở Việt Nam; Quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) về công tác tôn giáo và những nguyên tắc
trong QLNN đối với những hoạt động tôn giáo.
Cuốn sách “Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam” của tác
giả Đặng Nghiêm Vạn [82], cung cấp những kiến thức căn bản và quan trọng về
lý luận tôn giáo học mác - xít đồng thời người đọc có thể nhìn nhận được khái
quát thực trạng một số tôn giáo ở Việt Nam.
Tác phẩm “Quản lý xã hội về tôn giáo” của tác giả Hoàng Quốc Bảo [17],
đã phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
của Đảng về quản lý tôn giáo. Giới thiệu một số tôn giáo ở Việt Nam như đạo
Phật, đạo Công Giáo, đạo Tin Lành, đạo Hồi, đạo Cao Đài, đạo Hoà Hảo. Các
nguyên tắc và phương pháp quản lý xã hội về tôn giáo. Tổ chức và nội dung
quản lý xã hội về tôn giáo.
Đề tài cấp Bộ “Quản lý Nhà nước về tôn giáo ở các tỉnh Tây Nguyên” của
tác giả Ngô Văn Minh [57], đã làm rõ một số vấn đề về lý luận QLNN đối với
hoạt động tôn giáo trong thời kỳ đổi mới ở nước ta. Khảo sát hoạt động tôn giáo
và công tác QLNN về tôn giáo tại các tỉnh Tây Nguyên từ tháng 6/2004 đến
tháng 6/2009. Qua đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản để tăng cường công tác
QLNN về tôn giáo tại Tây Nguyên. Đề tài đã góp phần vào việc tổng kết thực


3


tiễn 5 năm thực hiện Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo tại một khu vực có tính đặc
thù về vấn đề tôn giáo - dân tộc là Tây Nguyên.
Cuốn sách “Quan điểm đường lối của Đảng về tôn giáo và những vấn đề
tôn giáo ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Hồng Dương [31], đã phân
tích những quan điểm, đường lối của Đảng về tôn giáo; phác họa nên bức tranh
tôn giáo ở Việt Nam hiện nay đồng thời phân tích kinh nghiệm giải quyết vấn đề
tôn giáo ở Việt Nam từ cái nhìn đối sánh với một số nước như so sánh kinh
nghiệm giải quyết vấn đề tôn giáo của Trung Quốc, Thái Lan và Singapore. Trên
cơ sở đó, tác giả phân tích những vấn đề đặt ra và đề xuất một số khuyến nghị
đối với công tác tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Cuốn sách “Tiếp tục đổi mới chính sách về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay Những vấn đề lý luận cơ bản” của tác giả Nguyễn Hồng Dương (Chủ biên) [32], đã
phân tích, đánh giá, tiến trình nhận thức, hình thành quan điểm của Đảng về tôn
giáo từ năm 1930 đến nay, đưa ra những vấn đề còn bất cập về CTTG và chính sách
tôn giáo hiện nay. Hơn nữa, tác giả cũng đưa ra cụ thể được những thành tựu và
những vấn đề mới đặt ra trong thực hiện chính sách tôn giáo, đòi hỏi Đảng và Nhà
nước tiếp tục đổi mới chính sách đối với tôn giáo trong tình hình mới.
Tác phẩm “Chính sách tôn giáo và nhà nước pháp quyền” của tác giả Đỗ
Quang Hưng [50], là một công trình tổng kết thực tiễn đời sống tôn giáo và thực
hiện chính sách tôn giáo ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Ngoài những vấn đề
thuộc khung lý thuyết cơ bản, tác giả đã trình bày toàn cảnh đời sống tôn giáo
Việt Nam hiện nay, làm rõ những vấn đề đặt ra trong mối quan hệ Nhà nước với
các giáo hội, khảo sát, đánh giá những chuyển biến trong quá trình thực hiện
chính sách tôn giáo, nêu lên những vấn đề đặt ra cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện
chính sách tôn giáo. Tác giả cũng gợi mở một vấn đề quan trọng khác là nỗ lực
mô hình hóa một nhà nước pháp quyền về tôn giáo trong điều kiện Việt Nam
hiện nay.
Luận án tiến sĩ “Quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam từ năm 1975 đến

nay” của tác giả Bùi Hữu Dược [30], đã góp phần làm rõ tính tất yếu và yêu cầu

4


đổi mới QLNN về tôn giáo trong quan hệ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa
(XHCN) với tôn giáo ở Việt Nam, đồng thời làm rõ thực trạng, nguyên nhân và
những vấn đề đặt ra trong QLNN về tôn giáo ở Việt Nam từ năm 1975 đến năm
2013. Từ đó, đưa ra dự báo tình hình tôn giáo ở Việt Nam và khuyến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả QLNN về tôn giáo ở Việt Nam trong thời gian tới.
Luận án tiến sĩ “Tôn giáo và luật pháp về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới ở
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Vân Hà [46], đã nghiên cứu các nhân tố ảnh
hưởng đến việc thực hiện công tác xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật trong lĩnh vực tôn giáo ở Việt Nam, đưa ra được thành tựu và hạn chế trong
ban hành các chính sách liên quan đến tôn giáo ở Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới. Từ đó, nêu lên một số vấn đề đặt ra và đề xuất các khuyến nghị, giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả tính khả thi trong quá trình xây dựng và ban hành văn
bản quy phạm pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền về lĩnh vực tôn giáo ở
Việt Nam, góp phần bổ sung, phong phú thực tiễn nâng cao hiệu quả CTTG ở
Việt Nam.
Giáo trình “Quản lý xã hội về tôn giáo” của tác giả Hoàng Quốc Bảo[17],
đã chỉ ra đối tượng và phương pháp nghiên cứu quản lý xã hội về tôn giáo, quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng CSVN về quản
lý tôn giáo. Giới thiệu một số tôn giáo ở Việt Nam và nguyên tắc, phương pháp,
tổ chức, nội dung quản lý xã hội về tôn giáo và công tác QLNN đối với các hoạt
động tôn giáo.
2.2. Nhóm công trình nghiên cứu quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luận văn thạc sĩ “Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn
Thành phố Hà Nội hiện nay” của tác giả Dương Ngọc Kiên [53], đã tập trung

nghiên cứu trên phương diện QLNN của chính quyền và hệ thống chính trị của
thành phố Hà Nội đối với hoạt động của các tôn giáo, gồm: Phật Giáo, Công
Giáo, Tin Lành, Cao Đài, Baha’i, Hồi Giáo, Minh Sư Đạo trên địa bàn thành phố
Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2014. Từ đó, đề xuất giải pháp

5


nhằm góp phần nâng cao hiệu quả QLNN đối với các hoạt động tôn giáo trên địa
bàn thành phố Hà Nội thời gian tới.
Luận văn thạc sĩ “Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa
bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Phạm Thị Phương
Mai [56], đã phân tích tình hình tôn giáo ở thành phố Hà Nội và các hoạt động
có liên quan; Liên hệ trong sự phát triển vào xu thế chung của đất nước và thành
tựu của địa phương, đồng thời đánh giá thực trạng hoạt động tôn giáo và QLNN
đối với hoạt động tôn giáo ở thành phố Hà Nội. Từ đó, đề xuất một số giải pháp
hoàn thiện QLNN đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Luận án tiến sĩ “Tôn giáo và công tác tôn giáo ở Hà Nội hiện nay” của tác
giả Đàm Tuấn Anh [1], đã phân tích, đánh giá một cách tổng thể về tình hình,
đặc điểm cùng với hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội và
công tác tôn giáo ở Hà Nội hiện nay. Luận án đã rút ra một số kinh nghiệm trong
công tác tôn giáo ở Hà Nội. Đồng thời đề xuất một số khuyến nghị giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những nội dung
cơ bản về tôn giáo, cơ sở lý luận cũng như thực tiễn về công tác QLNN đối với
hoạt động tôn giáo dưới những khía cạnh nghiên cứu khác nhau và là nguồn tài
liệu vô cùng hữu ích hỗ trợ cho công tác QLNN về tôn giáo. Đồng thời, sẽ cung
cấp cho tác giả những tư liệu quan trọng và xác thực để phân tích nhằm rút ra
những thành tựu và hạn chế trong QLNN về tôn giáo. Trên cơ sở đó, đưa ra được
những dự báo và đề xuất một số quan điểm, giải pháp để nâng cao hiệu quả

QLNN về tôn giáo trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận về công tác QLNN về tôn giáo; đánh giá thực
trạng quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn quận Hai Bà Trưng. Trên cơ sở
đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác QLNN về
tôn giáo trên địa bàn quận Hai Bà Trưng trong thời gian tới.

6


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ khái niệm, nguyên tắc, vai trò, mục tiêu, chủ thể, khách thể và nội
dung của quản lý nhà nước về tôn giáo.
- Phân tích và đánh giá thực trạng QLNN về tôn giáo trên địa bàn quận Hai
Bà Trưng, chỉ ra những kết quả đạt được, những vấn đề hạn chế, bất cập và
nguyên nhân.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về tôn
giáo trên địa bàn quận Hai Bà Trưng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn quận Hai Bà Trưng,
thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đề tài giới hạn nghiên cứu trên địa bàn quận Hai Bà Trưng,
thành phố Hà Nội.
Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 2003 đến
nay (đây là thời điểm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX ban hành Nghị
quyết số 25-NQ/TW, ngày 12 tháng 3 năm 2003 cho đến nay khi mà Luật Tín

ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội thông qua ngày 18/11/2016 có hiệu lực thi hành
ngày 01/01/2018).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo; các quan điểm, chủ trương, đường lối của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, để giải
quyết mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng các

7


phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: phương pháp lịch sử cụ thể; phương pháp
nghiên cứu tôn giáo học như xuất phát từ cấu trúc, chức năng tôn giáo; phương
pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh v.v... Ngoài ra, luận
văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành và chuyên ngành như:
luật học, chính trị học, sử học, triết học, xã hội học, dân tộc học,…
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả luận văn sẽ cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện hơn nữa
chính sách và pháp luật về tôn giáo và công tác QLNN đối với hoạt động tôn
giáo trong tình hình mới trên phạm vi cấp quận nói chung, quận Hai Bà Trưng,
thành phố Hà Nội nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung vào kinh nghiệm thực
tiễn trong công tác QLNN về tôn giáo tại một địa phương nhất định; có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy về tôn giáo và công tác
quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, cũng như việc hoạch định chính sách

ở nhiều phương diện liên quan đến QLNN đối với hoạt động tôn giáo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về tôn giáo
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn quận Hai Bà
Trưng, thành phố Hà Nội hiện nay
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tôn
giáo trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội trong thời gian tới

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO
1.1. Khái niệm, vai trò và nguyên tắc của quản lý nhà nước về tôn giáo
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về tôn giáo
QLNN nói chung và QLNN về tôn giáo nói riêng là hoạt động chức năng
của Nhà nước. Để hiểu rõ hơn về QLNN đối với hoạt động tôn giáo trước hết ta
cần hiểu về các khái niệm quản lý, QLNN, tôn giáo, hoạt động tôn giáo và
QLNN về tôn giáo.
* Quản lý
Thuật ngữ “Quản lý” đã được nhiều tác giả định nghĩa khác nhau dựa theo
mục tiêu và góc độ nghiên cứu. Có quan điểm coi quản lý là quá trình bao gồm
các khâu lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra những nỗ lực của các thành
viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác nhau của tổ chức để đạt
được mục tiêu đã định trước. Cũng có quan điểm cho rằng quản lý là sự tác động
định hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hoá nó và hướng nó
phát triển phù hợp với những quy luật nhất định. Mặc dù, có nhiều quan niệm

khác nhau, song thuật ngữ quản lý đều được các nhà khoa học, nhà nghiên cứu,
nhà quản lý thống nhất ở hai nội dung:
Thứ nhất, quản lý là sự tác động mang tính tổ chức, tính mục đích của chủ
thể quản lý đến đối tượng quản lý.
Thứ hai, mục tiêu là nhằm làm cho đối tượng quản lý hoạt động vận hành
phù hợp với ý chí của chủ thể quản lý đã định ra từ trước.
Như vậy, nói đến quản lý trước hết đó là sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp
của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý. Sự tác động này không phải mang tính
đơn lẻ, tự phát mà nó mang tính tổ chức, tính mục đích rõ ràng. Mục đích mà
chủ thể quản lý đặt ra là hướng tới đối tượng quản lý hoạt động phù hợp với ý
chí của mình.

9


Từ hai nội dung nêu trên có thể hiểu: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có
mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đặt
ra từ trước.
* Quản lý nhà nước
“Quản lý nhà nước” là hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước, trong đó
quản lý xã hội được hiểu là sự tác động có ý thức để chỉ huy, điều khiển, hướng
dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người phù hợp với ý chí
của chủ thể quản lý và quy luật khách quan. Quản lý xã hội do nhiều chủ thể tiến
hành khi nhà nước xuất hiện, những công việc quản lý xã hội quan trọng nhất do
nhà nước đảm nhiệm. QLNN là một chức năng cơ bản của Nhà nước, gắn liền
với sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của Nhà nước, đồng thời quyết định sự
hưng thịnh, ổn định hay rối ren, thụt lùi, thậm chí suy vong của một quốc gia,
dân tộc. Thuật ngữ QLNN thường được tiếp cận theo hai góc độ:
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội của Nhà nước, sử
dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt

động của con người do tất cả các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư
pháp) tiến hành để thực hiện các chức năng của Nhà nước đối với xã hội.
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội mang quyền lực
nhà nước với chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của
các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ, UBND các cấp).
* Tôn giáo
“Tôn giáo” là một hiện tượng lịch sử, xã hội đã xuất hiện từ rất lâu (Phật
Giáo khoảng thế kỷ thứ VI trước công nguyên, Công Giáo thế kỷ I trước công
nguyên,…) và có nhiều cách hiểu khác nhau.
Chủ nghĩa Mác - Lênin coi tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội duy tâm
thần bí nhưng chủ nghĩa Mác - Lênin cũng thừa nhận tính chất, vai trò của tôn
giáo, thừa nhận tôn giáo còn tồn tại lâu dài đồng thời chỉ rõ nguồn gốc của tôn
giáo chính là xã hội, là tồn tại xã hội, là cuộc sống của con người lại được phản
ánh một cách hoang đường kỳ dị.

10


Theo C.Mác, tôn giáo là một sản phẩm xã hội, nó được quy định và quyết
định bởi lịch sử vì cơ sở của quá trình lịch sử là sự phát triển của các điều kiện
vật chất của đời sống xã hội nên nguồn phát sinh của biểu tượng tôn giáo cũng ở
ngay trong điều kiện sinh sống của con người. Những lực lượng trần tục thống
trị con người, đè nặng lên ý thức của họ một cách hoang đường đã sinh ra những
biểu tượng siêu nhiên. Những hình ảnh và biểu tượng tôn giáo trong ý thức của
con người chính là tồn tại được phản ánh.
Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã viết: “Tất cả mọi tôn giáo
chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của những
lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh
trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu
trần thế” [22, tr.437].

Ở Việt Nam, vẫn phổ biến một quan điểm về tôn giáo theo loại hình tôn
giáo của giáo hội, vẫn phân biệt tôn giáo và tín ngưỡng dân gian như là hai cấp
độ phát triển, như nhận xét của một tác giả nghiên cứu tôn giáo: “Hiện nay, ở
nước ta và một số nước dường như chỉ coi các hình thức tôn giáo nảy sinh ra từ
xã hội có giai cấp, hay đúng hơn nữa là phải có tổ chức, giáo lý, giáo luật, mới
được coi là tôn giáo [81, tr.29].
Như vậy, tôn giáo không phải là cái tự có mà là sản phẩm của con người.
Nói cách khác, tôn giáo là sự phản ánh xã hội vào ý thức con người. Tôn giáo là
một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, phản ánh tồn tại xã hội đã sinh ra nó. Song
sự phản ánh đó chỉ là sự phản ánh phi lý tính, hoang đường để giải thích hoặc chi
phối hiện thực. Tôn giáo là sản phẩm của con người, nhưng không phải con
người cá nhân, riêng lẻ mà là con người xã hội (hay xã hội con người), do đó tôn
giáo là một hiện tượng xã hội. Xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng
xã hội vừa thể hiện sự phản kháng trước những đau khổ, bất hạnh của con người,
vừa biểu thị sự bất lực của con người trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội. Kế
thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
tôn giáo, Đảng ta nhận định tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân

11


dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Quan điểm này là cơ sở cho việc quản lý, xem xét, giải quyết các vấn đề
tôn giáo ở nước ta hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải có thái độ bình tĩnh, khách
quan trong khi xem xét, giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động tôn giáo;
đảm bảo cho các tôn giáo ở Việt Nam sinh hoạt một cách bình thường, tuân thủ
pháp luật, đồng hành với dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Điều 24 Hiến pháp năm
2013 quy định: "1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà
nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được

xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi
phạm pháp luật" [60, tr.20]. Như vậy, tôn giáo, tín ngưỡng đã trở thành quyền cơ
bản của mọi người dân Việt Nam; là một trong những quyền cơ bản của con
người được Nhà nước và pháp luật tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm.
Tuy nhiên, hiện nay trong các văn bản quản lý nhà nước về tôn giáo ở nước ta
chưa có văn bản nào định nghĩa cụ thể về khái niệm này. Mặc dù, việc giải thích
khái niệm khá phức tạp, thậm chí khó có thể thống nhất, nhưng khi nói đến một tôn
giáo hoàn chỉnh bao gồm các dấu hiệu cơ bản sau: là đại diện cho một cộng đồng
người có chung niềm tin vào thế lực siêu nhiên, huyền bí; có hệ thống giáo lý, giáo
luật, lễ nghi; có tổ chức hoạt động từ Giáo hội xuống cơ sở khá chặt chẽ.
* Hoạt động tôn giáo
Hoạt động tôn giáo là “hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo và
quản lý tổ chức của tôn giáo” [62, tr.6]. Truyền bá giáo lý, giáo luật (còn gọi là
truyền đạo) là việc tuyên truyền những lý lẽ về sự ra đời, về luật lệ của tôn giáo.
Thông qua hoạt động truyền đạo, niềm tin tôn giáo của tín đồ được củng cố, luật
lệ trong tôn giáo được tín đồ thực hiện. Thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi là
hoạt động của tín đồ, nhà tu hành, chức sắc tôn giáo thể hiện sự tuân thủ pháp
luật, thỏa mãn đức tin tôn giáo của cá nhân tôn giáo hay của cộng đồng tín đồ.
Hoạt động quản lý tổ chức của tôn giáo là thực hiện quy định của giáo luật, thực
hiện hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo, đảm bảo duy trì trật tự trong tổ
chức tôn giáo. Trong các hoạt động này, việc phân biệt hoạt động truyền bá giáo

12


lý giáo luật và hoạt động thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi chỉ mang tính
tương đối có không ít hoạt động hành đạo có hoạt động truyền đạo.
* Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
Từ các khái niệm quản lý, quản lý nhà nước, tôn giáo, hoạt động tôn giáo,
chúng ta có thể đưa ra khái niệm về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo

theo hai nghĩa sau:
Theo nghĩa rộng: là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp) của các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật để
tác động, điều chỉnh, hướng dẫn các hoạt động tôn giáo và hành vi hoạt động tôn
giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục
tiêu cụ thể của chủ thể quản lý.
Theo nghĩa hẹp: là một dạng quản lý xã hội mang tính chất nhà nước; là
chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước; là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức
thực hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp để điều chỉnh,
hướng dẫn hoạt động các tôn giáo và mọi hành vi hoạt động tôn giáo của tổ
chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, đó là
sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động của các tín đồ, chức sắc trong việc
truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi tôn giáo; quản lý nơi thờ tự, đồ
dùng việc đạo, cơ sở vật chất xã hội của các tôn giáo.
Từ đây, thuật ngữ quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo sử dụng
trong luận văn được hiểu theo nghĩa hẹp của thuật ngữ này. Như vậy, khi nhắc
đến quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là nói đến sự quản lý của các cơ
quan hành pháp đối với hoạt động tôn giáo.
1.1.2. Vai trò của quản lý nhà nước về tôn giáo
Tôn giáo là nhu cầu tinh thần chính đáng của một bộ phận đông đảo nhân
dân. Chính vì vậy, quản lý nhà nước về tôn giáo có vai trò đặc biệt quan trọng.
Một là, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo luôn giữ vai trò quan
trọng trong thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước; góp phần củng
cố, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc; giữ vững an ninh - quốc phòng. Sự

13


nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là của mọi người Việt Nam, dù ở trong nước
hay đang sinh sống, học tập ở nước ngoài.

Hai là, quản lý nhà nước về tôn giáo giúp phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao dân trí cho nhân dân, trong
đó có tín đồ các tôn giáo; tạo ra mối quan hệ tốt giữa quần chúng với Đảng và
Nhà nước; phát huy dân chủ, tiếp thu những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng
của chức sắc, tín đồ các tôn giáo để đề ra những chủ trương, chính sách phù hợp
với tình hình thực tế của địa phương, góp phần tạo ra sự ổn định chính trị - xã
hội, phát huy tinh thần đoàn kết trong nhân dân.
Ba là, cơ sở chính trị trong các vùng tôn giáo tập trung được xây dựng, củng
cố, phát huy được vai trò của quản lý nhà nước về tôn giáo của cán bộ, đảng viên,
người có uy tín để vận động đồng bào có đạo, phát triển thêm được nhiều đảng
viên, hội viên các đoàn thể là tín đồ các tôn giáo. Chức sắc các tôn giáo ở huyện
cũng được hoạt động thuận lợi trong khuôn khổ của pháp luật từ khâu tuyển chọn
đào tạo, thuyên chuyển, bổ nhiệm, đến phân công địa bàn hoạt động.
Bốn là, quản lý nhà nước về tôn giáo khuyến khích chức sắc, tín đồ các tôn
giáo tham gia các hoạt động từ thiện xã hội có lợi cho sự phát triển đất nước, phù
hợp với pháp luật và đạo lý. Đồng thời, ngăn chặn được những hoạt động lợi
dụng công việc từ thiện nhân đạo để tiến hành hoạt động tôn giáo trái pháp luật.
Năm là, quản lý nhà nước về hoạt động đối ngoại của các tôn giáo giúp tạo
ra tinh thần phấn khởi, tin tưởng vào chính sách tôn giáo, chính sách đối ngoại
của Đảng và Nhà nước.
1.1.3. Các nguyên tắc quản lý nhà nước về tôn giáo
Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo không ngoài mục đích bảo
đảm cho hoạt động tôn giáo diễn ra trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật,
vì lợi ích chung, trong đó có cả lợi ích của đồng bào có đạo và lợi ích của các
giáo hội. Dó đó, quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo có một số nguyên tắc
chính sau:

14



Một là, nguyên tắc đảm bảo cho mọi công dân được bình đẳng trước Hiến
pháp và pháp luật.
Nguyên tắc này được thể hiện tại Điều 16 pháp năm 2013. Đây là nguyên
tắc thể chế dân chủ trong hoạt động của Nhà nước ta. Nội dung của nguyên tắc
này được hiểu: Nhà nước đảm bảo quyền tự do tôn giáo hay không tôn giáo của
công dân (dù là tín đồ tôn giáo hay không phải là tín đồ tôn giáo) bình đẳng
trước pháp luật, được hưởng quyền lợi và có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ
công dân. Từ cơ sở này, tín đồ được tự do hành đạo trên cơ sở thực hiện nghĩa
vụ công dân.
Hai là, nguyên tắc tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tôn giáo và tự do
không tín ngưỡng tôn giáo của công dân.
Tất cả công dân Việt Nam dù là người có tôn giáo hay không có tôn giáo,
hoặc giữa tín đồ của các tôn giáo khác nhau đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa
vụ trước pháp luật. Nguyên tắc này tạo cơ sở pháp lý của việc theo hoặc không
theo một tôn giáo nào đó của công dân. Tôn giáo là một nhu cầu tinh thần của
con người, không cá nhân hoặc tổ chức nào có quyền áp đặt hoặc tước bỏ nhu
cầu đó. Sự tự do tín ngưỡng, tôn giáo thể hiện sự tự nguyện của cá nhân hướng
tới hoặc phản đối một đấng tối cao nào đó. Tuy nhiên, quyền tự do tín ngưỡng
luôn phải được đặt trong khuôn khổ của luật pháp, của sự quản lý của Nhà nước
nhằm đảm bảo không có bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào lợi dụng quyền này để
phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước, kích động bạo lực, chia rẽ dân
tộc, gây rối trật tự công cộng…
Ba là, nguyên tắc về tính thống nhất giữa sinh hoạt tôn giáo và bảo tồn giá
trị văn hoá.
Niềm tin tôn giáo được thể hiện thông qua sinh hoạt vật chất của con người:
lễ nghi, trang phục…; được thể hiện thông qua các công trình kiến trúc, kinh
sách…Những dạng vật chất của tôn giáo đồng thời cũng là sản phẩm của văn
hóa. Các giá trị này trải qua giai đoạn phát triển, dần kết hợp, hòa quyện với các
truyền thống dân tộc. Sự tồn tại của tôn giáo là động lực cho sự phát triển và bảo


15


tồn các giá trị văn hóa. Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị văn hoá đích thực vẫn
còn những hiện tượng phản văn hoá có trong tôn giáo, những hủ tục, mê tín dị
đoan… Do đó, sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo phải vừa giữ
gìn được bản sắc văn hoá dân tộc, vừa loại bỏ dần những hiện tượng phản văn
hoá trong sinh hoạt tôn giáo.
Bốn là, nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất, hài hoà lợi ích cá nhân - cộng
đồng và lợi ích quốc gia, xã hội.
Đối với tín đồ các tôn giáo, nhu cầu tôn giáo của họ được nhà nước coi
trọng và tạo mọi điều kiện để họ thực hiện những hành vi tôn giáo của mình.
Nhưng ở vào một thời điểm nào đó đứng trước nhiều nhu cầu khác đòi hỏi tín đồ
phải giải quyết hài hoà, thoả đáng giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích
chung của xã hội. Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi phải giải quyết tốt các xung
đột, mâu thuẫn xuất hiện giữa các chủ thể nói trên. Nhận thức cơ bản của nguyên
tắc này là mỗi người có đạo thường có nhiều nhu cầu, trong đó nhu cầu tâm linh
thể hiện trong sinh hoạt tôn giáo và trách nhiệm của công dân. Đối với một tín
đồ, nhu cầu tâm linh được thỏa mãn ngay trong sinh hoạt tôn giáo như hành lễ,
cầu nguyện. Nhưng với người tín đồ đó, với tư cách công dân thì lợi ích xã hội
nào đó có thể thực hiện được thông qua việc thực hiện một nghĩa vụ của người
đó. Nguyên tắc này thực ra là yêu cầu ứng xử được đặt ra khi cùng một thời
điểm xuất hiện hai hoạt động khác nhau: một là sinh hoạt tôn giáo, hai là hoạt
động xã hội. Ví dụ, thời điểm để đi hành hương, hành đạo ở một nơi nào đó
trùng vào đúng thời điểm xảy ra thiên tai ở một địa phương cần có sự huy động
sức người, sức của mới có thể khắc phục được,… Nguyên tắc này đòi hỏi trước
những mâu thuẫn như vậy thì mọi công dân cần xác định lợi ích xã hội cộng
đồng phải được đặt lên trên hết. Ngay trong các giáo lý tôn giáo cũng có những
điều răn dạy về đức hóa sinh của tín đồ, phật tử với đồng loại, với xã hội.


16


Năm là, những hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng và hợp pháp của tín
đồ phải được đảm bảo.
Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân được
khuyến khích. Mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để chống lại Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn
dân tộc, làm phương hại đến nền văn hoá lành mạnh của dân tộc và hoạt động
mê tín dị đoan đều bị lên án và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật.
1.2. Mục tiêu, chủ thể, khách thể và nội dung quản lý nhà nước về tôn giáo
1.2.1. Mục tiêu quản lý nhà nước về tôn giáo
*Mục tiêu tổng quát
Góp phần xây dựng các giá trị văn hóa và chuẩn mực xã hội, tạo nên những
mối quan hệ lành mạnh.
* Mục tiêu cụ thể
Thứ nhất, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trước hết phải bảo
đảm được quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, bảo đảm cho các hoạt
động tôn giáo được diễn ra bình thường theo đúng quy định của pháp luật.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền con người cơ
bản được Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc
ghi nhận. Nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo còn tồn tại lâu dài cùng với sự phát triển
của xã hội loài người chừng nào những nguồn gốc làm phát sinh ra nó chưa giải
quyết được. Suốt quá trình đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng
đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, coi đó là quyền cơ bản của công dân. Cùng với việc bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, phải bảo đảm cho tổ chức, cá
nhân tôn giáo được thực hiện các hoạt động hành đạo, truyền đạo và quản lý tổ
chức một cách thuận lợi.

QLNN cần phân biệt rõ giữa hoạt động tôn giáo thuần túy với hành vi lợi
dụng hoạt động tôn giáo để có những biện pháp quản lý phù hợp, tránh can thiệp

17


vào công việc nội bộ của tôn giáo. Trong hoạt động tôn giáo, chúng ta cũng yêu
cầu các tổ chức tôn giáo, tín đồ, chức sắc, nhà tu hành tuân thủ quy định của
pháp luật. Mọi hành vi vi phạm đều phải bị phê phán, nghiêm cấm và xử lý theo
quy định của pháp luật.
Thứ hai, QLNN đối với hoạt động tôn giáo phải phát huy được những mặt
tích cực của tôn giáo như tính hướng thiện, từ bi; khắc phục được những hạn
chế, tiêu cực của tôn giáo đối với sự phát triển của xã hội.
Nhà nước tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia cùng Nhà
nước giải quyết những vấn đề của xã hội. Mặt khác, Nhà nước phải luôn tăng
cường cảnh giác đề phòng những âm mưu lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống
lại chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong quản lý nhà nước về hoạt động tôn
giáo, cần phân biệt rõ giữa hoạt động tôn giáo thuần tuý với hành vi lợi dụng
hoạt động tôn giáo để đề ra những biện pháp quản lý phù hợp.
Thông qua QLNN đối với hoạt động tôn giáo, phải giúp cho quần chúng
từng bước xóa bỏ được những nhận thức lệch lạc về thế giới và con người,
những luật lệ khắt khe trong tôn giáo. Đặc biệt phải chống được âm mưu lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống lại Đảng, Nhà nước, xâm hại đến các quan hệ
xã hội được Nhà nước bảo hộ.
Thứ ba, QLNN đối với hoạt động tôn giáo phải thực hiện được mục tiêu
đoàn kết đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không có tín ngưỡng, tôn
giáo, tạo ra sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mục tiêu đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương giáo luôn là bài học quan trọng
trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, là truyền thống

quý báu tạo nên sức mạnh của dân tộc. Trong công tác tôn giáo, mục tiêu đoàn
kết dân tộc, đoàn kết lương giáo càng quan trọng khi tôn giáo luôn là một trong
những công cụ, phương tiện được các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài
nước chia rẽ người theo đạo và người không theo đạo, thực hiện âm mưu diễn
biến hòa bình.

18


Thứ tư, QLNN đối với hoạt động tôn giáo phải đảm bảo sự tăng cường vai
trò của Nhà nước trong việc điều chỉnh các hoạt động tôn giáo, góp phần phát
triển văn hóa, khoa học.
Tổ chức, cá nhân tôn giáo là một bộ phận của xã hội, được Nhà nước thừa
nhận, phải đặt dưới sự quản lý của Nhà nước. Hoạt động tôn giáo phải tuân thủ
những quy định của Nhà nước. Mọi hành vi nhằm biến tôn giáo thành một lực
lượng đối trọng với Nhà nước, thoát ly khỏi sự quản lý của Nhà nước đều là bất
hợp pháp. Hoạt động tôn giáo nằm ngoài khuôn khổ pháp luật mà Nhà nước đã
đặt ra đều phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. Khi vai trò của Nhà nước
trong điều chỉnh các hoạt động tôn giáo được tăng cường, hiệu lực, hiệu quả của
quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này sẽ được nâng cao, các quy định quản lý
nhà nước được các tổ chức, cá nhân tôn giáo thực hiện nghiêm chỉnh, triệt để,
pháp chế trong công tác tôn giáo được giữ vững.
1.2.2. Chủ thể và khách thể quản lý nhà nước về tôn giáo
QLNN đối với hoạt động tôn giáo là quá trình tác động, điều hành, điều
chỉnh của các cơ quan hành pháp để các hoạt động tôn giáo diễn ra theo đúng
quy định của pháp luật. Với cách hiểu như vậy, QLNN đối với hoạt động tôn
giáo bao gồm các yếu tố: chủ thể quản lý, khách thể quản lý.
1.2.2.1. Chủ thể quản lý nhà nước về tôn giáo
QLNN đối với hoạt động tôn giáo được thực hiện bởi cơ quan QLNN các
cấp nhằm huy động sức mạnh của cộng đồng tín ngưỡng, tôn giáo để đạt mục

đích của chủ thể cầm quyền đặt ra. Khi hiểu QLNN đối với hoạt động tôn giáo là
sự quản lý của các cơ quan hành pháp đối với hoạt động tôn giáo thì chủ thể của
QLNN đối với hoạt động tôn giáo chỉ bao gồm các cơ quan nhà nước thuộc hệ
thống hành pháp (Chính phủ: các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các cấp). Trong
đó, Chính phủ thống nhất QLNN về hoạt động tôn giáo, toàn quyền quyết định
các vấn đề có liên quan trên phạm vi cả nước. Chính phủ sử dụng quyền hành
pháp để thi hành pháp luật và chấp hành các nghị quyết của Quốc hội, đồng thời
chủ động tham gia quá trình lập pháp về các vấn đề có liên quan đến tôn giáo; sử

19


×