Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Tội cưỡng đoạt tài sản trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.94 KB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HƯỜNG

TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HƯỜNG

TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Độ


Hà nội - 2014

2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công
trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác
và trung thực. Những kết luận khoa học
của luận văn cha từng đợc ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hờng

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
1


MỞ ĐẦU

Chương 1:

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI

8

SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1.

Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội cưỡng đoạt tài
sản trong luật hình sự Việt Nam

8

1.1.1. Tài sản và quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề tài sản

8

1.1.2. Khái niệm hành vi cưỡng đoạt tài sản

9

1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định tội cưỡng đoạt tài sản trong luật
hình sự Việt Nam

14


1.2.

Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình
sự Việt Nam về tội cưỡng đoạt tài sản

14

1.2.1. Giai đoạn từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công đến trước pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật Hình sự
năm 1985

16

1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến
trước pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật Hình sự năm 1999

19

1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 đến nay

21

4


1.3

Nghiên cứu so sánh các quy định về tội cưỡng đoạt tài sản trong
luật hình sự Việt Nam với pháp luật hình sự của một số nước


28

1.3.1. Bộ luật Hình sự Nhật Bản

28

1.3.2. Bộ luật Hình sự của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

29

1.3.3. Bộ luật Hình sự Liên bang Nga

30

Chương 2:

NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

34

TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH

2.1.

Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội cưỡng đoạt tài sản

34

2.1.1. Khách thể của tội cưỡng đoạt tài sản


34

2.1.2. Mặt khách quan của tội cưỡng đoạt tài sản

36

2.1.3. Chủ thể của tội cưỡng đoạt tài sản

38

2.1.4. Mặt chủ quan của tội cưỡng đoạt tài sản

39

2.2.

40

Các trường hợp phạm tội cưỡng đoạt tài sản cụ thể

2.2.1. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 135 Bộ
luật Hình sự

40

2.2.2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 135
Bộ luật Hình sự

41


2.2.3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 135
Bộ luật Hình sự

46

2.2.4. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 135
Bộ luật Hình sự

47

2.2.5. Hình phạt bổ sung áp dụng đối với người phạm tội cưỡng
đoạt tài sản

48

2.3.

Phân biệt tội cưỡng đoạt tài sản với một số tội phạm khác
trong luật hình sự Việt Nam

48

2.3.1. Phân biệt tội cưỡng đoạt tài sản với tội cướp tài sản tại Điều
133 Bộ luật Hình sự

48

2.3.2. Phân biệt tội Cưỡng đoạt tài sản với tội Bắt cóc nhằm chiếm


54

5


đoạt tài sản tại Điều 134 Bộ luật Hình sự
2.3.3. Phân biệt tội cưỡng đoạt tài sản với tội cướp giật tài sản tại
Điều 136 Bộ luật Hình sự

57

2.3.4. Phân biệt tội cưỡng đoạt tài sản với tội công nhiên chiếm
đoạt tài sản tại Điều 137 Bộ luật Hình sự

59

Chương 3:

THỰC TIỄN XÉT XỬ, MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC

63

HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH
VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

3.1.

Thực tiễn xét xử tội cưỡng đoạt tài sản ở nước ta


63

3.1.1. Đánh giá, phân tích tình hình xét xử tội cưỡng đoạt tài sản
trong thời gian từ năm 2008 đến năm 2013

63

3.1.2. Thực tiễn xét xử các vụ án cưỡng đoạt tài sản

68

3.1.3. Một số tồn tại, bất cập trong thực tiễn xét xử và những
nguyên nhân cơ bản

72

3.2.

Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản

76

3.2.1. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc hoàn thiện các quy định của
Bộ luật Hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản

76

3.2.2. Những giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật
Hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản


78

3.3.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
Bộ luật Hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản

83

3.3.1. Tăng cường công tác hướng dẫn, giải thích các quy định của
Bộ luật Hình sự hiện hành trong tương quan với các văn bản
pháp luật khác về tội cưỡng đoạt tài sản

83

3.3.2. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân

85

3.3.3. Phối hợp các cơ quan, tổ chức với các cơ quan bảo vệ pháp
luật và Tòa án để phòng ngừa, ngăn chặn và xét xử nghiêm
minh tội cưỡng đoạt tài sản

86

3.3.4. Tăng cường quan hệ phối hợp của các cơ quan tiến hành tố

88

6



tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) trên cơ sở
thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan
3.3.5. Tăng cường, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với
công tác tư pháp

91

KẾT LUẬN

93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

95

7


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật Hình sự

CTTP

: Cấu thành tội phạm


TNHS

: Trách nhiệm hình sự

8


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Tổng số vụ án, số bị cáo bị xét xử về tội cưỡng đoạt tài

64

bảng
3.1

sản phải giải quyết trên toàn quốc từ năm 2008 - 2013
3.2

Phân tích tình hình xét xử sơ thẩm tội cưỡng đoạt tài sản

64

ở nước ta trong thời gian từ năm 2008 - 2013

3.3

Phân tích chế tài đối với các bị cáo theo quyết định của

65

Tòa án về tội cưỡng đoạt tài sản
3.4

Đặc điểm về nhân thân của các bị cáo bị xét xử về tội

67

cưỡng đoạt tài sản
3.5

Tỷ lệ số vụ án, số bị cáo bị xét xử về tội cưỡng đoạt tài
sản với tổng số vụ án, số bị cáo bị xét xử về các tội xâm
phạm sở hữu

9

68


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đất nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến
hành công cuộc đổi mới một cách toàn diện từ Đại hội toàn quốc lần thứ VI

cho tới nay và đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng. Nền kinh tế chuyển
từ chế độ quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng
khá cao. Tình hình chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ
vững và ngày càng được tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển
mới, đời sống nhân dân được cải thiện.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, bên cạnh những thành tựu đã
đạt được do tác động của nhiều nguyên nhân, đã phát sinh nhiều vấn đề tiêu
cực, đe dọa sự ổn định xã hội, ảnh hưởng đến sự nghiệp đổi mới của toàn dân.
Qua thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy tình hình tội phạm nói chung,
các tội xâm phạm sở hữu nói riêng có nhiều diễn biến phức tạp, gây ra hậu
quả và tác hại lớn cho xã hội.
Trong các tội phạm xâm phạm sở hữu, hành vi cưỡng đoạt tài sản
được coi là một trong những hành vi gây hậu quả hết sức nghiêm trọng, là vấn
đề gây nhức nhối với toàn xã hội, tội phạm này vừa phổ biến, đa dạng về hình
thức, đối tượng phạm tội lại vừa gây tâm lý hoang mang trong đại đa số bộ
phận dân chúng, gây ảnh hưởng rất lớn tới trật tự an toàn xã hội. Cưỡng đoạt
tài sản là tội phạm xâm hại nghiêm trọng tới cả quan hệ sở hữu và nhân thân,
hành vi phạm tội thường được thực hiện một cách nguy hiểm, côn đồ, công
khai với người bị hại, thể hiện ý thức coi thường pháp luật, kỷ cường xã hội.
Loại tội phạm này không chỉ tăng về số lượng mà cả diễn biến phức
tạp về về đối tượng phạm tội. Phương thức, thủ đoạn phạm tội cũng ngày

10


càng tinh vi, xảo quyệt hơn, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội ngày
càng lớn. Tình trạng đó đã và đang gây ra không ít những khó khăn, thách
thức đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong công
tác điều tra, truy tố, xét xử cũng như trong chủ động phòng ngừa, ngăn chặn,

đấu tranh và phòng chống tội phạm, bảo đảm phát hiện chính xác, nhanh
chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội để góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù đã được các cơ quan có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục về
pháp luật, các Tòa án đã áp dụng các hình phạt nghiêm khắc đối với những
người có hành vi phạm tội để đấu tranh, nhưng do chưa có hướng dẫn cụ thể
của các cơ quan có thẩm quyền, nên chưa được giải quyết một cách triệt để.
Thực tiễn xét xử cho thấy văn bản pháp luật để các Tòa án áp dụng trong việc
xét xử đối với loại tội này chưa đầy đủ, rõ ràng. Tình trạng đó đã và đang gây
ra nhiều khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác điều tra
truy tố, xét xử cũng như trong chủ động phòng và đấu tranh chống tội phạm,
gây ảnh hưởng đến việc phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý nghiêm
minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm; gây tổn hại đến
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Hơn nữa, do các quy định của luật hình sự Việt Nam về tội cưỡng đoạt
tài sản còn chưa minh bạch, chưa bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ, nhất là
thiếu quy phạm định nghĩa và một số quy định liên quan đến các yếu tố định
tội và định khung hình phạt nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, thậm chí
không thống nhất trong nhận thức về dấu hiệu pháp lý, đường lối xử lý và
thực tiễn định tội danh đối với tội phạm này. Do vậy, trong một số vụ án cụ
thể đã có tình trạng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố

11


tụng có nhận thức khác nhau về việc định tội và định khung hình phạt khi tiến
hành xử lý hình sự đối với hành vi cưỡng đoạt tài sản. Cá biệt, có trường hợp

còn nhầm lẫn trong việc xác định tội danh, áp dụng không đúng pháp luật,
thậm chí không làm sáng tỏ được ranh giới giữa tội phạm và các hành vi vi
phạm pháp luật khác hoặc không phân biệt được sự khác nhau giữa tội cưỡng
đoạt tài sản với một số tội phạm có tính chất chiếm đoạt khác trong Bộ luật
Hình sự (BLHS) năm 1999 như: tội cướp tài sản (Điều 133), tội cướp giật tài
sản (Điều 136); tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137)…
Để tiếp tục nghiên cứu một cách đầy đủ và làm sâu sắc hơn các vấn
đề lý luận về cấu thành tội phạm (CTTP) này cũng như thực tiễn điều tra,
truy tố, xét xử đối với tội cưỡng đoạt tài sản làm căn cứ để đề xuất, kiến
nghị tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự; nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm này, việc tác giả nghiên cứu đề tài:
"Tội cưỡng đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ
Luật học là cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới góc độ khoa học pháp lý, việc nghiên cứu về tội cưỡng đoạt tài
sản đã được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu khoa học của các
cơ sở đào tạo luật học như Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật- Đại học
quốc gia Hà Nội, Viện Nhà nước và Pháp luật thuộc Viện Hàn lâm khoa học
xã hội Việt Nam và một số cơ sở đào tạo khác. Trong đó phải kể đến một số
giáo trình, sách chuyên khảo: GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Chương
XX - Các tội xâm phạm sở hữu trong Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần
các tội phạm), Nxb Công an nhân dân (2010); GS.TSKH Lê Cảm (chủ biên) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Khoa luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội (2001, tái bản năm 2003 và
2007); GS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên)- Giáo trình luật hình sự Việt Nam
(Phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội (2001);

12


Bên cạnh đó, các vấn đề về lý luận và thực tiễn xét xử còn được

nghiên cứu trong một số công trình nghiên cứu khoa học của Ths. Đinh Văn
Quế - Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999 - Phần các tội phạm,
Tập II: Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh,
2006; TS. Trần Minh Hưởng - Tìm hiểu Bộ luật Hình sự nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam - Bình luận và chú giải - Chương IV: Các tội xâm
phạm quyền sở hữu, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002; PGS.TS Phùng Thế Vắc
(chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999 (Phần các tội
phạm) - Chương IV: Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, 2001; TS. Cao Thị Oanh, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các
tội phạm) - Chương IV: Các tội phạm sở hữu, Nxb Giáo dục, 2010; ThS. Đinh
Thế Hưng và ThS. Trần Văn Biên, Bình luận Bộ luật Hình sự của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung năm 2009 - Chương XIV:
Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Lao động, 2010;
Ngoài ra, còn phải kể đến một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Luật
học chuyên ngành Tư pháp hình sự nghiên cứu về các tội xâm phạm sở hữu
như Đỗ Kim Tuyến, Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên địa bàn Hà
Nội, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001; Lê Thị
Khanh, Đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa", Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát
nhân dân, Hà Nội, 2002 và một số bài viết, nghiên cứu khác có liên quan như:
TS. Nguyễn Ngọc Chí, Đối tượng của các tội phạm xâm phạm sở hữu, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 2/1998; TS. Trương Quang Vinh, Các tội xâm phạm
sở hữu trong Bộ luật Hình sự Việt Nam 1999, Tạp chí luật học, số 4/2000...
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, bài viết
liên quan đến tội cưỡng đoạt tài sản thường tập trung đi sâu tới vấn đề lý luận
về dấu hiệu định tội của tội cưỡng đoạt tài sản hoặc nhìn nhận vấn đề dưới
góc độ tội phạm học, đấu tranh phòng ngừa tội cưỡng đoạt tài sản hoặc đấu
tranh phòng ngừa tội xâm phạm tài sản trên một địa bản nhất định. Tuy nhiên,

13



dưới góc độ khoa học pháp lý, đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào
nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn xét
xử đối với tội cưỡng đoạt tài sản ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học.
Vì vậy, việc nghiên cứu hoàn thiện các quy định của BLHS về tội
cưỡng đoạt tài sản, cũng như đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định về tội phạm này vẫn là vấn đề bổ ích và cần thiết trên cả
hai phương diện lý luận và thực tiễn.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, các dấu
hiệu pháp lý, đường lối xử lý và thực tiễn xét xử đối với tội cưỡng đoạt tài sản
trong luật hình sự Việt Nam, qua đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và
một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của BLHS năm
1999 về tội phạm này.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ luật học, phạm vi nghiên
cứu của luận văn tập trung vào các dấu hiệu pháp lý đặc trưng và những vấn
đề liên quan đến việc định tội danh, thực tiễn xét xử đối với tội cưỡng đoạt tài
sản trong những năm gần đây với tư cách là tội phạm trong chương các tội
xâm phạm sở hữu mà chưa có điều kiện nghiên cứu, phân tích.
4. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về những vấn
đề pháp lý cơ bản của tội cưỡng đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam như:
Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với người
phạm tội; đồng thời đi sâu phân tích thực tiễn xét xử tội cưỡng đoạt tài sản
trong thời gian từ năm 2008 - 2013. Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra một số
vướng mắc, tồn tại trong công tác xử lý, từ đó đề xuất một số kiến nghị, giải


14


pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định của BLHS Việt Nam về xử lý loại tội phạm này.
5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta về đấu tranh phòng và chống tội phạm.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học; phương pháp so
sánh, đối chiếu; phân tích quy phạm pháp luật, khảo sát thực tiễn; nghiên cứu,
điều tra án điển hình…để phân tích và luận chứng các vấn đề khoa học cần
nghiên cứu trong luận văn này.
6. Những đóng góp mới của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về hành
vi cưỡng đoạt tài sản trong khoa học luật hình sự Việt Nam; phân tích thông
qua nghiên cứu các số liệu thực tiễn xét xử sơ thẩm trên địa bàn toàn quốc từ
năm 2008 - 2013 và các bản án hình sự cụ thể của một số Tòa án để đánh giá.
Qua đó chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện
hành; các sai sót trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như các
nguyên nhân để tìm ra giải pháp khắc phục, đề xuất những giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS về tội cưỡng đoạt tài sản ở khía
cạnh lập pháp hình sự và việc áp dụng trong thực tiễn.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập.
Những đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận chứng khoa


15


học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng BLHS Việt
Nam liên quan đến tội cưỡng đoạt tài sản, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả
công tác đấu tranh phòng, chống những tội này hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tội cưỡng đoạt tài sản trong luật
hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy định về tội cưỡng đoạt tài sản trong Bộ luật Hình
sự hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn xét xử, một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành về tội
cưỡng đoạt tài sản.

16


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TỘI CƯỠNG
ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1.1. Tài sản và quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề tài sản
Theo quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005 thì tài sản được hiểu bao

gồm "vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" [30, Điều 163], trong đó
quyền tài sản là các "quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong
giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ" [30, Điều 181].
Tuy nhiên, dưới góc độ luật hình sự, đối với các tội phạm xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt, trong đó có tội cưỡng đoạt tài sản thì không
phải lúc nào tài sản theo quan niệm của Bộ luật dân sự cũng được coi là đối
tượng của tội phạm này; bởi vì, không phải tài sản nào người phạm tội cũng
có thể chiếm đoạt được từ chủ tài sản. Tài sản là đối tượng tác động của các
tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói chung cũng như tội
cưỡng đoạt tài sản nói riêng, phải thỏa mãn những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, tài sản phải được thể hiện dưới dạng vật chất, có giá trị và
giá trị sử dụng, tài sản này là thước đo giá trị lao động của con người được kết
tinh, đồng thời phải thỏa mãn được các nhu cầu về vật chất hoặc tinh thần của
con người hay nói cách khác, giá trị tài sản được tạo ra từ sức lao động của
con người.
Thứ hai, tài sản phải có chủ sở hữu cụ thể với các quy định có tính
chất pháp lý thể hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản. Hành vi
phạm tội khi xâm phạm sở hữu phải tác động tới những tài sản đã được xác
lập quyền sở hữu bằng những quy định pháp lý đối với một chủ sở hữu nhất

17


định (có thể là tổ chức, pháp nhân hoặc cá nhân) nên chỉ tài sản nào có chủ sở
hữu cụ thể mới là đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu, còn tài
sản vô chủ không phải là đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu.
Thứ ba, tài sản phải có khả năng chuyển hóa được giữa các chủ sở hữu
với nhau. Nếu không có khả năng này thì tài sản không thuộc đối tượng tác động
của các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội cưỡng đoạt tài sản nói riêng.
Ví dụ: Tác giả của tác phẩm âm nhạc, văn học nghệ thuật là chủ của

các tác phẩm đó nhưng không thể chuyển đổi được, nên khi có hành vi xâm
hại đến quyền tác giả thì không cấu thành tội xâm phạm sở hữu mà cấu thành
tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan theo Điều 170a BLHS.
Thứ tư, tài sản là đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu là
tài sản thông thường, có thể mua bán trao đổi được một cách hợp pháp những
tài sản có tính chất đặc biệt hoặc Nhà nước cấm tư nhân mua bán trao đổi sẽ
là đối tượng của các tội phạm khác quy định trong BLHS.
Ví dụ: hành chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân
sự thì không cấu thành tội xâm phạm sở hữu mà cấu thành tội chiếm đoạt vũ
khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự theo Điều 230 BLHS.
1.1.2. Khái niệm hành vi cưỡng đoạt tài sản
Để có thể hiểu rõ hơn về hành vi cưỡng đoạt tài sản, cũng cần nghiên
cứu, phân tích và làm rõ một số khái niệm có liên quan như khái niệm "tài
sản"; khái niệm "chiếm đoạt"; khái niệm "đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn
khác"; khái niệm "uy hiếp tinh thần"; trên cơ sở đó, đưa ra những đặc trưng
thuộc về nội hàm khái niệm tội cưỡng đoạt tài sản.
"Tài sản", theo nghĩa Hán Việt là khái niệm dùng để "chỉ chung tiền bạc,
của cải" 17, tr. 622; hoặc "tiền của, của cải nói chung" 9, tr. 734, 19, tr. 602;
và là "của cải vật chất dùng để sản xuất hoặc tiêu dùng" 49, tr. 1483.
"Chiếm đoạt", theo nghĩa Hán Việt, chiếm là "lấy làm của mình"; "chiếm
đoạt" là "dùng sức mạnh, thế lực mà lấy làm của mình" 9, tr. 142, 17, tr. 140;

18


chiếm là: "giữ lấy làm của mình", đoạt là cướp lấy, chiếm đoạt là "cướp lấy
bằng võ lực hay quyền thế" 9, tr. 142, 19, tr. 108; chiếm đoạt còn được
hiểu là "chiếm của người khác bằng cách dựa vào quyền hành, sức mạnh vũ
lực" 49, tr. 1483.
Dưới góc độ pháp luật hình sự "chiếm đoạt tài sản" là hành vi cố ý

chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành
tài sản của mình 40, tr. 366 hoặc "hành vi cố ý chuyển biến một cách trái
pháp luật tài sản của người khác thành tài sản của mình hoặc của một nhóm
người hoặc cho người khác mà mình quan tâm" 1, tr. 230. Ở đây, khái niệm
"quản lý" có thể hiểu là "trông coi, giữ gìn và theo dõi việc gì" 49, tr. 1363,
"chủ tài sản" được hiểu bao gồm chủ sở hữu tài sản hoặc người được giao
quản lý tài sản đó (thông qua giao dịch dân sự hoặc theo quy định của pháp
luật được giao nhiệm vụ quản lý tài sản).
Hành vi chiếm đoạt tài sản có đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, xét về mặt khách quan, hành vi chiếm đoạt là hành vi làm cho
chủ tài sản (người là chủ sở hữu tài sản hoặc người có quyền quản lý tài sản)
mất hẳn khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của
mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt trái pháp luật tài sản đó. Như vậy, chiếm đoạt xét về mặt thực
tế là quá trình vừa làm cho chủ tài sản mất tài sản vừa tạo cho người chiếm
đoạt có tài sản đó, quá trình này xét về mặt pháp lý không làm cho chủ sở hữu
mất quyền sở hữu của mình mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các
quyền cụ thể của quyền sở hữu. Hành vi chiếm đoạt được thể hiện dưới những
dạng hành vi cụ thể khác nhau tùy thuộc vào mối quan hệ cụ thể giữa người
chiếm đoạt với tài sản chiếm đoạt cũng như vào hình thức chiếm đoạt cụ thể.
Thứ hai, tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt đòi hỏi
phải có đặc điểm là còn nằm trong sự chiếm hữu, sự quản lý, kiểm soát của chủ
tài sản. Nếu tài sản đã thoát ly khỏi sự chiếm hữu, sự quản lý, kiểm soát của

19


chủ tài sản (bị thất lạc) thì không còn là đối tượng của hành vi chiếm đoạt. Chỉ
khi tài sản còn đang do chủ tài sản chiếm hữu thì mới có thể nói đến hành vi
chiếm đoạt, mới nói đến hành vi làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản.

Thứ ba, xét về mặt chủ quan, chiếm đoạt là hành vi được người phạm
tội thực hiện có chủ đích nên lỗi của người có hành vi chiếm đoạt là lỗi cố ý
trực tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt biết tài sản chiếm đoạt là tài sản
đang có người quản lý nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành tài sản
của mình. Những trường hợp lầm tưởng là tài sản của mình hoặc tài sản
không có người quản lý đều không phải là trường hợp có hành vi chiếm đoạt.
Như vậy, hành vi chiếm đoạt tài sản được coi là bắt đầu khi người
phạm tội bắt đầu thực hiện việc làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản,
để tạo khả năng đó cho mình. Khi người phạm tội đã làm chủ được tài sản
chiếm đoạt thì lúc đó hành vi chiếm đoạt được coi là đã hoàn thành, người
phạm tội coi là đã chiếm đoạt được tài sản. Dấu hiệu chiếm đoạt có thể là mục
đích chiếm đoạt, là hành vi chiếm đoạt hoặc là chiếm đoạt được.
"Cưỡng đoạt", theo từ điển Tiếng Việt thì "cưỡng" là "bắt ép người khác
làm điều người ta không muốn làm"; "cưỡng đoạt" là "chiếm đoạt bằng lối cưỡng
bức"; "cưỡng bức" là "dùng vũ lực hoặc thủ đoạn dồn người khác vào thế bắt
buộc phải làm, dù không muốn cũng không được" 9, tr.142, [17, tr 140.
Đe dọa sẽ dùng vũ lực là hành vi (bằng lời nói hoặc hành động) làm
cho người bị đe dọa lo sợ nếu không giao tài sản cho người phạm tội thì sẽ bị
dùng sức mạnh thể chất tấn công.
Thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần là những thủ đoạn mà người phạm tội
sử dụng ngoài việc đe dọa sẽ dùng vũ lực và thủ đoạn này sẽ uy hiếp tinh thần
của người có tài sản hoặc của người có trách nhiệm về tài sản, như dọa sẽ nói
cho vợ hoặc chồng của người bị hại về việc vợ hoặc chồng họ ngoại tình, dọa
sẽ tố cáo việc phạm tội hoặc vi phạm đạo đức của người có tài sản hoặc người
có trách nhiệm về tài sản...

20


Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, tuy có nhiều cách thể hiện

khác nhau, song về cơ bản các quan điểm đều thống nhất về xác định nội hàm
của hành vi cưỡng đoạt tài sản.
Trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm, Nhà
xuất bản Cần Thơ xuất bản năm 2008, TS. Phạm Văn Beo cho rằng:"Cưỡng
đoạt tài sản là hành vi đe dọa dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh
thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản" [1, tr. 159].
Trong giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học luật Hà
Nội do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2002 thì tội Cưỡng đoạt
tài sản được định nghĩa như sau:"Tội cưỡng đoạt tài sản là hành vi đe dọa sẽ
dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm
đoạt tài sản" [40, tr. 378].
Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng:
Cưỡng đoạt tài sản là tìm mọi cách làm cho người có tài sản
hoặc người có trách nhiệm về tài sản sợ hãi phải giao tài sản cho
người phạm tội. Như vậy, hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ
đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác mà người phạm tội thực
hiện là nhằm chiếm đoạt tài sản.
Nếu hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác
uy hiếp tinh thần người khác nhưng không nhằm chiếm đoạt tài sản
thì không phải là tội cưỡng đoạt tài sản, mà tùy từng trường hợp cụ thể
mà người có hành vi phạm các tội như: Bức tử quy định tại Điều 100
Bộ luật Hình sự; Cưỡng dâm hoặc cưỡng dâm trẻ em quy định tại
các Điều 113, 114 Bộ luật Hình sự; cưỡng ép hôn nhân quy định tại
Điều 146 Bộ luật Hình sự [27, tr. 121].
Quan điểm khác lại cho rằng: "Cưỡng đoạt tài sản là việc người phạm
tội với mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn đe dọa sẽ

21



dùng vũ lực hoặc thủ đoạn uy hiếp tinh thần của chủ sở hữu người quản lý tài
sản hoặc người khác có liên quan" [6, tr. 248]
Có thể nhận thấy, tuy có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng hành vi
cưỡng đoạt tài sản thường được hiểu là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có
thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản.
Dưới góc độ luật hình sự, hành vi cưỡng đoạt tài sản thực chất là hành
vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác
nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. Hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc thủ
đoạn khác với mục đích bắt người có tài sản lo sợ và phải tự nguyện chuyển
giao tài sản cho người cưỡng đoạt.
Đặc trưng cơ bản của tội cưỡng đoạt tài sản là người phạm tội đã có
hành vi uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản bằng những thủ
đoạn đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác làm cho người có trách nhiệm
về tài sản lo sợ mà phải miễn cưỡng giao tài sản cho người phạm tội.
Điểm khác biệt của tội cưỡng đoạt tài sản so với các tội phạm khác có
tính chất chiếm đoạt đó là sau khi người có tài sản bị đe dọa sẽ dùng vũ lực và
các thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần thì người có tài sản do lo sợ sẽ ảnh hưởng
đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm nên sẽ tự nguyện chuyển giao tài
sản cho người cưỡng đoạt. Phần lớn các tài sản sau khi đã được chuyển giao sẽ
được thực hiện bằng một giao dịch dân sự, nên tài sản được chuyển giao sẽ
được coi là hợp pháp nếu không có sự tố giác từ những người bị cưỡng đoạt.
Từ những phân tích trên đây, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những
điểm hợp lý trong các khái niệm tội cưỡng đoạt tài sản và những vấn đề đã
được thực tiễn áp dụng pháp luật kiểm nghiệm, có thể hiểu về tội cưỡng đoạt
tài sản bằng một khái niệm như sau: Tội cưỡng đoạt tài sản là một tội phạm
được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình
sự và đạt độ tuổi luật định thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp xâm phạm đến
quyền sở hữu tài sản người khác bằng các hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực

22



hoặc thủ đoạn uy hiếp tinh thần của chủ sở hữu, người quản lý tài sản hoặc
người khác có liên quan nhằm chiếm đoạt tài sản.
1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định tội cưỡng đoạt tài sản trong luật
hình sự Việt Nam
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường, tình hình tội phạm cũng diễn ra hết sức phức tạp, đặc biệt là đối với
các nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Chính sách pháp luật
hình sự của nhà nước ta vì thế cũng có những thay đổi để phù hợp với thực
tiễn đời sống xã hội. Vi phạm và xử lý vi phạm pháp luật hình sự là hai phạm
trù tuy khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn
nhau. Chỉ trên cơ sở xử lý các hành vi vi phạm pháp luật một cách nghiêm
minh, đúng đắn, chính xác, khách quan, phù hợp với pháp luật thì mới đảo
đảm công bằng xã hội. Nếu việc xử lý hành vi vi phạm không nghiêm minh,
không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi
phạm sẽ tạo tâm lý coi thường chế tài, nhờn pháp luật hoặc bi quan, chán nản,
mất niềm tin vào công lý, khi đó mục đích của hình phạt không những không
đạt được mà còn phản tác dụng.
Do vậy, cũng giống như các tội phạm khác, đường lối xử lý đối với
tội cưỡng đoạt tài sản phải bảo đảm nguyên tắc mọi hành vi phạm tội phải
được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo pháp luật; không
chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích
cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn
ngừa họ phạm tội mới; qua đó giáo dục ý thức tuân thủ và tôn trọng pháp luật
của người khác; đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã đạt

được nhiều thành tựu quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện một Nhà

23


nước độc lập, tự chủ với một nền pháp luật đầy tính sáng tạo, phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn lịch sử. Từ khi bắt đầu thành
lập Nhà nước Văn Lang đầu tiên, trải qua các triều đại phong kiến, pháp luật
hình sự nước ta ngày càng được củng cố, phát triển và hoàn thiện cho tới ngày
nay. Do việc thu thập, chọn lọc các tài liệu lưu trữ có hạn chế nên việc nghiên
cứu lịch sử các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam nói chung, cũng như
tội cưỡng đoạt tài sản nói riêng qua các thời kỳ cũng không thực sự đầy đủ; vì
vậy, trong phạm vi luận văn, tác giả chỉ cố gắng đề cập tới một số khía cạnh
về sự hình thành và phát triển những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về tội cưỡng đoạt tài sản, dưới những giai đoạn lịch sử mà kỹ thuật lập pháp
hình sự nước nhà đạt trình độ phát triển, nổi bật nhất.
Nhận thức được vai trò của pháp luật hình sự trong việc bảo vệ chế độ
sở hữu nhằm củng cố, duy trì trật tự xã hội, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp của Nhà nước và các chủ thể pháp luật khác, các triều đại phong kiến
nước ta đã sử dụng hình luật để xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu.
Dưới thời Lê Sơ mà đỉnh cao là triều đại của vua Lê Thánh Tông đã
ban hành Quốc triều Hình luật (Bộ luật Hồng Đức), trong đó có gần 50 điều
để thiết lập các quy định nhằm bảo vệ chế độ sở hữu phong kiến.
Liên quan đến hành vi cưỡng đoạt tài sản, tại Điều 436 của Bộ luật
trên quy định: "Dọa nạt người để lấy của thì khép vào tội ăn trộm mà giảm
một bậc. Dẫu sự dọa nạt không đáng sợ, nhưng người có của vẫn sợ mà phải
đem cho thì người lấy của cũng phải như thế. Chưa lấy được của cải, thì xử
60 trượng, biếm hai tư" [47].
Có thể nói, mặc dù chưa có một khái niệm pháp lý rõ ràng, nhưng đây
là những quy định đầu tiên trong hình luật nước ta mà trong đó, những dấu

hiệu trong hành vi khách quan của tội cưỡng đoạt tài sản đã được đề cập đến.
Đặc biệt, nhà làm luật thời đó đã có những mô tả chính khá chính xác điều
kiện thực tiễn của nước ta lúc bấy giờ. Hành vi cưỡng đoạt trong trường hợp

24


này được xác định nhẹ hơn tội ăn trộm thường, mục đích của việc ghi nhận tội
phạm này là để bảo vệ quyền sở hữu của các chủ thể có nguy cơ bị tội phạm
xâm hại.
1.2.1. Giai đoạn từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công đến trước pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật Hình sự năm 1985
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước công
nông non trẻ đã tích cực tiến hành công tác lập pháp nói chung và luật pháp
hình sự nói riêng nhằm tăng cường việc quản lý nhà nước bằng pháp luật, bảo
vệ các thành quả của Cách mạng. Cùng với việc ban hành các Sắc lệnh về
chống các loại tội phạm khác, đối với các tội xâm phạm sở hữu, Nhà nước ta
đã ban hành Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/02/1946 quy định về trừng trị tội phá
hủy công sản; Sắc lệnh số 233/SL ngày 17/01/1946 về trừng trị tội phù lạm,
biển thủ công quỹ. Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư số 442/TTg ngày
19/01/1955 hướng dẫn các Tòa án trừng trị một số tội phạm xâm phạm sở hữu
như trộm cắp, cướp của, lừa gạt, bội tín. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp
luật thời kỳ này cho thấy việc quy định tội cưỡng đoạt tài sản chưa được đề
cập đến với tư cách là một tội phạm độc lập và chưa có sự định hình rõ nét.
Ngày 15/6/1956, Chủ tịch nước ký Sắc lệnh số 267/SL trừng trị những
âm mưu hoạt động phá hoại tài sản của Nhà nước, Hợp tác xã và của nhân
dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch xây dựng kinh tế và văn
hóa. Trong nội dung của Sắc lệnh này tuy chưa quy định tội cưỡng đoạt tài
sản thành một tội phạm cụ thể, nhưng các hành vi khách quan của tội phạm
này đã được đề cập và hướng dẫn về đường lối xử lý tương tự tội cướp tài sản

và tội cướp giật tài sản.
Để từng bước hoàn thiện pháp luật, đáp ứng yêu cầu quản lý đất nước
và cụ thể hóa công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm xâm phạm sở
hữu trong tình hình mới, ngày 21/10/1970, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã
thông qua Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và

25


×