Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Làm theo tư tưởng hồ chí minh về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong điều kiện hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.43 KB, 11 trang )

LÀM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN
NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN, NÔNG THÔN TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY

TS. Nguyễn Xuân Cường
Ủy viên BCH Trung ương Đảng,
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT

Nông nghiệp, nông dân và nông thôn đóng vai trò quan trọng trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vĩnh biệt chúng
ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta một bản
Di chúc lịch sử. Lúc này, suy ngẫm, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua bản
Di chúc và các văn kiện của Đảng sẽ giúp chúng ta vận dụng thiết thực hơn tư
tưởng của Người vào sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
trong đó có vấn đề “nông dân, nông nghiệp, nông thôn”.
1. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện mong muốn đem lại
hạnh phúc, ấm no cho nông dân; phát triển nông nghiệp, nông thôn chính là
để thực hiện chính sách đối với nông dân
Tháng 5/1965, khi cuộc chiến đấu của quân dân ta đang đứng trước thách
thức to lớn của việc hàng trăm nghìn quân Mỹ đổ bộ vào miền Nam, tấn công phá
hoại miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt bút viết Di chúc. Người đã khẳng định
“Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế
quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, đồng
bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. Trong những lần bổ sung tiếp sau,
đoạn văn này không hề thay đổi. Đặc biệt, nội dung bản thảo bổ sung tháng 5/1968
chính là những dự kiến cụ thể của Người về việc xây dựng đất nước sau chiến


tranh: Một là, phải “chuẩn bị mọi việc để thống nhất Tổ quốc”; Hai là, phải “mau
chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến
tranh xâm lược dã man”; Ba là, “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển
kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Những


lời dặn của Bác cho thấy mối quan tâm lớn lao đối với sự phát triển của đất nước
và đời sống của nhân dân sau chiến tranh, đúng như Người đã từng bày tỏ “Tôi chỉ
có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành”.
Ở đây, chúng ta thấy cả tư tưởng dân làm gốc thể hiện trong tư tưởng kinh tế
của Bác. Một mặt là niềm tin vào nhân dân, thấy hết sức mạnh to lớn của nhân dân,
không chỉ trong chiến tranh giải phóng mà còn trong phát triển kinh tế; mặt khác là
nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước phải chăm lo cho nhân dân. Bác đặc biệt quan tâm
tới nông dân, người khẳng định “Trong bao năm kháng chiến chống thực dân
Pháp, tiếp đến chống đế quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào nông dân đã luôn
hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp của, góp người, vui lòng
chịu đựng mọi khó khăn gian khổ” và “Trong cuộc kháng chiến của ta, nông dân
đóng góp nhiều nhất, phải hy sinh nhiều nhất. Trong công cuộc xây dựng dân chủ
mới, muốn phát triển công nghệ và thương nghiệp, ắt phải do nông dân được giải
phóng, thi đua sản xuất, cung cấp nguyên liệu và lương thực, đồng thời tiêu thụ
dồi dào những thứ công nghệ sản xuất ra”. Do đó, Người đề nghị miễn thuế nông
nghiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông nghiệp “để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát
lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”. Ý tưởng này tiếp tục thể hiện
nhận thức đúng đắn của Người về vai trò quan trọng của nông dân và nông nghiệp
đối với nền kinh tế đất nước.
Ngược thời gian trở về trước, tháng 01/1953, trong bài phát biểu khai mạc
Hội nghị Trung ương lần thứ tư, Bác đã chỉ rõ “Nền tảng của vấn đề dân tộc là vấn
đề nông dân, vì nông dân là tối đại đa số trong dân tộc. Nền tảng của cách mạng
dân chủ cũng là nông dân, vì nông dân là lực lượng cách mạng đông nhất chống
phong kiến, chống đế quốc”. Xác định vị trí, vai trò quan trọng của nông dân trong


cách mạng, Người cho rằng chỉ lo “cơm ăn, áo mặc” cho họ thì chưa đủ, mà phải
nâng cao dân trí cho họ, như thế họ mới được hưởng trọn vẹn độc lập, tự do. Quan

trọng hơn, việc mang lại quyền lợi ruộng đất cho nông dân luôn được xác định là
một trong hai nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam.
Cách mạng tháng 8 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu cao ba nhiệm vụ
lớn cho nhân dân toàn quốc: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Người
viết thư Gửi nông gia Việt Nam... Trong thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam ngày
11/4/1946, Người viết “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế
của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ
trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta
giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”.
Khi bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất - Kế hoạch xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, Bác nhắc “Nông dân ta đông người nhất,
kinh tế nông nghiệp quan trọng nhất; nông dân ta đã anh hùng trong cách mạng,
trong kháng chiến, trong cải cách ruộng đất, thì trong cuộc cách mạng biến đổi
nông nghiệp từ thấp lên cao này nông dân ta cũng phải là anh hùng”. Ngày
14/9/1959, về dự Hội nghị thủy lợi toàn miền Bắc, Bác nhấn mạnh “Làm thuỷ lợi
phải là phong trào của toàn dân...”. Phát biểu tại Đại hội Công đoàn tỉnh Thanh
Hóa lần thứ 6 (ngày 19/7/1960), Bác cũng nhấn mạnh “Nước ta là một nước nông
nghiệp..., muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy nông
nghiệp làm gốc. Nếu không phát triển nông nghiệp thì không có cơ sở phát triển
công nghiệp vì nông nghiệp cung cấp nguyên liệu, lương thực cho công nghiệp và
tiêu thụ hàng hóa của công nghiệp làm ra”.
Năm 1963, nói chuyện với cán bộ Trung ương về tham gia cải tiến quản lý
hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, phát biểu của Người có tính khái quát hơn: “Có gì
sung sướng bằng được góp phần đắc lực vào công cuộc phát triển nông nghiệp,
nền tảng để phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa”. Vào đầu những năm 60 của thế kỷ
XX, khi ai cũng nói công nghiệp, nhất là công nghiệp nặng là nền tảng của nền
kinh tế thì việc Bác viết “Phát triển nông nghiệp, nền tảng để phát triển kinh tế xã
hội chủ nghĩa” rõ ràng thể hiện một tư duy sáng tạo nổi bật. Nhận thức đó bộc lộ



phẩm chất một nhà lãnh đạo hiểu sâu sắc thực tiễn đất nước, nhuần nhuyễn giữa lý
luận và thực tiễn.
Để nông nghiệp phát triển, Bác đặc biệt quan tâm đến kế hoạch và sản xuất;
Người cho rằng kế hoạch không nên tụt lại sau, nhưng cũng không nên chạy quá
nhanh trước sự phát triển của công nghệ: “Chỉ có liên hệ chặt chẽ với nông nghiệp,
không rời xa sức tiết kiệm và ăn khớp với vốn liếng và sức hậu bị của ta - thì công
nghệ mới làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của nó, là lãnh đạo và cải tạo kinh tế của
quốc dân”.
Cũng với tinh thần trên, Bác đã đề nghị miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho
nông dân. Đó không chỉ là mối quan tâm đặc biệt tới một lực lượng, một ngành
kinh tế quan trọng tạo ra sức người, sức của cho cuộc kháng chiến kiến quốc cũng
như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn là sự kế thừa truyền
thống tốt đẹp của cha ông. Dân tộc ta đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống giặc
ngoại xâm bảo vệ nền độc lập dân tộc; sau mỗi lần chiến thắng, ông cha ta lại có kế
“khoan thư sức dân”. Người căn dặn miễn thuế cho nông dân, để họ được “hỉ hả,
mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi”, tiếp bước trên chặng đường cách mạng.
Từ tư tưởng đó, trong suốt cuộc đời mình, Bác luôn dành sự quan tâm đặc
biệt cho nông dân, nông nghiệp, nông thôn. Bác đã đến thăm hàng trăm hợp tác xã
nông nghiệp, cùng tát nước, thăm đồng, kéo cá với bà con 1. Bác đã viết hàng trăm
bức thư khen ngợi những nơi đạt kết quả cao trong sản xuất. Điều đó đã trở thành
nguồn cổ vũ lớn lao cho các phong trào thi đua lao động sản xuất trên mặt trận
nông nghiệp. Sự quan tâm lớn này, theo Bác là nhiệm vụ tự thân của cách mạng,
đồng thời là đạo lý đối với giai cấp giữ vai trò chủ đạo của cách mạng.
Như vậy, có thể nói, trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người nông
dân không thể tách rời môi trường sống của họ đó là sản xuất nông nghiệp và địa
bàn nông thôn. Do đó, tư tưởng, quan điểm, đường lối, chính sách đối với người
nông dân cũng đồng thời là đối với nông nghiệp và nông thôn. Ba vấn đề này là sự
1 Đơn cử, từ năm 1958 đến năm 1960 - thời kỳ bước đầu hợp tác hoá nông nghiệp, Người đã 6 lần đích thân xuống địa phương
xem xét thực tiễn sản xuất nông nghiệp; 11 lần tham dự hội nghị tổng kết kinh nghiệm về xây dựng hợp tác xã, về thuỷ lợi, về
khoa học kỹ thuật; Người đã cho nhiều huấn thị thiết thực và kêu gọi mọi người hăng hái tham gia hợp tác và mạnh dạn áp

dụng khoa học kỹ thuật trong canh tác.


thống nhất biện chứng, trong đó phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn chính
là để thực hiện chính sách đối với nông dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho nông dân.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh - Cương lĩnh, kim chỉ nam cho hành động của
toàn Đảng, toàn dân ta trong công cuộc phát triển toàn diện nông nghiệp,
nông dân, nông thôn
Thực hiện lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta,
đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh
tế - xã hội, văn hóa, an ninh, quốc phòng và đối ngoại. Đó là việc khôi phục nền
kinh tế sau chiến tranh, từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu, phát triển
được một số ngành kinh tế quan trọng, thiết lập và củng cố chính quyền nhân dân
trên phạm vi cả nước, phát triển sự nghiệp vǎn hoá, giáo dục, y tế, tiến hành thắng
lợi hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên cương Tổ quốc. Tiếp đó, đã từng bước xây
dựng được nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng được nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân với lực lượng vũ trang
nhân dân cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đủ mạnh để bảo vệ
Tổ quốc.
Qua các Đại hội Đảng, đặc biệt là Đại hội VI (1986) đã mở ra thời kỳ đổi
mới, tạo nên bước chuyển căn bản trong sự nghiệp xây dựng kinh tế - xã hội, cũng
như trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam. Đại hội VI khởi xướng đường lối đổi
mới toàn diện, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, chủ trương đẩy mạnh thực hiện
3 chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu, trong đó chương trình lương thực - thực phẩm là quan trọng nhất nhằm đảm
bảo lương thực cho xã hội và có dự trữ một phần. Ngày 05/4/1988, Bộ Chính trị đã
ban hành Nghị quyết 10 về chuyển đổi cơ chế quản lý nông nghiệp, đã mở đầu cho

sự phát triển ngoạn mục của nông nghiệp, nông thôn nước ta thời kỳ đổi mới, tiến
lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tiếp theo đó, các chỉ thị, nghị quyết khác của
các kỳ đại hội và Hội nghị Trung ương các khoá VI, VII, VIII, IX đều là những chủ


trương, chính sách đổi mới rất quan trọng trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp và
đời sống xã hội nông thôn. Thực chất, đây chính là sự vận dụng sáng tạo những
luận điểm của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nông dân
vào hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam, có tính đến xu hướng phát triển của thời đại.
Nhằm tạo ra sự chuyển biến hơn nữa trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế
nông thôn và nâng cao đời sống nông dân, Đại hội X của Đảng (tháng 4/2006) nêu
rõ “Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn
có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; hướng tới xây dựng một nền nông
nghiệp hàng hóa lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất
lượng và khả năng cạnh tranh cao”. Tiếp theo đó, Nghị quyết Trung ương 7 khóa
X về “nông nghiệp, nông dân, nông thôn” được coi như luồng gió mới, tạo đà và
cơ chế, chính sách lớn “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ
sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn
định chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước”.
Thực hiện tư tưởng của Người, ngành Nông nghiệp đã tham mưu nhiều chủ
trương, chính sách phù hợp nguyện vọng của nông dân như miễn thuế sử dụng đất
nông nghiệp và các loại thuế phí, miễn thủy lợi phí2, nghĩa vụ đóng góp đối với
nông dân… Tiếp đó, trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế, ngành đã chủ động nghiên cứu và đề xuất nhiều chủ trương lớn mang
tính cách mạng đối với “nông dân, nông nghiệp, nông thôn”, mà trọng tâm là
Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới và Đề án tái cơ cấu ngành nông
nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Đây là sự cụ

thể hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng vào thực tiễn đời sống; đó là
quyết tâm mới, tầm nhìn mới, nhưng trên hết đó trách nhiệm chính trị lớn lao mà
2 Ngày 14/11/2008, Chính phủ ban hành NĐ 115/2008/NĐ-CP; theo đó miễn thủy lợi phí đối với diện tích mặt đất, mặt nước
trong hạn mức giao đất nông nghiệp của các hộ gia đình, cá nhân dùng vào sản xuất nông, ngư, lâm nghiệp và làm muối...


ngành Nông nghiệp ý thức rất rõ ràng trước Đảng, Bác và nhân dân trong quá trình
đi lên của đất nước. Đây là những cơ sở cho việc hoạch định lại chiến lược phát
triển toàn ngành trong giai đoạn mới.
Đại hội lần thứ XI của Đảng tiếp tục chỉ đạo cần tăng nhanh sản lượng và
kim ngạch xuất khẩu nông sản, nâng cao thu nhập và đời sống nông dân; khuyến
khích tập trung ruộng rất; phát triển trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp phù hợp
về quy mô và điều kiện của từng vùng; đổi mới cơ bản phương thức tổ chức kinh
doanh nông sản…Về xây dựng nông thôn mới, Đảng ta chỉ rõ “Quy hoạch phát
triển nông thôn gắn với phát triển đô thị và bố trí các điểm dân cư. Phát triển
mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi trường...”.
Đại hội lần thứ XII của Đảng đề ra yêu cầu trong thời gian tới cần phát triển
nông nghiệp và kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Xây dựng nền
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao
chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng,
đẩy mạnh xuất khẩu. Đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nền nông
nghiệp sinh thái phát triển toàn diện, thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học - công
nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nông
nghiệp và đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Bên
cạnh đó, chú trọng đầu tư vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp, chuyển đổi cơ
cấu kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới và quá trình đô thị hóa một
cách hợp lý đồng thời phát huy vai trò chủ thể của hộ nông dân và kinh tế hộ…
Như vậy, tư tưởng, chủ trương, đường lối của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
nông dân gắn với phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn đã được Đảng và
Nhà nước ta quán triệt, vận dụng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc

biệt trong thời kỳ đổi mới, đã trở thành “kim chỉ nam” để Đảng ta xây dựng đường
lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung, trong đó có “nông dân, nông
nghiệp và nông thôn”. Sự quán triệt, vận dụng tư tưởng của Người lại càng chứng
tỏ tầm nhìn vĩ đại, sự quan tâm và tình yêu thương sâu sắc của Người đối với nông
dân, nông nghiệp, nông thôn.


3. Thành tựu phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn làm theo tư
tưởng Hồ Chí Minh
Sau 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và 33 năm thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước, nhất là từ khi triển khai thực hiện và thể chế hóa
Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn: Nền kinh
tế nước ta nói chung, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nói riêng đã đạt được nhiều
kết quả, thành tựu phát triển to lớn. Từ một nước thường xuyên thiếu và đói, hàng
năm phải nhập hàng triệu tấn lương thực, nay Việt Nam đã trở thành một trong
những nước xuất khẩu gạo và nhiều loại nông sản hàng đầu thế giới. Nông nghiệp
đã chuyển biến mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu to lớn, liên tục phát triển với
tốc độ tăng trưởng cao trên cơ sở phát huy các lợi thế, chuyển mạnh sang sản xuất
hàng hóa, xuất khẩu trên quy mô lớn và ngày càng tăng; hệ thống tổ chức sản xuất,
kinh doanh trong nông nghiệp tiếp tục được đổi mới phù hợp hơn với cơ chế thị
trường. Phát triển nông thôn và xây dựng nông thôn đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, bộ mặt nông thôn nhiều đổi mới; kết cấu hạ tầng được nâng cấp, điều kiện
sinh sống được cải thiện; cơ cấu kinh tế, công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn phát
triển nhanh. Thu nhập và đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và dân cư nông
thôn được nâng cao, xóa đói giảm nghèo đạt thành tựu to lớn. Kết quả cụ thể:
(1) Nông nghiệp: Nông nghiệp đang chuyển mạnh theo hướng sản xuất hàng
hóa với quy mô, năng suất và chất lượng ngày càng cao, an toàn thực phẩm được
coi trọng. Tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành giai đoạn 2008 - 2017 đạt
2,66%/năm và năm 2018 đạt 3,76%. Đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và hỗ
trợ an ninh lương thực cho các quốc gia khác: giai đoạn 2008 - 2017 sản lượng lúa

tăng từ 38,7 triệu tấn lên 42,76 triệu tấn; bình quân lương thực đầu người tăng từ
497 kg/năm lên trên 520 kg/năm, đưa Việt Nam vào nhóm sáu nước hàng đầu về
chỉ số này và trở thành quốc gia bền vững ANLT hơn phần lớn các quốc gia đang
phát triển ở châu Á.
Xuất khẩu nông lâm thủy sản tăng nhanh, tiếp tục đóng vai trò quan trọng
trong thúc đẩy phát triển nông nghiệp hàng hóa, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng,
góp phần giảm nhập siêu cho cả nước. Tổng kim ngạch xuất khẩu 10 năm (2008 -


2017) đạt 261,28 tỷ USD, tăng 9,24%/năm; năm 2018 đạt mức kỷ lục 40,02 tỷ
USD, tăng 23,55 tỷ USD so với năm 2008. Đã có 10 nhóm mặt hàng có kim ngạch
xuất khẩu từ 1,0 tỷ USD trở lên3, trong đó có 6 mặt hàng (trái cây, hạt điều, cà phê,
gạo; tôm; đồ gỗ) đạt kim ngạch xuất khẩu trên 3 tỷ USD.
(2) Nông thôn: Xây dựng nông thôn đổi mới trở thành phong trào sâu rộng;
đến hết tháng 6 năm 2019, cả nước có 4.458 xã (chiếm 50,01%) đạt chuẩn nông
thôn mới, bình quân đạt 15,26 tiêu chí/xã và 82/664 đơn vị cấp huyện hoàn thành
nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới. Hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông
thôn được đầu tư nâng cấp và từng bước hiện đại hóa, phục vụ ngày càng tốt hơn
cho sản xuất, đời sống, phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Đến
năm 2017 có 99,4% xã cả nước có đường ô tô đến trung tâm xã, trong đó 84,1% xã
có đường trục được nhựa/bê tông hóa từ 50% trở lên, mạng lưới điện quốc gia đã
bao phủ đến 100% số xã, 97,8% số thôn, 99,2% hộ nông thôn; 99,7% số xã đã có
trường tiểu học và trường mẫu giáo; 99,5% số xã có trạm y tế xã; 60,8% số xã có
chợ; 58,6% số xã có nhà văn hoá.
(3) Nông dân: Đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn được nâng
cao, số hộ nghèo giảm nhanh. Thông qua phát triển các mô hình sản xuất, hỗ trợ
người nghèo, địa phương nghèo đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi;
chuyển giao khoa học kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất. Thu nhập
bình quân đầu người/năm ở nông thôn đã tăng 3,49 lần, từ 9,15 triệu đồng năm 2008
lên 34,5 triệu đồng năm 2018. Khoảng cách thu nhập giữa thành thị và nông thôn

thu hẹp từ 2,1 lần năm 2008 còn 1,8 lần năm 2017. Phúc lợi xã hội và đời sống
người nông dân được cải thiện; tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn theo chuẩn nghèo đa
chiều tiếp tục giảm nhanh, còn dưới 6,0% năm 2018, đã về đích trước 10 năm thực
hiện mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo.
4. Định hướng phát triển “nông dân, nông nghiệp, nông thôn” nhằm
mục tiêu “Phát triển một nền nông nghiệp thông minh, hội nhập quốc tế, thích
ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững gắn
3 Bao gồm: trồng trọt có: lúa gạo, cao su, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, sắn, rau quả; thủy sản có: tôm, cá tra; lâm nghiệp có: gỗ và
sản phẩm từ gỗ


với xây dựng nông thôn mới phồn vinh và văn minh. Phấn đấu thực hiện mục
tiêu xây dựng một nền nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có, nông thôn
văn minh, hiện đại”
Trong điều kiện hiện nay và trước yêu cầu của thời kỳ mới, cần tiếp tục quán
triệt, vận dụng sáng tạo tư tưởng, chủ trương, đường lối của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
của Đảng và thực hiện Di chúc của Người; với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của
Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và sự quan tâm phối hợp của hệ thống
chính trị cả nước; sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp, bà con nông dân; sự
nỗi lực của toàn ngành; định hướng phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn
thời gian tới là:
(1) Tiếp tục cơ cấu lại nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và
xây dựng và nông thôn mới; tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị với 3 nhóm sản
phẩm chủ lực (Nhóm sản phẩm chủ lực quốc giá; Nhóm sản phẩm chủ lực cấp
tỉnh; Nhóm sản phẩm chủ lực địa phương theo Chương trình “Mỗi xã một sản
phẩm”); khai thác và tận dụng tốt lợi thế nền nông nghiệp nhiệt đới, xây dựng và
phát triển vùng chuyên canh hàng hóa chất lượng cao, quy mô lớn đạt tiêu chuẩn
phổ biến về an toàn thực phẩm; kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến, bảo
quản và thị trường, xuất khẩu, với chuỗi giá trị toàn cầu; tổ chức liên kết chặt chẽ
giữa các địa phương trong vùng, tạo đột phá trong phát triển nhanh, bền vững,

nâng cao giá trị gia tăng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh.
(2) Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ
cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hiệu quả; phát triển nhanh công
nghiệp, dịch vụ và đô thị nông thôn; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn
hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ, nông thôn
ngày càng xanh - sạch - đẹp, quan hệ cộng đồng phát triển; hệ thống chính trị ở
nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường.
(3) Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự


nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Tóm tại, tư tưởng Hồ Chí Minh về “nông dân, nông nghiệp, nông thôn”
chính là niềm tin vào thắng lợi cuối cùng và lòng quyết tâm để đạt được thắng lợi
đó. Đảng ta, nhân dân ta và toàn ngành Nông nghiệp và PTNT sẽ khắc ghi lời Bác
dạy, đoàn kết một lòng để chung sức vượt qua mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu
thực hiện trọn vẹn điều mong ước căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn
kính yêu của chúng ta./.



×