Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Nghệ Thuật Tổ Chức Tự Sự Trong Truyện Ngắn Sương Nguyệt Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.62 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

ĐẶNG VIỆT HƢNG

NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC TỰ SỰ TRONG
TRUYỆN NGẮN SƢƠNG NGUYỆT MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Nguyên – 2019


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

ĐẶNG VIỆT HƢNG

NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC TỰ SỰ TRONG
TRUYỆN NGẮN SƢƠNG NGUYỆT MINH

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP

Thái Nguyên – 2019



i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn
đều trung thực và chƣa từng đƣợc công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019
Tác giả luận văn
ĐẶNG VIỆT HƢNG


ii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm
ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn
học, Trƣờng Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo
đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên
hƣớng dẫn PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp đã luôn tận tình hƣớng dẫn, chỉ bảo
trong suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, ngƣời thân, và bạn bè đã
giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019
Tác giả luận văn
ĐẶNG VIỆT HƢNG


iii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
MỤC LỤC ........................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Đối tƣợng và mục tiêu nghiên cứu ................................................................ 7
4. Nhiệm vụ và phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................... 7
5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 8
6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 8
Chƣơng 1: NGHỆ THUẬT TỰ SỰ VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA TRUYỆN
NGẮN SƢƠNG NGUYỆT MINH ................................................................... 9
1.1. Một số vấn đề lý thuyết .............................................................................. 9
1.1.1. Khái niệm truyện ngắn ............................................................................ 9
1.1.2. Tự sự và nghệ thuật tự sự ...................................................................... 13
1.2. Khái quát về truyện ngắn Việt Nam sau 1986 ......................................... 16
1.2.1. Sự phát triển về lực lượng sáng tác truyện ngắn .................................. 16
1.2.2. Nh ng

i m i về tư uy nghệ thuật ..................................................... 17

1.2.3. Các huynh hư ng c

n .................................................................... 19

1.3. Sự xuất hiện của truyện ngắn Sƣơng Nguyệt Minh ................................. 22
1.3.1. uá tr nh sáng tác ................................................................................. 22
1.3.2. u n niệm nghệ thuật ........................................................................... 26

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1.................................................................................. 29
Chƣơng 2: X Y DỰNG T NH HU NG, T CHỨC KẾT CẤU, B T PHÁP
K ẢO TRUYỆN NGẮN SƢƠNG NGUYỆT MINH ................................... 30
2.1. Tình huống truyện .................................................................................... 30
2.1.1. i i thuy t hái niệm ............................................................................ 30
2.1.2. T nh huống hành ộng .......................................................................... 31


iv

2.1.3. T nh huống giàu ịch tính ..................................................................... 36
2.1.4. T nh huống nhận th c ........................................................................... 39
2.2. T chức kết cấu ........................................................................................ 42
2.2.1. i i thuy t hái niệm ............................................................................ 42
2.2.2. K t cấu

n tuy n .................................................................................. 44

2.2.3. K t cấu phi tuy n tính ........................................................................... 49
2.2.4. K t cấu ph c hợp .................................................................................. 56
2.3. Bút pháp kì ảo và tạo dựng chi tiết đắt giá............................................... 60
2.3.1. Bút pháp

o ....................................................................................... 60

2.3.2. Tạo ựng chi ti t ắt giá ....................................................................... 63
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2.................................................................................. 67
Chƣơng 3: NGƢỜI KỂ CHUYỆN – ĐIỂM NH N TRẦN THUẬT VÀ
NGÔN NGỮ TRUYỆN NGẮN SƢƠNG NGUYỆT MINH ......................... 68
3.1. Ngƣời kể chuyện và điểm nhìn trần thuật ................................................ 68

3.1.1 Tự sự ngôi th nhất theo iểm nh n

n tuy n ...................................... 71

3.1.2. Tự sự ngôi th

theo iểm nh n ên ngoài ........................................ 74

3.1.3. Tự sự ngôi th

theo iểm nh n ên trong ......................................... 78

3.1.4. Tự sự ngôi th

theo iểm nh n ph c hợp ......................................... 82

3.2. Các dạng thức ngôn ngữ trong truyện ngắn Sƣơng Nguyệt Minh ........... 85
3.2.1. Ngôn ng miêu t giàu chất th ............................................................ 87
3.2.2. Ngôn ng tính ục ................................................................................. 90
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3.................................................................................. 98
PHẦN KẾT LUẬN ......................................................................................... 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 101


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Luận văn của chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong
truyện ngắn sƣơng Nguyệt Minh bởi ba lý do cơ bản sau đây:

Th nhất, văn học Việt Nam từ sau năm 1986 đến nay phát triển mạnh
mẽ với nhiều xu hƣớng khác nhau. Sự đa dạng, phức tạp của văn học Việt
Nam đƣơng đại đƣợc thể hiện trên các bình diện: đề tài, chủ đề, khuynh
hƣớng thẩm mĩ, phong cách nghệ thuật... Bên cạnh các nhà văn tên tu i nhƣ
Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Chu Lai, Nguyễn Trí Huân, Khuất Quang Thụy,
Trung Trung Đỉnh... là sự xuất hiện một lớp nhà văn giàu tiềm năng nhƣ
Sƣơng Nguyệt Minh, Nguyễn Bình Phƣơng, Trần Anh Thái, Nguyễn Đình
Tú, Phạm Duy Nghĩa...Có thể nói, các nhà văn quân đội thế hệ này đã b sung
cho văn học đƣơng đại một cái nhìn mới mẻ, đa chiều về về cuộc sống thƣờng
nhật, cuộc sống của ngƣời lính trong và sau chiến tranh. Nếu nhƣ truyện ngắn
trƣớc đ i mới chỉ tập trung khắc họa những hình tƣợng mang tính sử thi thì
sau đ i mới chiến tranh và con ngƣời lại đƣợc thể hiện ở những góc khuất nhƣ
sự mất mát đau thƣơng, thất bại, phản bội, bi kịch xã hội, tình yêu...Đó là biểu
hiện cho sự kế thừa và ảnh hƣởng của xã hội, của các thế hệ đi trƣớc đối với
các nhà văn quân đội thế hệ trẻ.
Th h i, Sƣơng Nguyệt Minh là một trong những cây bút đáng chú ý
trong thời kỳ đ i mới. Ông luôn có ý thức tìm tòi cách thức biểu hiện mới để
tạo nên phong cách nghệ thuật riêng. Mặc dù viết nhiều thể loại nhƣ kí, tùy
bút, tản văn, truyện ngắn, tiểu thuyết.. nhƣng sở trƣờng của Sƣơng Nguyệt
Minh vẫn là truyện ngắn. Các tập truyện ngắn của Sƣơng Nguyệt Minh đã
nhận đƣợc nhiều giải thƣởng trong nƣớc, có sức thu hút đặc biệt với ngƣời
đọc và giới nghiên cứu phê bình. Việc nghiên cứu các sáng tác của Sƣơng
Nguyệt Minh sẽ giúp chúng ta thấy đƣợc những đóng góp và có sự đánh giá
đúng đắn vai trò của các nhà văn áo lính trong văn học thời kì đ i mới.


2

Th


, cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về truyện ngắn

và tiểu thuyết Sƣơng Nguyệt Minh ở những mức độ khác nhau và góc nhìn
khác nhau song chƣa có ai đặt vấn đề nghiên cứu nghệ thuật tự sự một cách
hệ thống. Vì thế chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài Nghệ thuật tổ chức tự sự
trong truyện ngắn Sương Nguyệt Minh nhằm trả lời câu hỏi nhà văn đã t
chức tự sự nhƣ thế nào và ý nghĩa nghệ thuật của nó ra sao? Điều này không
chỉ có ý nghĩa đối với sáng tác của Sƣơng Nguyệt Minh mà còn cắt nghĩa
thành công nghệ thuật tự sự văn học Việt Nam đƣơng đại.
2. Lịch sử vấn đề
Hiện nay số lƣợng bài viết, đánh giá, công trình nghiên cứu về Sƣơng
Nguyệt Minh khá phong phú theo tiến trình thời gian, tuy nhiên có thể quy
vào 3 nhóm vấn đề chính:
2.1. Nghiên cứu tổng quát về truyện ngắn Sương Nguyệt Minh
Đã có khá nhiều bài phê bình đánh giá và công trình nghiên cứu về
truyện ngắn Sƣơng Nguyệt Minh. Điều đó chứng tỏ sáng tác của Sƣơng
Nguyệt Minh đã chiếm đƣợc sự quan tâm của giới phê bình văn học và công
chúng yêu nghệ thuật.
Ngay từ khi xuất hiện lần đầu trên Văn nghệ quân ội,truyện ngắn Nỗi
u òng họ đã gây ấn tƣợng mạnh trong dƣ luận. Có ý kiến đánh giá đó là
“Truyện ầu t y, nhưng c m thấy ã rõ h nh hài cốt cách một người vi t
chuyên nghiệp”[66] với những trang văn“có mùi có vị, rõ r tư chất nhà
văn”. Liên tiếp sau đó, cùng với sự ra đời đều đặn của các tập truyện ngắn, số
ý kiến bình luận về tác phẩm của Sƣơng Nguyệt Minh ngày càng nhiều hơn.
Ở những sáng tác đầu tay, Sƣơng Nguyệt Minh chủ yếu viết về không
gian làng quê với những con ngƣời mộc mạc nghĩa tình mà bộn bề những bi
kịch trƣớc sự tấn công của cơ chế thị trƣờng với tấm lòng lo âu của một con
ngƣời nặng tình với quê hƣơng. Làng quê chính là mảnh đất giúp tài năng của



3

Sƣơng Nguyệt Minh nảy nở và phát triển, chính vì vậy mà nhà phê bình văn
học Nguyễn Hoàng Đức đã gọi Sƣơng Nguyệt Minh là “nhà văn của cảnh sắc
đồng quê lung linh”. Nhà phê bình Đoàn Minh Tâm đã viết một bài tiểu luận
đăng trên tạp chí Văn nghệ quân ội với nội dung Không gian làng quê trong
truyện ngắn Sư ng Nguyệt Minh (11/2009) khám phá riêng về không gian
nghệ thuật đặc trƣng của truyện ngắn Sƣơng Nguyệt Minh – một không gian
làng quê đẹp đẽ, đậm chất trữ tình với ngôn ngữ giản dị mà giàu chất thơ.
Qua quá trình sáng tác của Sƣơng Nguyệt Minh, các nhà phê bình đều
nhận ra những bƣớc chuyển đáng mừng trong văn phong của ông. Nếu trong
những tập truyện đầu tay nhƣ Đêm làng Trọng Nhân, Người ở
Đi qu

n sông Châu,

ồng chiều, Sƣơng Nguyệt Minh đƣợc đánh giá là “mang đến cho

ngƣời đọc một khuôn mặt văn chƣơng theo lối truyền thống, nhuần nhụy từ
giọng văn cho tới tên của các nhân vật trong tác phẩm” (Thu Phố, Tạp chí
tuyên giáo, 10/2009), thì càng về sau các tập truyện Mười

n nư c, Chợ

tình và đặc biệt là Dị hư ng, Sƣơng Nguyệt Minh càng thể hiện những tìm
tòi, bứt phá mới nhƣ chính ông quan niệm: Nhà văn là người sáng tạo hông
ngừng như òng sông ch y liên tục nặng phù s tư i tốt ồi ắp cho ờ ãi,
ruộng ồng. Dòng sông hông ch y là òng sông lấp, sông ch t. Nhà văn
ngừng sáng tạo là nhà văn r i vào lãng quên trong lòng ạn ọc. Các nhà phê
bình quan tâm tới sáng tác của Sƣơng Nguyệt Minh đã tìm ra con đƣờng vận

động trong văn chƣơng của Sƣơng Nguyệt Minh là đi từ “hiện thực – lãng
mạn” đến “hiện thực – lãng mạn và kỳ ảo”. Phạm Xuân Nguyên khẳng định
“Nhà văn không nhất thiết phải viết hay hơn ngƣời khác, nhƣng đến một lúc
nào đó, nhà văn phải biết khác mình. Nhà văn Sƣơng Nguyệt Minh đã làm
đƣợc điều này” (Phát biểu nhân bu i tọa đàm ra mắt tập truyện ngắn Dị
hư ng). Nhà văn Di Li trên tờ An ninh thủ ô (Số ngày 18/10/2009) cho rằng:
“Trƣớc nay, cái tên Sƣơng Nguyệt Minh thƣờng gắn liền với những câu
chuyện viết về đề tài chiến tranh và nông thôn bằng ngòi bút dù dữ dội song


4

vẫn lung linh, trữ tình, nên việc ra đời những truyện ngắn ma mị và nhiều tính
dục với bút pháp huyền ảo và giả tƣởng trong tập Dị hư ng khiến nhiều ngƣời
đọc lạ lẫm, bất ngờ” [67]
Có thể nói, phần lớn giới nghiên cứu, phê bình văn học đều thống nhất
khẳng định những bƣớc phát triển đáng chú ý trong tƣ duy nghệ thuật Sƣơng
Nguyệt Minh, ghi nhận đóng góp đáng chú ý của ông đối với văn học Việt
Nam đƣơng đại.
2.2. Nghiên cứu về thế giới nhân vật
Sƣơng Nguyệt Minh đã rất có lý khi lựa chọn thể loại truyện ngắn, bởi
với ông, đây là thể loại có sức tải lớn, chứa đựng đƣợc nhiều tâm tƣởng. Đọc
truyện của Sƣơng Nguyệt Minh dễ thấy yếu tố cốt truyện, tình huống và sự
đậm đặc của các chi tiết là thế mạnh của ông. Bên cạnh đó thế giới nhân vật
trong truyện rất phong phú, có những nét tính cách chân thực, sinh động,
thƣờng để lại ấn tƣợng sâu, nhƣ Hoài Anh nhận xét: “Tâm lý nhân vật đƣợc
tác giả phân tích khá kỹ ý nghĩ đƣợc biến đ i thành các hành động minh họa
dẫn ngƣời đọc tới thế giới trong câu chuyện” và “Đọc truyện của Sƣơng
Nguyệt Minh thấy cuộc sống lần lƣợt đi qua trang viết nhẹ nhàng, hƣ và thực
lẫn lộn, quá khứ và hiện tại, nam và nữ...” [55].

Đặc biệt sự xuất hiện của tập truyện ngắn Dị hư ng đã đánh dấu bƣớc đột
phá trong sáng tác của Sƣơng Nguyệt Minh. Truyện ngắn Dị hư ng đã gây
đƣợc sự quan tâm của dƣ luận với nhiều khen, chê ở mức độ khác nhau. Theo
Phạm Xuân Nguyên, Sƣơng Nguyệt Minh thực sự“có nh ng

i m i về tư

uy, ám ư c vào phong cách m i” còn Đoàn Ánh Dƣơng lại nhận thấy ở Dị
hư ng:“cách đặt nhan đề của tác giả nhƣ một kiểu xếp chồng ẩn dụ và nếu
phân tích, ta sẽ thấy đƣợc yếu tố trung gian trong cấu trúc tam phần của huyền
thoại”. Ở góc nhìn khác, Nguyễn Hoàng Đức nhận xét: “Sư ng Nguyệt Minh
vi t về àn à rất h y”và cho rằng “ ây là cây út có mặt trong hàng ngũ i


5

tốp ầu hiện n y củ văn chư ng quân ội”. Sau khi đọc truyện ngắn Dị
hư ng, Hoàng Long Giang cũng khẳng định:“Ông Đại tá – nhà văn Sư ng
Nguyệt Minh lại ể nh ng câu chuyện m i về thân phận con người tr i qu

ầy

hỉ, nộ, ái, ố, rất ời thường”. Văn Giá khi đọc sƣơng Nguyệt Minh đã tặng
ngƣời bạn của mình ba chữ: “Hoạt – Phiêu – Thõa. Hoạt là sự linh hoạt trong
trần thuật, trong lời văn. Phiêu là sự chuyển đ i trong bút pháp, từ chỗ trƣớc
kia Sƣơng Nguyệt Minh chú trọng tâm linh, đến tập này, tác giả đã đi vào bút
pháp siêu thực, huyền ảo, và Thõa là chất liệu sex đƣợc viết một cách cao tay.
Hoạt- Phiêu- Thõa là nói đến chất “trẻ” của Dị hư ng và chính tác giả của nó”.
Chỉ với ba từ ấy đã phản ánh đầy đủ điểm mạnh trong truyện ngắn của nhà văn
quân đội này. Phát hiện ra giá trị của những trang viết về tình dục giàu chất

nghệ thuật, Minh Minh trong bài Nhà văn Sƣơng Nguyệt Minh: “Sex” với “Dị
hư ng” viết: “Ông không đi theo lối mòn của bất kì ai trong ý tƣởng sáng tác
cũng nhƣ nghệ thuật chuyển hóa “thế giới sex” mang tính thẩm mĩ vào văn
học”. Điều đáng quý là tác giả Sƣơng Nguyệt Minh đã không sử dụng sex nhƣ
một món ăn câu khách mà “Sƣơng Nguyệt Minh sử dụng nhƣ một phƣơng tiện
nghệ thuật để đƣa ý tác giả, tác phẩm đến với ngƣời đọc. Đó là thứ tình dục
sống trong thanh tao, đầy gợi cảm”. [68].
Nghiên cứu chuyên sâu về thế giới nhân vật có thể kể đến luận văn Thạc
sĩ của Trần Thị Phƣơng Loan - Th gi i nghệ thuật trong truyện ngắn củ
Sư ng Nguyệt Minh, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.
Luận văn của Giang Thị Hà - Đặc iểm nghệ thuật truyện ngắn Sư ng
Nguyệt Minh, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, năm
2011 cũng chỉ ra những đặc trong nghệ sắc thuật xây dựng nhân vật qua hình
tƣợng nhân vật ngƣời phụ nữ, hình tƣợng ngƣời lính trở về và hình tƣợng
nhân vật cô đơn.


6

2.3. Nghiên cứu về nghệ thuật tự sự
Nhận xét về cách viết văn của Sƣơng Nguyệt Minh, Phong Điệp trên tờ
Văn nghệ trẻ (2002) khẳng định: “Truyện của anh viết kĩ đến từng câu, từng
chi tiết. Đặc biệt anh rất dụng công trong việc dựng cốt truyện...Anh viết
giống nhƣ chuẩn bị bƣớc vào một trận đánh. Lực lƣợng đƣợc chuẩn bị sẵn
sàng. Lúc nào cần tung ra, lúc nào đánh chiến thuật...nhịp nhàng, bài bản
không tạo cảm giác cứng nhắc. Ngƣời đọc hoàn toàn bị ngƣời viết dẫn dụ,
vừa hồi hộp vừa thích thú”. Khi đọc Mười

n nư c, nhà văn Văn Chinh


trong bài viết Tôi muốn cái lục lạc ấy ằng ất nung (www.vanchinh.net,
18/12/2008) nhận thấy: “Một trong những yếu tố đảm bảo cho sự thành công
của Sƣơng Nguyệt Minh là sự tích tụ các chi tiết và các tình huống khác lạ”.
Nhà văn Khuất Quang Thụy viết: “cuộc hành tr nh ấy ù là hông có
n ờ nhưng “thuyền i ể lại ấu ằm”, người l hành ể lại ấu chân trên
chặng ường ầy gió ụi”. Khuất Quang Thụy còn phát hiện ra “nh ng cái
hông thông thường” trong cách viết của Sƣơng Nguyệt Minh, ngay ở những
“bến nƣớc” đầu tiên trên con đƣờng sáng tác văn học nghệ thuật, từ việc phá
vỡ bút pháp truyền thống của thể loại đến việc phá vỡ môtíp, chủ đề và tạo ra
sự đa thanh trong tác phẩm. Tất cả những cái “không thông thƣờng” ấy thể
hiện sự tìm tòi không mệt mỏi của tác giả Sƣơng Nguyệt Minh trong quá trình
sáng tác. Chính nhờ sự tìm tòi ấy các tác phẩm của ông luôn không ngừng đ i
mới, mang lại nhiều phong vị khác nhau trong từng giai đoạn sáng tác. (Lời
tựa cho tập truyện ngắn Mười

n nư c) [42]

Về ngôn ngữ và giọng điệu truyện ngắn Sƣơng Nguyệt Minh, luận văn
của Giang Thị Hà cũng bƣớc đầu nêu đƣợc những đặc sắc là ngôn ngữ miêu
tả giàu chất thơ, độc thoại nội tâm và các sắc thái giọng điệu nhƣ trữ tình mộc
mạc; khách quan gai góc lạ lùng; mỉa mai, giễu nhại, bỡn cợt.


7

Có thể thấy những nhận định, ý kiến của các nhà phê bình, các công trình
nghiên cứu văn học đã góp phần giúp bạn đọc dần dần khám phá những nét đặc
sắc trong sáng tác của Sƣơng Nguyệt Minh. Song đến nay, các công trình đề cập
đến nghệ thuật t chức kết cấu – ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Sƣơng
Nguyệt Minh vẫn chỉ là tản mạn và chƣa thành hệ thống, đó chính là những gợi

ý quý báu, là nguồn tƣ liệu hữu ích cho chúng tôi thực hiện luận văn này.
3. Đối tƣợng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là nghệ thuật t chức tự sự trong
truyện ngắn Sƣơng Nguyệt Minh.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Tập trung phân tích sự độc đáo trong cách t chức tự sự của Sƣơng
Nguyệt Minh, lí giải sự mới mẻ và tính sáng tạo trong nghệ thuật kể chuyện
của ông.
4. Nhiệm vụ và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi đặt nhiệm vụ khám phá, phát hiện về nghệ
thuật t chức tự sự trong truyện ngắn của Sƣơng Nguyệt Minh, từ đó khẳng
định những đóng góp của ông đối với văn học Việt Nam đƣơng đại.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để khai thác nghệ thuật t chức tự sự trong truyện ngắn Sƣơng Nguyệt
Minh, chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp:
+ Phƣơng pháp hệ thống: đặt truyện ngắn Sƣơng Nguyệt Minh trong
bức tranh truyện ngắn Việt Nam đƣơng đại, đặt nghệ thuật t chức tự sự
truyện ngắn của nhà văn trong đ i mới cách thức trần thuật truyện ngắn từ
1986 đến nay.


8

+ Phƣơng pháp phân tích tác phẩm theo thể loại: giúp cho việc nghiên
cứu, phân tích các vấn đề nhƣ t chức kết cấu,cốt truyện,xây dựng chi tiết,
ngôn ngữ,… theo đúng đặc trƣng thể loại.
+ Phƣơng pháp tiếp cận tự sự học: là hƣớng tiếp cận cho phép ngƣời viết
nhìn thấy những phƣơng thức kiến tạo độc đáo,kỹ thuật xây dựng các văn

bản nghệ thuật đa nghĩa và sống động.
+ Phƣơng pháp so sánh: nhằm làm n i bật những đặc trƣng riêng trong
cách t chức tự sự trong truyện ngắn Sƣơng Nguyệt Minh trong tƣơng quan
với các sáng tác khác thời kỳ đ i mới, nhất là với các sáng tác về đề tài chiến
tranh và những bi kịch thời hậu chiến, bi kịch đời thƣờng.
5. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu 06 tập truyện ngắn của Sƣơng Nguyệt
Minh và so sánh với một số tác giả văn học Việt Nam đƣơng đại.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Nghệ thuật tự sự và sự xuất hiện của truyện ngắn Sƣơng
Nguyệt Minh
Chƣơng 2:

y dựng t nh huống t chức k t cấu bút pháp k ảo

truyện ngắn Sƣơng Nguyệt Minh
Chƣơng 3: Ngƣời kể chuyện - điểm nh n trần thuật và ngôn ngữ
truyện ngắn Sƣơng Nguyệt Minh


9

Chƣơng 1
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA TRUYỆN NGẮN
SƢƠNG NGUYỆT MINH
1.1. Một số vấn đề lý thuy t
1.1.1. Khái niệm truyện ngắn
Thể loại truyện ngắn có lịch sử lâu dài. Trên thế giới và Việt Nam đã có

nhiều nhà văn thành danh với truyện ngắn. Cùng với thời gian, đội ngũ những
ngƣời viết truyện ngắn ngày càng đông đảo, đặc biệt từ thời kỳ đ i mới với
một số lƣợng ấn phẩm phong phú trong đó nhiều cây bút đã tạo đƣợc dấu ấn
phong cách.
Trong thực tiễn thì vấn đề về lý thuyết truyện ngắn trở thành đề tài của
những cuộc tranh biện, đối thoại. Những phát biểu về truyện ngắn vẫn không
ngừng ra đời. Nguồn tƣ liệu nƣớc ngoài về lý thuyết truyện ngắn vốn rất
phong phú, tuy nhiên vì nhiều lý do, chúng tôi chƣa thể bao quát đƣợc hết.
Bởi vậy, khảo sát của luận văn chủ yếu dựa trên nguồn tài liệu đã đƣợc giới
thiệu trong nƣớc và có tham khảo công trình nghiên cứu Truyện ngắn Việt
N m từ 1986

n n y nh n từ góc ộ thể loại của Lê Thị Hƣơng Thủy (Học

viện Khoa học xã hội, 2013, Hà Nội)
Về thuật ngữ Truyện ngắn (tiếng Pháp: Nouvelle; tiếng Anh: Short
Story; tiếng Trung Quốc: Đoản thiên tiểu thuyết) hiện nay vẫn tồn tại nhiều
cách nhìn, quan niệm khác nhau tuỳ theo quan niệm của ngƣời nghiên cứu.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu hoặc tập hợp những bài nghiên cứu
về truyện ngắn với tƣ cách là một thể loại tự sự trong đó có đề cập đến khái
niệm thể loại. Đáng chú ý là các công trình S t y truyện ngắn của Vƣơng Trí
Nhàn [45], Nghệ thuật vi t truyện ngắn và ý của nhiều tác giả [46], Bình
luận truyện ngắn [54], Truyện ngắn nh ng vấn ề lý thuy t và thực tiễn thể
loại của Bùi Việt Thắng [55]; Truyện ngắn Việt N m, lịch sử, thi pháp, chân


10

dung [50], Nh ng vấn ề thi pháp củ truyện của Nguyễn Thái Hòa [27], Tìm
hiểu truyện ngắn của Trần Thanh Địch [23], Truyện ngắn: lí luận, tác gi và

tác phẩm của Lê Huy Bắc [9].
Mặc dù chƣa có một định nghĩa nhất quán nhƣng thuật ngữ “truyện
ngắn” đã đƣợc nhiều tác giả công trình lý luận, từ điển và ngƣời viết truyện
ngắn định danh. Từ iển thuật ng văn học định nghĩa truyện ngắn là “tác
phẩm tự sự cỡ nhỏ”, “khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống
trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thƣờng hƣớng tới
khắc họa một hiện tƣợng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh
hay đời sống tâm hồn của con ngƣời” [52, tr.304].
Trong Từ iển văn học (tập 2, Nxb Khoa học xã hội, 1984) truyện ngắn
đƣợc quan niệm: “Truyện ngắn khác với truyện vừa ở dung lƣợng nhỏ hơn,
tập trung mô tả một mảnh của cuộc sống: một biến cố hay một vài biến cố xảy
ra trong một giai đoạn nào đó của đời sống nhân vật, biểu hiện một mặt nào
đó của tính cách nhân vật, thể hiện một khía cạnh nào đó của vấn đề xã hội.”
[53, tr.457].
Theo 150 thuật ng văn học, truyện ngắn là: "thể tài tác phẩm tự sự cỡ
nhỏ, thƣờng đƣợc viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các phƣơng diện của đời
sống con ngƣời và xã hội. Nét n i bật của truyện ngắn là sự giới hạn về dung
lƣợng; tác phẩm truyện ngắn thích hợp với ngƣời tiếp nhận (độc giả) đọc nó
liền một mạch không nghỉ" [7, tr.345].
Các nhà nghiên cứu, phê bình, các nhà văn từ trƣớc tới nay cũng đã đƣa
ra những cách hiểu của mình về truyện ngắn. Từ góc độ ngƣời sáng tác nhà
văn Nguyễn Quang Sáng cho rằng: “truyện ngắn phải có “chuyện”, tức có thể
kể lại cho ngƣời khác nghe đƣợc. Mà muốn kể, câu chuyện phải chặt chẽ, hấp
dẫn” [45, tr.36]. Theo nhà văn Nguyễn Kiên thì “truyện ngắn là một trƣờng
hợp” trong khi Nguyễn Công Hoan lại quan niệm: “Truyện ngắn không phải


11

là truyện mà là một vấn đề đƣợc xây dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ

và bằng thái độ với cách đặt câu dùng tiếng có cân nhắc”, “muốn truyện là
truyện ngắn, chỉ nên lấy một ý chính làm chủ đề cho truyện. Những chi tiết
trong truyện chỉ nên xoay quanh chủ đề ấy. Không có chi tiết thừa, rƣờm rà,
miên man” [45, tr.14].
Nhiều nhà văn cũng đã chia sẻ về những kinh nghiệm, kỹ thuật viết
truyện ngắn. Công trình biên soạn S t y truyện ngắn (Vƣơng Trí Nhàn) hệ
thống lại những kinh nghiệm viết truyện của một số nhà văn nhƣ Nguyễn
Công Hoan, Tô Hoài, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Đỗ Chu, Ma Văn
Kháng. Từ kinh nghiệm viết truyện ngắn của bản thân, nhà văn Tô Hoài đúc
kết: “truyện ngắn là một thể văn tạo cho ngƣời viết nhiều nết quý lắm. Chỉ với
truyện ngắn, ngƣời ta mới biết tận dụng từng chữ, lo săn sóc từng chữ. Nhà
văn mình thƣờng yếu không tạo đƣợc phong cách riêng. Truyện ngắn là nơi là
có thể thử tìm phong cách cho mình. Truyện ngắn đòi hỏi sự hoàn thiện”
[45,tr. 8]. Với quan niệm viết truyện ngắn là một công việc rất thiêng liêng,
bởi đó là một cuộc gặp gỡ giữa ngƣời viết và ngƣời đọc, một cuộc gặp gỡ
phút chốc, nhƣng để lại một ấn tƣợng sâu đậm, làm ngƣời ta khó quên, nhà
văn Đỗ Chu chia sẻ: “Với tôi, thƣờng cốt truyện không thành vấn đề lắm. Và
cả nhân vật nữa, giữa nhân vật với tôi không có sự phân biệt đáng kể. Tôi
không bám vào hiện tƣợng quan sát đƣợc, mà thƣờng ƣớm mình vào nhân vật,
không giả sử mình đóng vai ngƣời khác sẽ ra sao, mà thƣờng giả sử trong
trƣờng hợp đó, mình sẽ xử sự ra sao. Tôi muốn huy động vai trò của bản thân
một cách cao nhất. Và mỗi truyện ngắn trở thành một mảnh của sự phân thân”
[45, tr.68].
Ngoài ra còn có những công trình khảo cứu truyện ngắn không chỉ ở
Việt Nam mà còn ở các nƣớc phƣơng Tây: Truyện ngắn ư i ánh sáng so
sánh (Đào Ngọc Chƣơng) [13], Truyện ngắn Pháp cuối th
ề lý thuy t và thực tiễn sáng tác (Phạm Thị Thật) [57].

ỷ XX một số vấn



12

Tuy nhiên, "mức độ dài ngắn chƣa phải là đặc điểm chủ yếu để phân biệt
truyện ngắn với các tác phẩm tự sự truyện ngắn. Trong văn học hiện đại các
tác phẩm rất ngắn nhƣng lại là truyện dài viết ngắn lại. Truyện ngắn thời
trung đại cũng ngắn nhƣng rất gần với truyện vừa. Các hình thức kể chuyện
dân gian rất ngắn gọn nhƣ c tích, thần thoại, truyện cƣời…lại càng không
phải là truyện ngắn " [24, tr.370 - 371].
Truyện ngắn hiện đại là một kiểu tƣ duy mới, một cách nhìn cuộc đời,
một cách nắm bắt đời sống rất riêng, mang tính chất thể loại. Cho nên truyện
ngắn đích thực xuất hiện tƣơng đối muộn trong lịch sử văn học. Khác với tiểu
thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn
của nó, truyện ngắn thƣờng hƣớng tới việc khắc hoạ một hiện tƣợng, phát
hiện bản chất quan niệm nhân sinh, nó là một khoảnh khắc, một nhát cắt có ý
nghĩa. Vì thế, truyện ngắn thƣờng "ít nhân vật và ít sự kiện phức tạp. Truyện
ngắn không nhằm tới việc khắc hoạ những tính cách điển hình đầy đặn, nhiều
mặt trong tƣơng quan với hoàn cảnh. Nhân vật của truyện ngắn thƣờng là hiện
thân cho một quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái phụ thuộc của con
ngƣời" [24, tr.371].
Từ những định nghĩa và phân tích trên chúng tôi rút ra những điểm
chính của thể loại truyện ngắn nhƣ sau:
Một là, truyện ngắn là một thể loại tự sự cỡ nhỏ. Nhỏ có nghĩa là từ vài
trang đến vài chục trang, một câu chuyện đƣợc kể nghệ thuật nhƣng không
đƣợc phép kể dài dòng, câu chuyện có sức ám ảnh, nghĩa là tạo ra một ấn
tƣợng duy nhất mạnh mẽ đồng thời tạo liên tƣởng ở ngƣời đọc.
Hai là, tính quy định về dung lƣợng và cốt truyện của truyện ngắn
tập trung vào một vài biến cố, mặt nào đó của đời sống, các sự kiện tập
trung trong một không gian, thời gian nhất định.



13

Ba là, nhân vật truyện ngắn thƣờng đƣợc làm sáng tỏ, thể hiện một
trạng thái tâm thế con ngƣời thời đại.
Bốn là, chi tiết và lời văn là những yếu tố đóng vai trò quan trọng.
Đặc biệt là chi tiết bởi nó có tính biểu tƣợng.
Nhƣ vậy, truyện ngắn là một thể loại đƣợc nhiều nhà văn sử dụng
trong tạo dựng sự nghiệp văn chƣơng của mình. Và chính thể loại truyện ngắn
đã góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng về thể loại của văn học Việt Nam.
1.1.2. Tự sự và nghệ thuật tự sự
1.1.2.1. Khái niệm tự sự
Theo Từ iển thuật ng văn học thì sự tự là “phƣơng thức tái hiện đời
sống bên cạnh hai phƣơng thức khác là trữ tình và kịch đƣợc dùng làm cơ sở
để phân loại tác phẩm văn học” [24, tr.385]. Trần thuật là một phƣơng thức
nghệ thuật đặc trƣng của tác phẩm tự sự.
Còn với Đặng Anh Đào thì “tự sự là một khái niệm rất rộng, có thể xét ở
hai bình diện: thứ nhất là đồng nghĩa với câu chuyện kể, đối lập với miêu tả;
thứ hai là đƣợc xem xét theo hành động kể chuyện, tức bao hàm vấn đề ngƣời
kể chuyện (điểm nhìn, giọng điệu)”. Văn chƣơng vốn đa dạng về loại thể, mỗi
loại thể đều có phƣơng thức biểu đạt khác nhau và những đặc trƣng riêng về
thủ pháp nghệ thuật cũng nhƣ nội dung.“ Khác với tác phẩm trữ tình, hiện
thực đời sống đƣợc tái hiện qua những cảm xúc tâm trạng, ý nghĩ của con
ngƣời, thể hiện trực tiếp qua những lời lẽ bộc bạch, th lộ, tác phẩm tự sự
phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó qua con ngƣời, hành vi, sự
kiện đƣợc kể lại bởi một ngƣời kể chuyện nào đó” [24, tr.375].
Đặc điểm của tác phẩm tự sự là phản ánh hiện thực thông qua các yếu tố
sự kiện biến cố và hành vi con ngƣời; thƣờng có cốt truyện gắn với hệ thống
nhân vật. Loại hình tự sự thể hiện tâm trạng, tƣ tƣởng của chủ thể thông qua
phản ánh hiện thực khách quan, tức là cái chủ quan ẩn đi hoặc hoà vào cái



14

khách quan. Nhà văn phải dùng đến các yếu tố nhƣ sự kiện, nhân vật trong
một thời gian và không gian nghệ thuật nhất định. Chính vì thế truyện phải có
chuyện và nhà văn phải sáng tạo ra hình tƣợng ngƣời kể chuyện, các yếu tố
nghệ thuật khác nhƣ điểm nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu,…làm nên những đặc
trƣng riêng cho loại hình tự sự.
Theo Từ iển thuật ng văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi đồng chủ biên thì: trần thuật là phƣơng diện cơ bản của phƣơng
thức tự sự, là việc giới thiệu khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật,
sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của ngƣời trần thuật. Trần thuật
không chỉ là lời kể mà còn bao hàm cả việc miêu tả đối tƣợng, phân tích hoàn
cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời ghi chú của tác giả… Ngôn
ngữ trần thuật do vậy là nơi bộc lộ ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của nhà
văn, bộc lộ cách lý giải cuộc sống từ cách nhìn riêng và cá tính sáng tạo của
tác giả.
Trong trƣờng hợp tác giả đóng vai trò ngƣời trần thuật, tác phẩm có nhân
vật kể chuyện ở ngôi thứ nhất (first person), xƣng “tôi”. Điều này dễ nhận
thấy ở các tác phẩm tự truyện hoặc có dáng dấp tự truyện. Theo nhà nghiên
cứu Lê Nguyên Cẩn, việc sử dụng ngôi thứ nhất trong tự truyện ở các tác
phẩm văn học thế kỷ XVIII ở phƣơng Tây không phải là sự sử dụng tùy hứng
hay ngẫu nhiên mà nó mang tính lịch sử, gắn liền với nhu cầu khách quan của
thời đại. Đó là yêu cầu các truyện phải là truyện kể về sự thật. từ thế kỉ XIX
về trƣớc thịnh hành kiểu trần thuật khách quan, do một ngƣời trần thuật biết
hết sự việc tiến hành theo ngôi thứ ba, sang thế kỉ XX, có thêm kiểu trần thuật
theo ngôi thứ nhất do một nhân vật trong truyện đảm nhiệm.
Trần thuật là phƣơng diện cấu trúc của tác phẩm tự sự thể hiện mối
quan hệ chủ thể, khách thể trong loại hình nghệ thuật này. Nhà văn kể lại, tả

lại những gì xảy ra bên ngoài mình khiến cho ngƣời đọc có cảm giác rằng


15

hiện thực đƣợc phản ánh trong tác phẩm tự sự là một thế giới tạo hình xác
định đang tự phát triển, tồn tại bên ngoài nhà văn, không phụ thuộc vào tình
cảm, ý muốn của nhà văn.
1.1.2.2. Nghệ thuật tự sự
Nghệ thuật tự sự hay nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm tự sự , theo
giáo sƣ Trần Đình Sử trong

iáo tr nh ẫn luận thi pháp học “là một nghệ

thuật đặc biệt, nó đòi hỏi kể sao cho mỗi lúc hứng thú của ngƣời đọc gia tăng .
Một cốt truyện đơn giản nhất cũng có thể cấu tạo thành các sự kiện nghệ thuật
hấp dẫn. Nhà văn có thể không kể ngay một lúc tất cả mà có thể cấu tạo lại
trật tự câu chuyện theo một ý nghĩa nào đó. Nhà văn đồng thời với việc tạo lại
trật tự hình thức là việc tạo ra nội dung mới, nói đúng hơn là việc khám phá ra
nội dung mới quyết định việc tạo lại hình thức”. Bàn về vấn đề này có nhiều ý
kiến khác nhau tuy nhiên vẫn có điểm thống nhất, trƣớc hết cần chú ý về khái
niệm “nghệ thuật”nói chung. “Nghệ thuật là hình thái đặc thù của ý thức xã
hội và của hoạt động con ngƣời nói chung, một phƣơng thức quan trọng để
con ngƣời chiếm lĩnh các giá trị tinh thần của hiện thực, nhằm mục đích tạo
thành và phát triển các năng lực chiếm lĩnh và cải tạo bản thân và thế giới
xung quanh theo qui luật của cái đẹp”[24, tr.199]. Nhà văn muốn tác phẩm
của mình đƣợc độc giả thƣởng thức với thái độ tích cực thì phải có nghệ thuật
tự sự cho phù hợp. Thông qua tác phẩm nghệ thuật, nhà văn có thể “hình
thành một công chúng biết hiểu nghệ thuật và có năng lực hƣởng thụ vẻ
đẹp”(Mác).

Nói đến nghệ thuật tự sự là nói đến nghệ thuật kể chuyện hay nghệ thuật
trần thuật, một phƣơng thức nhằm làm cho các sự việc, tình tiết trong tác
phẩm đƣợc sống dậy, diễn ra.
Theo Từ iển thuật ng văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi đồng chủ biên thì: “ trần thuật là phƣơng diện cơ bản của phƣơng


16

thức tự sự, là việc giới thiệu khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật,
sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của ngƣời trần thuật. Trần thuật
không chỉ là lời kể mà còn bao hàm cả việc miêu tả đối tƣợng, phân tích hoàn
cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời ghi chú của tác giả…”. Ngôn
ngữ trần thuật do vậy là nơi bộc lộ ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của nhà
văn, bộc lộ cách lý giải cuộc sống từ cách nhìn riêng và cá tính sáng tạo của
tác giả.
Trần thuật là một phƣơng thức nghệ thuật đặc trƣng của tác phẩm tự sự.
Sự trần thuật ở đây đƣợc triển khai trong không gian và thời gian nghệ thuật
đến mức đủ để truyền tải những nội dung cần thiết. Với đặc điểm đó, trần
thuật trong tác phẩm tự sự là một phƣơng diện thi pháp đặc trƣng của thể loại.
Trần thuật tồn tại với nội dung trần thuật và hình thức trần thuật. Trong nội
dung của luận văn, chúng tôi sử dụng quan điểm của Từ iển thuật ng văn
học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên.
1.2. Khái quát về truyện ngắn Việt Nam sau 1986
Từ năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã mở ra một thời kỳ
mới trong lịch sử phát triển của đất nƣớc. Nhìn nhận và đánh giá đúng nghĩa
vai trò của văn hóa, văn nghệ, Đảng đã có những chính sách đ i mới tích cực.
Những chính sách này tạo cơ sở tƣ tƣởng cho xu hƣớng dân chủ hóa và kích
thích văn học phát triển. Sự đ i mới tƣ duy nghệ thuật và mở rộng phạm trù
thẩm mĩ của văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong

phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà
văn đều nhìn cuộc sống và thể hiện bằng một ngôn ngữ riêng. Chính vì vậy,
truyện ngắn phát triển rất mạnh mẽ, gặt hái đƣợc những thành công trên nhiều
phƣơng diện.
1.2.1. Sự phát triển về lực lượng sáng tác truyện ngắn
Nếu nhƣ trong chiến tranh, thơ ca phát triển mạnh mẽ thì sau đ i mới


17

1986 văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng lại chiếm một ƣu thế lớn,
đặc biệt là truyện ngắn thời kỳ 1986 – 2000. Nhìn vào tình hình sáng tác văn
học trên một số tờ báo, tạp chí chuyên ngành văn học, ở các nhà xuất bản có
uy tín, các cuộc thi và các giải thƣởng văn học chúng ta sẽ thấy điều này.
Trong cuốn Văn học Việt N m s u 1975 trang 90 có viết: “Riêng tuần áo
Văn nghệ (Hội nhà văn Việt N m) từ 1975

n 2000 ã t ch c chín cuộc thi

truyện ngắn, út ý, phóng sự và th ”. Các cuộc thi này đã tạo nên phong trào
sáng tác; từ đây phát hiện và bồi dƣỡng nhiều tài năng. Báo Văn nghệ trở
thành cái nôi nuôi dƣỡng nhiều cây bút văn trẻ dần dần đã trở nên thân quen
với độc giả nhƣ Nguyễn Phúc Lai, Nguyễn Khắc Trƣờng, Dạ Ngân, Ngô Thị
Kim Cúc, Tạ Duy Anh, Hoàng Minh Tƣờng, Nhật Tuấn...Tạp chí Văn nghệ
uân ội cũng là một địa chỉ quen thuộc đào tạo nhiều nhà văn – chiến sĩ có
những đóng góp lớn vào nền văn học hiện đại. Thời kỳ kháng chiến chống
Pháp có Nguyễn Đình Thi, Nguyên Ngọc, Hồ Phƣơng...; thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ có Lê Lựu, Nguyễn Trí Huân, Chu Lai, Khuất Quang Thụy,
Nguyễn Bảo... Thêm vào đó còn có một thế hệ nhà văn mới với nhiều tiềm
năng sáng tác nhƣ Nguyễn Thị Thu Huệ, Sƣơng Nguyệt Minh, Y Ban,

Nguyễn Bình Phƣơng, Võ Thị Hảo, Võ Thị Xuân Hà, Phan Thị Vàng
Anh...Đặc biệt là hai cây bút gạo cội, trở thành điểm sáng cho văn xuôi,
truyện ngắn thời kỳ đ i mới là Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp. Sự
xuất hiện của rất nhiều tên tu i nhà văn nhiều thế hệ, quen thân với ngƣời đọc
đã tạo ra một đội ngũ sáng tác đông đảo và hùng hậu. Điều đáng chú ý là hầu
hết trong các cuộc thi và các giải thƣởng văn học đều nằm trong lãnh địa của
văn xuôi, truyện ngắn. Sự chiếm lĩnh ƣu thế này đã cho thấy sự phát triển
mạnh mẽ và vƣợt bậc của thể loại.
1.2.2. Những ổi mới về tư uy nghệ thuật
Đ i mới để phát triển là đòi hỏi tất yếu của bất kỳ một giai đoạn văn học
nào. Hơn ai hết, đội ngũ các nhà văn ở mỗi thế hệ, mỗi thời kỳ đều ý thức


18

đƣợc quy luật tất yếu này và thấy đƣợc tầm quan trọng của nó.
Truyện ngắn Việt Nam sau 1986 đã đánh dấu bƣớc ngoặt bằng những
đ i mới trong thi pháp thể loại. Sự phong phú về hình thức, phong cách và bút
pháp đã mang lại một diện mạo mới. Hầu hết các truyện ngắn đều sử dụng kỹ
thuật hiện đại nhƣ lối kết thúc bỏ ngỏ, nghệ thuật đồng hiện, độc thoại nội
tâm, dòng ý thức, lắp ghép, sử dụng huyền thoại, nghệ thuật giao cách hay đa
giọng điệu...Những năm cuối thế kỷ XX xuất hiện cả loại “truyện ngắn mini”
hàm xúc, cô đọng cả về nội dung lẫn ngôn ngữ nhƣ Nh ng vùng lặng của
Phạm Sông Hồng, những truyện rất ngắn trong cuộc thi do Tạp chí Th gi i t
chức năm 1995. Đó là những tác phẩm có sự kết hợp giữa triết lý và chất thơ,
giữa tƣ tƣởng và tình cảm, giữa hình ảnh thực và biểu tƣợng.
Thời kỳ này, truyện ngắn Việt Nam rất phong phú về các dòng phong
cách và có thể chia tách thành những dòng phong cách chủ yếu bao gồm:
phong cách c điển (ứng với lớp nhà văn nhƣ Nguyễn Thành Long, Nguyên
Ngọc, Nguyễn Kiên, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải...); phong cách trữ tình

(ứng với các nhà văn Nguyễn Bản, Nguyễn Quang Thiều, Võ Thị Hảo, Võ
Thị Xuân Hà, Trần Huyền Trang...); phong cách hiện thực (ứng với các nhà
văn Y Ban, Phạm Ngọc Tiến, Nguyễn Thị Thu Huệ...)
Về hình thức, truyện ngắn khá đa dạng với truyền kỳ hiện đại nhƣ B n
trần gi n của Lƣu Sơn Minh, H i người àn à xóm Trại của Nguyễn Quang
Thiều...; kiểu truyện giả c tích nhƣ Nh ng ngọn gió Hua – tát của Nguyễn
Huy Thiệp...; kiểu truyện ngắn kịch Kịch câm của Phan Thị Vàng Anh, Sang
sông của Nguyễn Huy Thiệp; kiểu truyện ngắn rất ngắn Nh ng vùng lặn,
Nghĩ cử của Phạm Sông Hồng...; kiểu truyện ngắn triết luận nhƣ Sống mãi
v i cây xn h của Nguyễn Minh Châu, Thư ng nh
Huy Thiệp...

ồng quê của Nguyễn


19

Đáng chú ý là sự xuất hiện của yếu tố huyền thoại trong truyện ngắn.
Mặc dù yếu tố này không phải xa lạ với chúng ta bởi nó tồn tại dày đặc trong
văn học dân gian nhƣng sự hiện diện của nó trong truyện ngắn Việt Nam sau
1986 là những thể nghiệm rất thú vị.
Nhƣ vậy, trên cơ sở của xã hội sau đ i mới với những chính sách, đƣờng
lối mở đối với văn hóa – nghệ thuật thì truyện ngắn nói riêng và văn học nói
chung đã có những chuyển biến nhất định. Những thành quả rực rỡ thông qua
đội ngũ sáng tác, thông tuan các tác phẩm xuất sắc làm nên một trong hai thời
kỳ hoàng kim của truyện ngắn Việt Nam thế kỷ XX chính là sự ƣu ái của xã
hội hiện đại với truyện ngắn.
1.2.3. ác huynh hướng cơ

n


Chiến thắng hào hùng năm 1975 đã mở ra một chặng đƣờng phát triển
mới cho dân tộc. Chiến tranh đã lùi vào quá khứ, âm hƣởng của chiến thắng
đã ít nhiều lắng xuống. Chính vì vậy, các sáng tác thời kỳ này đã nhạt dần
chất sử thi, bớt đi không khí hào sảng, anh hùng, thay vào đó là giọng điệu
sâu lắng và đậm chất đời thƣờng. Theo đó, hƣớng khai thác và xây dựng nhân
vật trong truyện ngắn cũng thay đ i. Nếu trong chiến tranh, con ngƣời đƣợc
khai thác thiên về khía cạnh dân tộc, lý tƣởng, chiến trƣờng, hi sinh, cống
hiến...thì trong thời bình, con ngƣời lại đƣợc khai thác ở những khía cạnh đối
lập. Không gian trong các tác phẩm chuyển từ rộng sang hẹp, từ không gian
lịch sử sang không gian đời tƣ, từ chiến trƣờng sang cuộc sống thƣờng nhật.
Cảm hứng của các cây bút cũng thay đ i từ số phận chung của đất nƣớc, dân
tộc tới số phận riêng của mỗi con ngƣời. Tâm thế đối thoại xuất hiện dày đặc
trong các tác phẩm. Điều này chứng tỏ sự xuất hiện của những thang bậc giá
trị, quan niệm khác hoàn toàn trƣớc đó.
Các nhà văn sau 1986 đã có cái nhìn về chiến tranh toàn diện, khái quát,
thẳng thắn và mới mẻ hơn. Họ nhìn nhận chiến tranh với góc độ là biến cố


×