Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn bộ đất đai, Nhà nước có trách nhiệm gì đối với đất đai? Anh (chị) có nhận định gì về thực tiễn thực thi các trách nhiệm của Nhà nước đối với đất đai trong thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.79 KB, 15 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên, là tài sản quốc gia vô cùng quý giá, là tư
liệu sản xuất đặc biệt và là nguồn lực quan trọng của đất nước. Đất là một tư liệu
sản xuất quan trọng và là nền tảng để tạo ra của cải vật chất, như K.Mark đã nói
“đất là mẹ, lao động là cha”. Ngoài ra, đất đai còn là một trong những yếu tố tiên
quyết để hình thành một quốc gia độc lập. Nó không phải là hàng hóa thông thường
mà là một tư liệu sản xuất đặc biệt trong sản xuất và đời sống. Theo pháp luật nước
ta, Nhà nước là người duy nhất có đầy đủ quyền năng của một chủ sở hữu và đất
đai thuộc sở hữu toàn dân. Nền kinh tế Việt Nam vận hành theo mô hình kinh tế thị
trường định hướng XHCN, đòi hỏi chúng ta phải có những chủ trương, chính sách
đất đai đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tiễn. Trong bất kỳ giai đoạn phát triển
nào của xã hội, bên cạnh loại hình sở hữu đặc trưng, thống trị, bao giờ cũng kế thừa
những hình thức sở hữu tàn dư của các phương thức sản xuất trước đó khiến cho
trong cùng một thời gian, ở cùng một nước, luôn cùng tồn tại nhiều loại hình sở
hữu đan xen nhau. Bài viết tập trung luận giải nội hàm và những vấn đề đặt ra về
quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống


nhất quản lý nhằm đề xuất một số khuyến nghị quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu
quả nguồn lực đất đai, bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước. Nhận
thức được tầm quan trọng đó, em xin được lựa chọn làm rõ đề tài số 24:
“Với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn bộ đất đai, Nhà nước có trách nhiệm gì
đối với đất đai? Anh (chị) có nhận định gì về thực tiễn thực thi các trách nhiệm
của Nhà nước đối với đất đai trong thời gian qua”.


NỘI DUNG
I. Trách nhiệm của Nhà nước đối với đất đai.
1. Nhận thức quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại


diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý
C.Mác viết: “Chúng ta đau khổ không những vì sự phát triển của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn đau khổ vì nó phát triển chưa đầy đủ. Ngoài những
tai họa của thời đại hiện nay ra, chúng ta còn chịu đựng cả một loạt những tai họa
kế thừa do các phương thức sản xuất cổ xưa lỗi thời vẫn tiếp tục sống dai dẳng với
những quan hệ chính trị và xã hội trái mùa do chúng đẻ ra”. Đây là phương pháp
luận để xem xét các loại hình sở hữu trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã xác lập chế độ
sở hữu đất đai và có những chủ trương, chính sách đất đai cụ thể phù hợp với từng
giai đoạn lịch sử. Trong thời kỳ trước năm 1959, có 2 hình thức sở hữu về đất đai:
sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân. Giai đoạn 1959 - 1980, tồn tại chủ yếu 3 hình
thức sở hữu về đất đai là Nhà nước, tập thể và tư nhân. Từ năm 1980 đến nay, quy
định một hình thức sở hữu đất đai là sở hữu toàn dân. Sở hữu toàn dân về đất đai ở
nước ta bắt đầu được xác lập từ Hiến pháp 1980, thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, và tiếp tục được khẳng định trong Hiến pháp 1992, thời kỳ kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
Điều 17 Hiến pháp năm 1992 quy định: Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn
nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời,
phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các
ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc
phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều
thuộc sở hữu toàn dân. Điều 18 quy định: Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất
đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.

3


Trong Hiến pháp 1992 đã có một số nội dung mới như: xác định rõ “Nhà
nước giao đất cho tổ chức, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”, trong khi Hiến pháp
1980 chỉ quy định cho “tổ chức và cá nhân được tiếp tục sử dụng và hưởng kết quả

lao động của mình”; mở rộng quyền cho tổ chức, cá nhân có thể chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, trong khi Hiến pháp 1980 chỉ quy định cho họ quyền tiếp tục sử
dụng. Luật đất đai 1993 còn cụ thể hóa thêm thành 6 quyền (chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp, góp vốn) và bổ sung nghĩa vụ của tổ chức, cá
nhân được giao đất là phải nộp tiền sử dụng đất, ngoài đền bù cho người có đất bị
thu hồi.
Những nội dung mới nêu trên thể hiện tư duy kinh tế đổi mới, đặt nền móng
pháp lý chuyển việc quản lý đất từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường. Khẳng
định chế độ sở hữu đất đai toàn dân, Nhà nước thay mặt nhân dân thực hiện quyền
sở hữu và quyền quản lý tối cao. Tuy nhiên, đây không phải là chế độ sở hữu toàn
dân một cấp độ sở hữu - sử dụng như trong Luật Đất đai 1987, mà là chế độ sở hữu
đất đai toàn dân với đa cấp độ và hình thức, chủ thể sử dụng. Với quan niệm về chế
độ sở hữu đất đai này, đất đai được “chủ thể hóa” có các chủ sử dụng cụ thể với các
quyền và nghĩa vụ được luật pháp quy định. Đây là cơ sở để khắc phục tình trạng
“vô chủ” về quan hệ đất đai trước đây. Khẳng định quyền sử dụng đất có giá trị,
được pháp luật và cuộc sống thừa nhận, do đó giá trị của quyền sử dụng đất là một
yếu tố cơ bản trong sự vận động của quan hệ đất đai. Khẳng định quyền sử dụng
đất đai được tham gia trực tiếp vào cơ chế thị trường, là một yếu tố quan trọng hình
thành thị trường bất động sản, một phương diện rất mới của quan hệ đất đai ở nước
ta so với trước đây.
Theo quy định tại Điều 5 Luật Đất đai năm 2003 thì đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Nhà nước thực hiện quyền định đoạt đối
với đất đai như sau: quyết định mục đích sử dụng đất thông qua việc quyết định,
xét duyệt quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất (sau đây gọi chung là quy
4


hoạch, kế hoạch sử dụng đất); quy định về hạn mức giao đất và thời hạn sử dụng
đất; quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất; định giá đất. Qua đó, Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ

đất đai thông qua các chính sách tài chính về đất đai như sau: thu tiền sử dụng đất,
tiền thuê đất; thu thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất;
điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất
mang lại; Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua hình
thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử
dụng đất ổn định, quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
Theo quy định của Luật Đất đai, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
đại diện chủ sở hữu. Nhà nước đại diện giao đất cho hộ gia đình, cá nhân, tổ chức
sử dụng đất ổn định, lâu dài. Như vậy, các chủ thể này không phải là chủ sở hữu đối
với đất đai được giao, mà chỉ là người sử dụng (người có quyền sử dụng đất).
Ngoài các quyền bình thường như chiếm hữu, sử dụng, người sử dụng đất còn có
các quyền khác mang tính định đoạt như: cho thuê, thừa kế, chuyển nhượng, thế
chấp, góp vốn. Như vậy, quyền sử dụng đất mà Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá
nhân, tổ chức không còn là quyền năng bình thường mà trở thành một loại quyền sở
hữu hạn chế, vấn đề này chưa được cụ thể hóa trong Luật Đất đai 2003, nhưng trên
thực tế đã diễn ra như vậy.
Điều 53 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục quy định: Đất đai, tài nguyên nước, tài
nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác
và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Điều 54 quy định: Tổ chức,
cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất.
Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa
vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ, Nhà nước thu
hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật
5


định vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,
công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo
quy định của pháp luật. Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp thật cần thiết do

luật định để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến
tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai. Điều 4 Luật Đất đai năm 2013
tiếp tục quy định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu
và thống nhất quản lý. Điều này thể hiện sự vận dụng sáng tạo, đúng đắn các quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề đất đai vào hoàn cảnh cụ thể của Việt
Nam, sự nhận thức đúng đắn của Đảng ta, bởi đất đai là tài sản cực kỳ quý báu, là
một nguồn lực nội sinh quan trọng để phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam hiện nay. Khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân sẽ bảo đảm
cho thành phần kinh tế nhà nước giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc
dân, trên cơ sở đó giữ được định hướng XHCN. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân tạo
khoản thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc thu tiền sử dụng đất, cho thuê
đất, các loại thuế liên quan đến đất đai và các loại phí, lệ phí quản lý và sử dụng
đất, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành, các thành phần kinh tế và các vùng kinh
tế phát triển, tạo cơ sở điều tiết, phân phối thu nhập, bảo đảm sự vận hành của nền
kinh tế.
Theo Luật Đất đai năm 2013, Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép
người sử dụng đất chuyển mục đích sử dụng đất đều là các hoạt động trao quyền sử
dụng đất từ Nhà nước cho người sử dụng. Việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục
đích sử dụng đất nhằm bảo đảm cho đất đai được phân phối và phân phối lại cho
các đối tượng sử dụng hợp pháp, đúng mục đích mà Nhà nước đã quy định, đạt
hiệu quả cao, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Có thể thấy, quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất là một trong những chế định quan trọng nhất, thể hiện tính đặc
thù của pháp luật đất đai Việt Nam. Chế định này ra đời trên cơ sở chế độ sở hữu
toàn dân về đất đai.
6


2. Trách nhiệm của Nhà nước đối với đất đai.
2.1. Quy định của pháp luật:
Điều 23 Luật đất đai 2013 quy định:

“1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả
nước.
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong
việc thống nhất quản lý nhà nước về đất đai.
Bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm giúp Chính phủ trong quản lý nhà nước về đất đai.
3. Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quản lý nhà nước về đất đai tại
địa phương theo thẩm quyền quy định tại Luật này.“
Ngoài ra, tại Điều 30 Nghị định 46/2014/NĐ-CP có quy định cụ thể về trách
nhiệm của UBND cấp tỉnh trong việc quản lý thu tiền thuê đất như sau:
“1. Ban hành Bảng giá đất, hệ số điều chỉnh giá đất, mức tỷ lệ (%) tính đơn
giá thuê đất, mức thu đối với đất xây dựng công trình ngầm, mức thu đối với đất có
mặt nước và quyết định giá đất cụ thể làm căn cứ tính tiền thuê đất; quyết định đơn
giá thuê mặt nước quy định tại Điều 7 Nghị định này đối với từng dự án cụ thể.
2. Chỉ đạo các cơ quan chức năng khẩn trương hoàn thiện hồ sơ pháp lý về
đất đai đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nhưng chưa có
quyết định cho thuê đất, hợp đồng thuê đất.
3. Chỉ đạo Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện các biện pháp kiểm tra, giám
sát việc sử dụng đất của đối tượng được Nhà nước cho thuê đất, thuê mặt nước và
việc thu nộp tiền thuê đất, thuê mặt nước theo quy định của Nghị định này.
4. Chỉ đạo cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phối hợp
với cơ quan thuế tổ chức thực hiện việc quản lý đối tượng thuê và thu tiền thuê đất,
thuê mặt nước theo quy định của Nghị định này.

7


5. Chỉ đạo kiểm tra và xử lý các trường hợp sai phạm về kê khai và thực hiện
miễn, giảm không đúng đối tượng, chế độ gây thiệt hại cho Nhà nước cũng như
người nộp tiền thuê đất.

6. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về việc thu tiền thuê đất, thuê mặt nước theo
quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.”
2.2. Trách nhiệm cụ thể của các cơ quan, ban ngành các cấp đối đất đai:
- Cơ quan quản lý đất đai
1. Hệ thống tổ chức cơ quan quản lý đất đai được tổ chức thống nhất từ trung
ương đến địa phương.
2. Cơ quan quản lý nhà nước đất đai ở trung ương là Bộ Tài nguyên và Môi
trường.
Cơ quan quản lý đất đai ở địa phương được thành lập ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương và ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; tổ chức dịch vụ
công về đất đai được thành lập và hoạt động theo quy định của Chính phủ.
- Công chức địa chính ở xã, phường, thị trấn
1. Xã, phường, thị trấn có công chức làm công tác địa chính theo quy định
của Luật cán bộ, công chức.
2. Công chức địa chính ở xã, phường, thị trấn có trách nhiệm giúp Ủy ban
nhân dân cấp xã trong việc quản lý đất đai tại địa phương.
- Bảo đảm của Nhà nước đối với người sử dụng đất
1. Bảo hộ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất hợp pháp của người
sử dụng đất.
2. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất cho người sử dụng đất khi có đủ điều kiện theo quy định của
pháp luật.

8


3. Khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh
tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng thì người sử dụng đất được Nhà nước bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định của pháp luật.
4. Có chính sách tạo điều kiện cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm

nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối không có đất sản xuất do quá trình chuyển
đổi cơ cấu sử dụng đất và chuyển đổi cơ cấu kinh tế được đào tạo nghề, chuyển đổi
nghề và tìm kiếm việc làm.
5. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của
Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Trách nhiệm của Nhà nước về đất ở, đất sản xuất nông nghiệp đối với
đồng bào dân tộc thiểu số
1. Có chính sách về đất ở, đất sinh hoạt cộng đồng cho đồng bào dân tộc
thiểu số phù hợp với phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa và điều kiện thực tế của
từng vùng.
2. Có chính sách tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số trực tiếp sản
xuất nông nghiệp ở nông thôn có đất để sản xuất nông nghiệp.
- Trách nhiệm của Nhà nước trong việc xây dựng, cung cấp thông tin đất
đai
1. Xây dựng, quản lý hệ thống thông tin đất đai và bảo đảm quyền tiếp cận
của tổ chức, cá nhân đối với hệ thống thông tin đất đai.
2. Công bố kịp thời, công khai thông tin thuộc hệ thống thông tin đất đai cho
tổ chức, cá nhân, trừ những thông tin thuộc bí mật theo quy định của pháp luật.
3. Thông báo quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản
lý đất đai cho tổ chức, cá nhân bị ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp.

9


4. Cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong quản lý, sử dụng đất đai có
trách nhiệm tạo điều kiện, cung cấp thông tin về đất đai cho tổ chức, cá nhân theo
quy định của pháp luật.
II. Nhận xét thực tiễn thực thi trách nhiệm của Nhà nước đối với đất đai

1. Thực tiễn
Trong thực tế vừa qua có mâu thuẫn về quy định đất đai thuộc sở hữu toàn
dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, nhưng quyền của đại diện chủ sở hữu, nhất
là quyền định đoạt và quyền hưởng lợi từ đất đai chưa được định rõ; trong khi đó,
người được Nhà nước giao đất (người sử dụng) tự coi như người chủ sở hữu, tùy
tiện mua bán, chuyển nhượng. Trên thực tế, Nhà nước phải mặc cả với người sử
dụng đất khi thu hồi đất sử dụng vào các mục đích công cộng và phát triển kinh tế xã hội. Việc thu hồi đất gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp, dẫn đến nhiều vụ khiếu
kiện liên quan đến việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư...
Việc quy định giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với doanh nghiệp, Nhà
nước chủ yếu thực hiện theo cơ chế “xin - cho”. Thực chất là chưa chú trọng các
yếu tố kinh tế của đất đai, chưa thực sự thấy được đất đai là hàng hóa đặc biệt trong
cơ chế thị trường. Từ đó, việc giao đất không thu tiền sử dụng đất cũng tạo điều
kiện cho tham nhũng, hối lộ gia tăng trong khi Nhà nước không thu được thuế cho
ngân sách.
Công tác quản lý và sử dụng đất đai hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, yếu
kém, gây nên nhiều bức xúc. Quản lý nhà nước về đất đai còn nhiều bất cập, quy
hoạch và thực hiện quy hoạch sử dụng đất chưa tốt, nhiều khu công nghiệp, dự án
đầu tư, đất của cơ quan, doanh nghiệp chậm đưa vào khai thác sử dụng, gây lãng
phí lớn. Chấp hành pháp luật đất đai chưa nghiêm, nhất là trong việc thực hiện quy
hoạch, chuyển đổi mục đích và chuyển quyền sử dụng đất. Chậm nghiên cứu lý
luận, tổng kết thực tiễn để làm rõ nhiều vấn đề lý luận về quản lý đất đai trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Việc tháo gỡ các vướng mắc trong xây dựng,
10


thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai cần có những đột phá nhằm ổn định
chính trị - xã hội, thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững.
2. Những hạn chế, yếu kém trên có các nguyên nhân chủ yếu sau:
Chính sách đất đai thay đổi qua nhiều thời kỳ; quản lý đất đai chuyển từ cơ
chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường, làm cho đất đai từ là hiện vật trở

thành nguồn lực, từ đó đặt ra nhiều vấn đề mới nhưng thiếu kiến thức và kinh
nghiệm để xử lý.
Chưa giới định hợp lý, rõ ràng quyền sở hữu toàn dân, quyền quản lý nhà
nước và quyền sử dụng của các tổ chức, cá nhân đối với đất đai; chưa minh định rõ
các quyền và nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm giữa các chủ thể sở hữu, quản lý và
sử dụng. Xác định Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý đối với
đất đai, nhưng chưa xác định rõ vai trò, trách nhiệm đại diện chủ sở hữu của Nhà
nước đối với đất đai, chưa xác định rõ chủ thể cụ thể đại diện chủ sở hữu ở từng
cấp, từng ngành. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng chưa phát huy tốt vai trò của
nhân dân, chưa thực hiện tốt công khai, dân chủ trong việc xây dựng và thực thi
chính sách, pháp luật về đất đai. Từ đó, ở chừng mực nhất định đã biến sở hữu toàn
dân về đất đai trở thành sở hữu danh nghĩa, biến quyền đại diện chủ sở hữu của
Nhà nước trở thành sở hữu hình thức và biến sở hữu đất đai trở thành sở hữu thực
chất của một số cá nhân trực tiếp nắm quyền quản lý, định đoạt đối với đất đai.
Những cá nhân này lợi dụng sơ hở cấu kết với các nhà đầu tư trục lợi, tiêu cực,
tham nhũng, gây bất bình trong nhân dân và dẫn đến khiếu kiện kéo dài.
Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và đô thị hóa, từ một
nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ, đất đai ở cả nông thôn và thành thị được
phân bổ sử dụng phân tán, manh mún, kém hiệu quả, không phù hợp yêu cầu phát
triển sản xuất lớn, hiện đại... Do đó, đòi hỏi cần phải thúc đẩy nhanh quá trình tích
tụ, tập trung và chuyển đổi công năng sử dụng đất trên phạm vi rộng, quy mô lớn.
Mặt khác, Việt Nam thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN, đòi
11


hỏi việc phân bổ đất đai phải phù hợp với cơ chế thị trường và định hướng XHCN
để bảo đảm việc khai thác sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả; nếu tiếp tục duy trì cơ
chế hành chính, tập trung sẽ phát sinh quan liêu, tiêu cực, chuyên quyền; còn buông
lỏng quá trình phân bổ đất đai để diễn ra tự nhiên theo cơ chế thị trường tự điều tiết
thì quá trình tích tụ, tập trung sẽ diễn ra chậm chạp. Hơn nữa, đất đai ở Việt Nam

qua nhiều thời kỳ có sự biến động, xáo trộn lớn, do đó, nếu thừa nhận sở hữu tư
nhân về đất đai sẽ dẫn đến bất ổn chính trị xã hội; tự phát theo cơ chế thị trường tự
do thì sẽ diễn ra chậm và nảy sinh nhiều vấn đề xã hội.
3. Một số khuyến nghị
Để quán triệt quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là người
đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý; nâng cao tinh thần trách nhiệm của tổ
chức và cá nhân, đưa việc quản lý, bảo vệ và sử dụng đất đai vào quy chế chặt chẽ,
khai thác tài nguyên đất hợp lý, hiệu quả, đáp ứng tốt yêu cầu đẩy mạnh CNH,
HĐH, đô thị hóa, phát triển đất nước nhanh và bền vững, cần tập trung thống nhất
một số vấn đề sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật đất đai. Cần phải có văn
bản dưới luật để làm rõ nội hàm chế định “đất đai thuộc SHTD do Nhà nước làm
đại diện chủ sở hữu”, làm rõ hơn nữa quyền và nghĩa vụ của Nhà nước trong lĩnh
vực đất đai. Vấn đề giá đất, chuyển mục đích sử dụng đất cần được Nhà nước quản
lý chặt chẽ, đặc biệt là đất nông nghiệp và đất đô thị vì hai loại đất này có sự biến
động rất lớn trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống quản lý tài chính về đất đai, giá đất. Thuế sử
dụng đất và thuế tài nguyên môi trường cần được triển khai để bảo vệ môi trường
và phát triển bền vững đất nước. Nhà nước hoàn thiện các quy định về bồi thường
và giải phóng mặt bằng. Nhà nước cần điều tiết về tài chính đối với phần giá trị
tăng thêm từ đất mà không do người sử dụng đầu tư.

12


Thứ ba, cần hoàn thiện các quy định về quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất. Quy
hoạch đất đô thị cần được đặc biệt quan tâm khi Luật Quy hoạch đô thị năm 2009
đã có hiệu lực. Nhà nước cần triển khai các công cụ tài chính có hiệu quả cũng như
triển khai xây dựng Luật Đô thị trong thời gian tới, các văn bản về sử dụng không
gian ngầm và nâng cao chất lượng hạ tầng đô thị. Khi giá nhà đất tăng cao, việc sử

dụng quỹ đất công để phục vụ cho dịch vụ công ngày càng cao thì cần điều

13


chỉnh vấn đề thuế. Nhà nước cần sửa đổi các quy định về giao đất, cho thuê đất và
nhà ở cho người thu nhập thấp, thuê mua nhà ở xã hội....
Thứ tư, cần đẩy nhanh tiến độ về cấp Giấy chứng nhận QSDĐ. Đây là một
bảo đảm của Nhà nước đối với NSDĐ với tư cách là đại diện chủ sở hữu. Nhà nước
cần quản lý đất đai theo địa hạt.
Thứ năm, nâng cao trình độ của cán bộ Toà án, thẩm phán trong quá trình
giải quyết tranh chấp đất đai triệt để. Nhà nước nâng cao trình độ cán bộ của
UBND các cấp trong hoạt động quản lý đối với đất đai. Đảng và Nhà nước cần tăng
cường công tác giáo dục pháp luật về đất đai cho cán bộ và nhân dân.
KẾT LUẬN
Chế định về sở hữu đất đai là một chế định quan trọng trong hệ thống pháp
luật Việt Nam và có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của nhân dân cũng như đến
nền kinh tế và an ninh quốc phòng. Do đó, phân định rõ quyền và nghĩa vụ của chủ
sở hữu với quyền và nghĩa vụ của đại diện chủ sở hữu sẽ giúp cho hệ thống pháp
luật về đất đai được rõ ràng, minh bạch, thông quá đó, phát huy quyền làm chủ thực
sự của nhân dân, chứng minh rõ ràng hơn bản chất của nhà nước ta là nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Song song đó, cần có những quy định cụ thể, hợp lý về chủ
thể được quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai với nguyên tắc chỉ có cơ
quan do nhân dân trực tiếp bầu ra (Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp) mới
được quyền đại diện quyền sở hữu của nhân dân về đất đai.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Đất Đai, Trường Đại học Luật Hà Nội, nxb Công An Nhân
Dân năm 2017

2. Luật đất đai năm 2013
3. Hội đồng Lý luận Trung ương: “Tổ chức thực hiện pháp luật đất đai của
cán bộ quản lý nhà nước trên địa bàn cấp huyện ở Việt Nam hiện nay”, chủ nhiệm
của dự án GS, TS Lê Hữu Nghĩa, Hà Nội, năm 2016.
4. “Chế định sở hữu đất đai qua các thời kỳ và giải pháp tăng cường quản lý
nhà nước đối với đất đai”, TS. Doãn Hồng Nhung - Khoa Luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội.
/>5. “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước đại diện chủ sở hữu”, Trần
Vang Phủ - Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ.
/>6. “Quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu và thống nhất quản lý - nhận thức và thực tiễn”, PGS, TS Hoàng Thị Bích
Loan - Viện Kinh tế chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
/>


×