Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Hình tượng người phụ nữ trong văn học viết Việt Nam qua sách Ngữ văn Trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.58 KB, 107 trang )

i
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.....................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề....................................................................................................................3
2.2. Những nghiên cứu về hình tượng người phụ nữ trong sách Ngữ văn Trung học cơ sở. .6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................................7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................................................7
5. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................................8
6. Cấu trúc của luận văn.........................................................................................................8
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT...........................................10
VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ..........................................10
TRONG SÁCH NGỮ VĂN TRUNG HỌC CƠ SỞ............................................................10
1.1. Khái quát về hình tượng nghệ thuật..............................................................................10
1.1.1. Khái niệm hình tượng nghệ thuật...............................................................................10
1.1.2. Đặc trưng của hình tượng nghệ thuật.........................................................................12
1.2. Sự xuất hiện của hình tượng người phụ nữ trong sách Ngữ văn Trung học cơ sở........15
1.2.1. Bộ phận văn học trung đại Việt Nam.........................................................................15
1.2.2. Bộ phận văn học hiện đại Việt Nam...........................................................................18
Tiểu kết.................................................................................................................................19
Chương 2. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN HỌC...................................21
TRUNG ĐẠI VIỆT NAM QUA SÁCH NGỮ VĂN TRUNG HỌC CƠ SỞ......................21
2.1. Hình tượng người phụ nữ nhìn từ ý thức hệ phong kiến...............................................21
2.1.1. Người phụ nữ và chuẩn mực tứ đức...........................................................................21
2.1.2. Người phụ nữ và khát vọng tình yêu..........................................................................31
2.1.3. Người phụ nữ và khát vọng khẳng định bản thân......................................................36
2.2. Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam............................................43
2.2.1. Người phụ nữ và sự bất hạnh trong gia đình..............................................................43
2.2.2. Người phụ nữ và sự bất hạnh ngoài xã hội.................................................................45
2.3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại......................51
2.3.1. Bút pháp ước lệ..........................................................................................................51


2.3.2. Nghệ thuật tạo dựng yếu tố kỳ ảo trong truyện truyền kỳ..........................................54
2.3.3. Nghệ thuật kể chuyện trong truyện Nôm...................................................................57
Tiểu kết.................................................................................................................................61
Chương 3. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN HỌC...................................61
HIỆN ĐẠI VIỆT NAM QUA SÁCH NGỮ VĂN TRUNG HỌC CƠ SỞ...........................61
3.1. Hình tượng người phụ nữ nhìn từ vẻ đẹp mẫu tính.......................................................62
3.1.1. Người phụ nữ: hiện thân của đức hi sinh...................................................................62
3.1.2. Người phụ nữ: hiện thân của tình yêu thương............................................................68
3.2. Hình tượng người phụ nữ thời đại mới.........................................................................73
3.2.1. Người phụ nữ và năng lực phản kháng......................................................................73
3.2.2. Người phụ nữ như là biểu tượng Mẹ Tổ quốc............................................................78
3.3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại........................84
3.3.1. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ....................................................................................84
3.3.2. Nghệ thuật miêu tả chân dung, tính cách...................................................................90
Tiểu kết................................................................................................................................96


ii
KẾT LUẬN..........................................................................................................................98
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................100

PHỤ LỤC


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Đã từ rất lâu người phụ nữ trở thành đề tài phổ biến của của các loại hình
nghệ thuật như văn học, âm nhạc, hội hoạ… Nét đẹp đằm thắm, mặn mà, duyên dáng
của họ đã làm cho giới nghệ sĩ và công chúng phải rung động trái tim yêu và tạo nên

nguồn cảm hứng, sáng tạo nên những tác phẩm bất hủ ca ngợi vẻ đẹp của người phụ
nữ dân tộc. Đặc biệt từ khi nền văn học viết ra đời, hình tượng người phụ nữ đã thực
sự trở thành một đề tài lớn được tập trung khắc họa ở nhiều khía cạnh, phương diện
khác nhau. Trong quá trình phát triển của lịch sử, có nhiều lúc, người phụ nữ phải
chấp nhận bi kịch cay đắng, xót xa với số kiếp bị lệ thuộc, họ không làm chủ được
cuộc đời của mình. Nhưng theo thời gian, người phụ nữ đã vươn lên tự giải phóng
bản thân, dành được quyền tự chủ, khẳng định vị thế là “một nửa thế giới” của mình.
1.2. Dù trong lĩnh vực nào thì người phụ nữ đều có thể là trung tâm của đề
tài nghiên cứu như trong bộ môn tâm lí học, sinh học, chính trị học, xã hội học và
văn học… Ở mỗi môn khoa học, người phụ nữ lại mang những đặc điểm, dấu ấn
của bộ môn, có thể là con người mang nghĩa sinh học, có thể là con người xã hội,
trừu tượng… Trong nghiên cứu văn học, phụ nữ là sản phẩm của nghệ thuật – một
sự sáng tạo đặc biệt mang tính thẩm mĩ sâu sắc. Tiếp cận hình tượng trong dòng
chảy văn học Việt Nam qua từng thời kì, giai đoạn sẽ đem lại cái nhìn khát quát,
toàn diện và sâu sắc về người phụ nữ.


2
1.3. Nhiều tác phẩm viết về đề tài người phụ nữ trong văn học viết Việt Nam
đã trở thành những sáng tạo đỉnh cao, hội tụ cả vẻ đẹp về nội dung lẫn hình thức. Ở
thời kì văn học trung đại, người phụ nữ là một sự kết hợp hài hòa giữa tài- sắc- tâm,
có đức hạnh, có nhan sắc theo tiêu chuẩn tam tòng, tứ đức. Đó là quan niệm thẩm mĩ
đã ăn sâu vào nếp nghĩ của con người trong thời đại ấy. Hình tượng người phụ nữ
trong giai đoạn văn học này chủ yếu xuất thân quý phái, danh gia vọng tộc. Đến Hồ
Xuân Hương, thơ mới có bóng dáng những người phụ nữ bình dân. Tuy nhiên, cuộc
đời người phụ nữ dù là bình dân hay danh gia vọng tộc thì cũng đều đầy rẫy những bẽ
bàng, sóng gió, chẳng mấy ai có được hạnh phúc thực sự. Sang văn học hiện đại, hình
tượng người phụ nữ mang một diện mạo hoàn toàn mới. Họ được giải phóng khỏi
vòng cương tỏa của lễ giáo phong kiến để hòa mình vào công cuộc chung của đất
nước. Khi đất nước chìm trong đêm đen nô lệ, người phụ nữ cũng cùng chịu chung số

phận khổ đau. Khi toàn dân tộc vùng lên đấu tranh, họ cũng dũng cảm xông pha trên
cả mặt trận tiền tuyến lẫn hậu phương. Hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong giai
đoạn này là hình tượng khá trọn vẹn và có tính chất lí tưởng.
1.4. Trong chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở (THCS), những tác phẩm
viết về hình tượng người phụ nữ khá nhiều và cũng là một chủ đề nổi bật ở mọi giai
đoạn văn học từ văn học dân gian đến văn học viết. Có rất nhiều những cây đại thụ
với những tác phẩm văn học lớn viết về hình tượng người phụ nữ được tuyển chọn
vào chương trình như : Nguyễn Du, Nguyễn Dữ, Hồ Xuân Hương, Nguyên Hồng,
Bằng Việt, Nguyễn Minh Châu… Các tác phẩm văn chương viết về người phụ nữ
bao giờ cũng thu hút sự quan tâm đặc biệt cả từ phía độc giả lẫn người nghiên cứu.
1.5. Là một giáo viên Ngữ văn THCS, tôi nhận thấy hình tượng người phụ
nữ trong văn học có vị trí đặc biệt quan trọng trong nội dung giảng dạy và học tập ở
cấp học. Việc nghiên cứu một cách hệ thống về hình tượng người phụ nữ có ý nghĩa
thiết thực trong việc xây dựng các chủ đề dạy học, tạo ra cái nhìn toàn diện về
người phụ nữ trong văn học xưa nay với sự phát triển qua các thời kỳ. Tuy nhiên,
cho tới nay, sự nghiên cứu, tìm hiểu về hình tượng người phụ nữ còn rải rác, chưa
đầy đủ.


3
Từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Hình tượng người phụ nữ trong
văn học viết Việt Nam qua sách Ngữ Văn trung học cơ sở. Thực hiện đề tài này,
chúng tôi hướng đến khái quát cơ sở lí thuyết về hình tượng văn học, từ đó phân tích
những độc đáo ở hình tượng người phụ nữ qua hai thời kỳ văn học trung đại và hiện
đại. Chúng tôi cũng hi vọng đóng góp một cách nhìn mới trong công tác giảng dạy
các tác phẩm văn học về đề tài người phụ nữ trong nhà trường phổ thông nói riêng và
nghiên cứu về hình tượng người phụ nữ trong văn học Việt Nam nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những nghiên cứu về hình tượng người phụ nữ
Hình tượng người phụ nữ không phải là một đề tài mới trong văn học. Có

nhiều đề tài luận văn, khóa luận đã tập trung nghiên cứu về hình tượng người phụ
nữ với những phạm vi khác nhau, vô cùng phong phú.
Hình tượng người phụ nữ trong văn học của các nước trên thế giới nói chung
đã trở thành đối tượng nghiên cứu của các đề tài khoa học ở nhiều cấp khác nhau
như khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ. Có thể kể tới các công trình như “Hình
tượng người phụ nữ trong truyện ngắn Lỗ Tấn” (2013) – khóa luận của Nguyễn Thị
Tú, Đại học Tây Bắc, Sơn La; “Hình tượng người phụ nữ trong một số tiểu thuyết
Kawabata” (2013) – khóa luận của Võ Kim Chọn, Đại học Cần Thơ, Cần Thơ;
“Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại Hàn Quốc qua cái nhìn của nhà
văn nữ” (2012) - Luận văn thạc sĩ của Cao Thị Lan, Đại học Sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh…
Nghiên cứu về hình tượng người phụ nữ trong văn học Việt Nam cũng đã có
một bề dày đáng kể. Một loạt luận văn Thạc sĩ đã lựa chọn nghiên cứu về chủ đề
này như “Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX”
(2012) của Nguyễn Hoàng Thịnh, “Vấn đề thân phận người phụ nữ trong văn học
Việt Nam cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX” (2012) của Nguyễn Trà My, “Tính
nhân văn qua hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết Tự lực Văn Đoàn” (2011)
của Phạm Thanh Tùng, “Hình tượng người phụ nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh
Châu sau 1975” (2011) của Nguyễn Thị Thu Lan…


4
Nguyễn Hoàng Thịnh trong Luận văn thạc sĩ “Hình tượng người phụ nữ
trong thơ trữ tình Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX” (2012), Đại học Sư phạm Thành
phố Hồ Chú Minh đánh giá: “Thay đổi đáng ghi nhận là sự mở rộng nội dung về
phía đời sống, đưa văn học ngày càng gần gũi, gắn bó với quần chúng. Cùng với đó,
các nhân vật nữ cũng xuất hiện trong thơ trữ tình với tần suất ngày một nhiều hơn
theo chiều dọc tiến trình văn học viết (đặc biệt là ở bộ phận thơ Nôm từ nửa sau thế
kỷ XVIII). Người phụ nữ đã xuất hiện trong văn học viết (bao gồm trong thơ trữ
tình) ngay từ những thế kỷ đầu và ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò của

mình, góp phần hoàn chỉnh diện mạo văn học dân tộc” [45;30].
Trong Luận văn thạc sĩ “Vấn đề thân phận người phụ nữ trong văn học Việt
Nam cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX” (2012), Đại học KHXH&NV, Hà Nội, tác
giả Nguyễn Trà My cho rằng: “Trước thế kỷ XVIII, các nhân vật nữ trong thơ xuất
hiện mơ hồ, ngầm ẩn, trong truyện tuy có rõ hơn nhưng tính cách, số phận rập
khuôn dưới góc độ của Nho giáo… Các nhân vật nữ ở giai đoạn này (cuối thế kỷ
XVIII – đầu thế kỷ XIX) lại khác. Họ được đề cao không chỉ ở đức hạnh mà còn tài
năng và sắc đẹp, họ quý trọng tuổi trẻ và tình yêu nhiều hơn là danh tiết” [29;17].
Luận văn thạc sĩ “Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ trong tiểu
thuyết Tự lực Văn Đoàn” (2011) của Phạm Thanh Tùng, Đại học KHXH&NV,
Thành phố Hồ Chí Minh cũng nhìn nhận hình tượng người phụ nữ nhưng chủ yếu ở
góc độ tính nhân văn để thấy được khao khát sống, quyền sống của người phụ nữ
thời hiện đại.
Luận văn thạc sĩ “Hình tượng người phụ nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh
Châu sau năm 1975” (2011) của Nguyễn Thị Thu Lan, Đại học Đà Nẵng khu biệt
đối tượng nghiên cứu hình tượng người phụ nữ trong sáng tác của một tác giả cụ thể
- nhà văn Nguyễn Minh Châu. Tác giả nhận ra rằng: “Bên cạnh hình tượng người
lính với chân dung nối tiếp các thế hệ, người nông dân với bản chất cố hữu được
khắc họa đầy ấn tượng, ngòi bút Nguyễn Minh Châu còn dành nhiều tâm huyết biểu
hiện hình tượng người phụ nữ với những phẩm chất và đức hi sinh cao cả, sâu lắng
vẻ đẹp nhân văn” [23;3].


5
Trong luận án tiến sĩ “Diễn ngôn về giới nữ trong văn học hiện thực xã hội
chủ nghĩa Việt Nam” (2017), Đại học Sư phạm Hà Nội, bên cạnh việc nhận diện văn
học hiện thực xã hội chủ nghĩa như một hệ hình diễn ngôn, phân tích diễn ngôn về
giới nữ trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam như một hệ thống tu từ,
tác giả Nguyễn Thị Vân Anh còn phân tích diễn ngôn về giới nữ nhìn từ hai góc độ
là chiến lược giao tiếp và trật tự diễn ngôn. Tác giả khái quát: “Bước vào địa hạt

văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa, người phụ nữ hiện lên khép kín trong khuôn
khổ vai chức năng - xã hội của mình, bao gồm: vai Mẹ - Chiến sĩ, Mẹ - Tổ quốc,
Chúng con - Anh hùng và Kẻ lầm đường, lạc lối. Mặt nạ ngôn ngữ hay vai diễn
ngôn của nữ giới là người chiến thắng đã được giác ngộ chân lí cao độ. Tuy nhiên,
vai diễn ngôn của người nữ trong khu vực văn học này chỉ đóng vai trò là dàn đồng
ca mang tính chất phụ họa theo phát ngôn chính thống của người lĩnh xướng là nam
giới. Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa cũng có khả năng tạo ra nhiều tiếng nói về
giới nữ song về cơ bản đó là tiếng nói độc điệu, đồng thuận chứ không có sự phân
hóa thành những bè điệu phức tạp. Nhìn một cách khái quát, giới nữ trong bộ phận
văn học này có xu hướng nam hóa đậm nét và bước vào phạm vi diễn ngôn chính
thống như những người anh hùng bất khuất của thời đại. Họ là hậu phương vững tay
súng, chắc tay cày và trở thành điểm tựa vững chắc cho người nam giới nơi tiền
tuyến. Chân dung người phụ nữ ở đây chủ yếu được khắc họa trong vai trò con người
công dân, con người xã hội theo đúng nguyên tắc sáng tác của văn học hiện thực xã
hội chủ nghĩa. Cũng do vậy, các phương diện thuộc về con người đời tư, con người cá
nhân, đặc biệt là bản năng tính dục hay những nỗi bi thương khắc khoải... của họ
thường bị bỏ qua, thậm chí biến thành luật lệ cần kiêng tránh trong diễn ngôn văn
học” [1;147-148].


6
Điểm qua một vài công trình nghiên cứu như vậy, có thể thấy, hình tượng
người phụ nữ trong văn chương đông tây, kim cổ đã trở thành đối tượng phổ biến
của nghiên cứu văn học. Nhìn chung, các đề tài này đều căn cứ vào bối cảnh thời
đại để nhìn nhận, đánh giá người phụ nữ trên các phương diện phẩm chất, tính cách,
số phận và chỉ ra các phương tiện nghệ thuật được sử dụng để khắc họa hình tượng
người phụ nữ. Đây là những gợi mở quan trọng, những hướng tiếp cận phù hợp để
chúng tôi vận dụng trong đề tài nghiên cứu của mình.
2.2. Những nghiên cứu về hình tượng người phụ nữ trong sách Ngữ văn Trung học
cơ sở

Trong các công trình nghiên cứu về hình tượng người phụ nữ trong văn học
Việt Nam, chúng tôi nhân thấy, các tác giả cũng đã ít nhiều đề cập tới những tác
phẩm, hình tượng đi vào chương trình giáo dục phổ thông nói chung và sách Ngữ
văn THCS nói riêng.
Ở Luận văn “Hình tượng người phụ nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh
Châu sau năm 1975” (2011), tuy phạm vi nghiên cứu là sáng tác của Nguyễn Minh
Châu nói chung nhưng Nguyễn Thị Thu Lan cũng đề cập tới hình tượng nhân vật
Liên trong tác phẩm “Bến quê” như là biểu tượng của lòng chung thủy. Đức tính
truyền thống tốt đẹp ấy trở thành bến đỗ bình yên cho biết bao gia đình, tạo nên nét
đặc trưng của cuộc sống và tâm hồn Việt.
Nguyễn Thị Vân Anh trong Luận án Tiến sĩ của mình đã nhận ra: “ trong
văn học trung đại, có không ít trường hợp nữ giới bước ra khỏi không gian buồng
khuê để nhập vào không gian xã hội. Thực chất, đa phần họ không chủ động bước
ra mà là bị hoàn cảnh xô đẩy. Do vậy, khi ra ngoài cánh cửa khuê phòng, họ
thường bị rơi vào không gian lưu lạc - thời gian đằng đẵng, cắt chia. Họ phiêu dạt
đến những nơi như đầu cầu, đầu quán, lầu xanh... sống kiếp phong trần và trở
thành nạn nhân bi kịch. Có thể thấy rõ đặc điểm này qua số phận của một số nhân
vật tiêu biểu như Đào Hàn Than trong Nghiệp oan của Đào Thị (Nguyễn Dữ), Lệ
Nương trong Truyện Lệ Nương (Nguyễn Dữ), Thúy Kiều trong Truyện Kiều
(Nguyễn Du)” [1;114-115].
Chúng tôi nhận thấy, cho đến nay, chưa có công trình nào tập trung nghiên
cứu một cách hệ thống, toàn diện về hình tượng người phụ nữ trong văn học viết


7
Việt Nam qua chương trình Ngữ văn trung học cơ sở. Rải rác trên các nguồn tài
liệu chỉ có một số bài viết tản mạn dưới dạng bài văn của học sinh hoặc các
chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi, các sáng kiến kinh nghiệm mang quy mô nhỏ
của các thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn. Luận văn của chúng tôi lần
đầu tiên nghiên cứu hệ thống, toàn diện về vấn đề này. Các công trình nghiên cứu

đi trước là những gợi dẫn quý báu để chúng tôi triển khai đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở khái quát lý thuyết về hình tượng văn học, đề tài hướng tới xác
định các đặc điểm của hình tượng người phụ nữ Việt Nam được phản ánh trong các
tác phẩm văn học Việt Nam thời kỳ trung đại và hiện đại được lựa chọn đưa vào
Sách giáo khoa Ngữ văn THCS. Từ đó, chúng tôi chỉ ra sự vận động, phát triển của
hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong bối cảnh xã hội xưa và nay.
Để đạt được mục đích này, đề tài giải quyết ba nhiệm vụ cơ bản sau:
Thứ nhất, làm rõ một số khái niệm và vấn đề văn học sử có liên quan đến đề tài.
Thứ hai, khảo sát và hệ thống hóa các tác phẩm viết về hình tượng người phụ
nữ trong văn học viết Việt Nam qua chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở với hai
bộ phận: văn học trung đại và văn học hiện đại.
Thứ ba, phân tích các đặc điểm của người phụ nữ trong từng thời kỳ cũng
như thấy được các hình thức nghệ thuật phản ánh hình tượng ở mỗi thời kỳ văn học.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hình tượng người phụ nữ trong văn học viết
Việt Nam qua chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn dựa trên bộ Sách giáo khoa lớp 6, lớp 7, lớp 8, lớp 9 của NXB
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2014 để khảo sát và tìm hiểu hình tượng người phụ nữ.
Trong quá trình tiến hành khảo sát, chúng tôi sẽ so sánh với các tác giả, tác phẩm
khác viết về người phụ nữ nằm ngoài chương trình Sách giáo khoa để có cái nhìn
toàn diện hơn.


8
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, khi thực hiện đề
tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

Phương pháp lịch sử - xã hội: Tìm hiểu về quá trình hình thành và phát triển
của văn học Việt Nam qua các thời kỳ, đồng thời tìm hiểu, đánh giá về các tác phẩm
viết về người phụ nữ trong sách Ngữ văn Trung học cơ sở. Qua đó xem xét ảnh
hưởng của thời đại đến hình tượng nhân vật trong từng giai đoạn văn học.
Phương pháp hệ thống: Đặt các tác phẩm nghiên cứu vào hệ thống, tiến trình
văn học để làm nổi bật những đặc điểm chung của hình tượng.
Phương pháp tổng hợp: Sưu tầm và tìm hiểu các tác phẩm khác trong mối tương
quan thời đại để có cái nhìn chính xác, đầy đủ về hình tượng nhân vật.
Phương pháp so sánh: tạo ra tương quan so sánh nhằm chỉ ra sự tiếp nối
cũng như những sáng tạo mới mẻ riêng biệt của đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp liên ngành, vận dụng hiệu quả các môn khoa học liên ngành
(lịch sử học, văn hóa học…) nhằm giúp cho vấn đề được nhìn nhận bao quát và
chính xác hơn.
Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp này không tách rời mà bổ sung
cho nhau để làm sáng tỏ vấn đề được đặt ra.

6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn gồm
ba chương:


9
Chương I: Khái quát về hình tượng nghệ thuật và sự xuất hiện của hình
tượng người phụ nữ trong sách Ngữ văn Trung học cơ sở.
Chương II: Hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại qua sách Ngữ
văn Trung học cơ sở
Chương III: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại qua sách Ngữ
văn Trung học cơ sở



10
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT
VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG SÁCH NGỮ VĂN TRUNG HỌC CƠ SỞ

1.1. Khái quát về hình tượng nghệ thuật
1.1.1. Khái niệm hình tượng nghệ thuật
Hình tượng nghệ thuật là một thuật ngữ quan trọng, quen thuộc của lí luận
văn học. Khái niệm này xuất hiện lần đầu tiên cách đây hơn 2000 năm. Từ thời Hi
Lạp cổ đại, các nhà triết học đã bàn đến hình tượng. Platon, Aristotle quan niệm
hình tượng nghệ thuật là cách mô phỏng thế giới khách quan. Họ gọi nghệ thuật là
sự mô phỏng tự nhiên và xã hội. Các loại hình nghệ thuật có khả năng tái tạo lại các
hiện tượng riêng lẻ trong thế giới thực tại.
Tư tưởng của Aristotle tiếp tục được kế thừa ở các giai đoạn sau của nghệ
thuật phương Tây. Trải qua các thời kỳ từ trung cổ đến cận hiện đại với nhiều
trường phái như Rômăng, Gôtíc, Cổ điển, Barốc, Lãng mạn, Hiện thực, Tự nhiên,
Ấn tượng… nghệ thuật chính thống luôn đề cao nguyên tắc “giống như thật” của
hình tượng nghệ thuật theo tinh thần của Aristotle.
Sau này, Hegel – nhà triết học người Đức chia nhận thức của con người
thành ba nhóm: triết học, tôn giáo và nghệ thuật, trong đó, triết học nhận thức thông
qua khái niệm, tôn giáo nhận thức thông qua biểu tượng còn nghệ thuật nhận thức
thông qua hình tượng. Hegel đã phản đối quan niệm của Aristotle, phản đối nghệ
thuật sao chép, làm giống như thật các đối tượng của tự nhiên. Với Hegel, hình
tượng văn học để cho con người thể nghiệm một ý niệm phổ quát về tinh thần.
Còn Bêlinxki – nhà phê bình Nga thì phân biệt cụ thể hơn. Theo Bêlinxki,
nhà triết học nói bằng phép tam đoạn luận, nhà kinh tế chính trị được võ trang bằng
các số liệu thống kê tác động đến trí tuệ của người đọc và người nghe, còn nhà thơ
thì nói bằng các hình tượng và bức tranh…



11
Điểm qua một vài quan niệm như vậy, chúng ta có thể thấy, khái niệm hình
tượng đã xuất hiện từ xa xưa. Tuy các quan niệm bắt nguồn từ những góc nhìn khác
nhau, thể hiện những quan điểm khác nhau, chưa đồng nhất, song tất cả đều thừa
nhận phương thức phản ánh đặc thù của nghệ thuật đó là hình tượng.
Có nhiều quan niệm về hình tượng nghệ thuật. Có thể điểm qua một vài quan
niệm tiêu biểu như sau:
Theo GS. Nguyễn Văn Hạnh: “Văn chương, nghệ thuật nhận thức và tái hiện
cuộc sống bằng hình tượng, tức là một cách sinh động, cụ thể - cảm tính, có hình
khối, đường nét, màu sắc, âm thanh, chứ không phải một cách trừu tượng, bằng khái
niệm như trong khoa học” [14;7].
Theo Lại Nguyên Ân, hình tượng nghệ thuật là “phương thức chiếm lĩnh và
tái tạo hiện thực riêng biệt, vốn có và chỉ có ở nghệ thuật. Bất cứ hiện tượng nào
được xây dựng lại một cách sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật đều là hình tượng
nghệ thuật; thông thường và quan trọng nhất là hình tượng con người (hình tượng
nhân vật)” [3;141]. Ngoài ra, Lại Nguyên Ân còn đề cập tới một khái niệm nhỏ hơn
là hình tượng văn học, đó là: “dạng hình tượng nghệ thuật thể hiện bằng chất liệu
ngôn từ nghệ thuật; cũng gọi là hình tượng ngôn từ” [3;149].
Theo PGS.TS. Trần Khánh Thành: “Hình tượng là phương tiện đặc thù của
nghệ thuật để phản ánh hiện thực khách quan. Hình tượng nghệ thuật phản ánh tính
khái quát, tính quy luật của hiện thực qua hình thức cái cá thể, độc đáo; nó là sản
phẩm sáng tạo của nghệ sĩ, là đứa con tinh thần của nghệ sĩ trong quá trình nhận
thức và tái hiện cuộc sống” [28;27].
GS. Trần Đình Sử cho rằng “Đằng sau văn còn cả một thế giới hình tượng.
Đó là hệ thống các hình tượng được dệt nên bởi các chi tiết, tình tiết, quan hệ, cho
phép ta hình dung được sự hiểu biết và cảm nhận của tác giả đối với thế giới và con
người” [36;104]. “Hình tượng nghệ thuật là nền tảng của ý thức nghệ thuật, là phạm
vi hoạt động thẩm mỹ của con người. Hình tượng nghệ thuật là cái tính chất làm
cho tác phẩm trở thành tác phẩm nghệ thuật” [38;57]



12
Theo Giáo trình lí luận văn học “Kết quả của quá trình tư duy nghệ thuật đầy
sáng tạo là xuất hiện một hình tượng nghệ thuật dưới dạng một tác phẩm. Hình
tượng trong tác phẩm tách khỏi hoạt động tinh thần của nhà văn đã tồn tại như một
sự thực văn hóa xã hội” [28;138].
Như vậy, có thể thấy hình tượng nghệ thuật là một vấn đề đặc biệt quan trọng
trong lí luận văn học được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm lí giải, làm rõ. Căn cứ
vào các khái niệm trên, có thể thấy:
- Phạm trù hình tượng là một phạm trù mang tính khái quát phản ánh tính hệ
thống của các khái niệm, phạm trù qui luật về đặc trưng thẩm mỹ của nghệ thuật. Vì
tất cả những lý giải về nghệ thuật đều xuất phát từ vấn đề hình tượng.
- Hiểu theo nghĩa rộng, hình tượng nghệ thuật là phương thức phản ánh đời
sống đặc thù của tất cả các loại hình nghệ thuật. Phương thức phản ánh này là cơ sở
để phân biệt nghệ thuật với khoa học và các hình thức ý thức xã hội khác. Theo
nghĩa hẹp, khái niệm hình tượng được hiểu là hình tượng cụ thể về một con người,
một tập thể người, một con vật, đồ vật hay một cảnh sắc thiên nhiên, một cảnh sinh
hoạt lao động thường ngày… trong một tác phẩm cụ thể. Đi vào tác phẩm nghệ
thuật, tất cả các yếu tố chuyển tải những quan niệm sống, những trải nghiệm cuộc
đời, những triết lý nhân sinh đều có khả năng trở thành hình tượng.
Có thể khẳng định, lí luận về hình tượng sẽ giúp người đọc nhận diện được
những phương diện hiện thực mà nhà văn phản ánh trong tác phẩm, đồng thời thấy
được chiều sâu tư tưởng, tình cảm trong mỗi người nghệ sỹ. Đến với tác phẩm nghệ
thuật, độc giả một mặt được thưởng thức cái đẹp, được tiếp cận với nguồn tri thức
rộng lớn của nhân loại, mặt khác được tiếp nhận những chân lí về đời sống thông
qua hình tượng nghệ thuật.
1.1.2. Đặc trưng của hình tượng nghệ thuật
Về cơ bản, hình tượng nghệ thuật có ba đặc trưng cơ bản như sau:
Thứ nhất, hình tượng nghệ thuật có sự thống nhất biện chứng giữa khách
quan và chủ quan



13
Hình tượng nghệ thuật trước hết phải xuất phát từ đời sống khách quan.
Trước đây, có không ít quan niệm cho rằng nghệ thuật bắt nguồn từ thần thánh, kì
bí, siêu hình. Con người nhờ có thần mách bảo, thần nhập mới có thể sáng tác ra các
tác phẩm nghệ thuật, chứa đựng những hình tượng nghệ thuật đặc sắc. Tuy nhiên,
cùng với thời gian, sự phát triển trong tư duy nhận thức của loài người đã khẳng
định, nghệ thuật, hình tượng nghệ thuật được nảy nở, bắt nguồn từ chính mảnh đất
hiện thực đời sống. Ở bất cứ thời kỳ nào, nghệ thuật bao giờ cũng đi liền với đời
thực, cũng bám sát vào các vấn đề của đời sống. Mỗi nền văn nghệ đều hình thành
trên một bối cảnh hiện thực nhất định. Ngay cả những xu hướng sáng tạo tưởng
chừng đoạn tuyệt với nền tảng hiện thực như tượng trưng, siêu thực, huyền ảo…
suy cho cùng vẫn không cắt đứt hoàn toàn sợi dây liên hệ với những nhịp đập của
thời đại.
Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, hình tượng nghệ thuật không đơn thuần là
sự tái hiện máy móc những hiện tượng có thật trong đời sống. Thông qua lăng kính
chủ quan, thông qua bộ lọc của người nghệ sĩ, các vấn đề của đời sống được chọn
lọc, sáng tạo để trở thành hiện thực thứ hai trong tác phẩm nghệ thuật. Người nghệ
sỹ không rập khuôn một cách máy móc đối tượng mô tả mà phải nói lên được
những nét bản chất nhất, qua đó khái quát được những quy luật của đời sống. Bằng
tài năng của mình, nghệ sỹ có khả năng biến những sự vật nhỏ bé, thậm chí là tầm
thường trong đời sống trở thành các hình tượng nghệ thuật đặc sắc, tạo ra những tác
động thẩm mĩ mạnh mẽ đến người tiếp nhận.
Nghệ thuật còn là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Dấu ấn chủ
quan của người nghệ sỹ thể hiện trong cách tiếp cận hiện thức, cách phát hiện vấn
đề và phương thức chuyển tải tư tưởng tình cảm qua hình tượng. Vì thế, mỗi hình
tượng nghệ thuật là một sản phẩm “duy nhất”, không lặp lại, mang tính cá nhân,
mang tính thẩm mỹ và khái quát hóa cao.
Như vậy, trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, người nghệ sĩ không thoát ly

hiện thực mà bằng cách này hay cách khác sẽ tái tạo hiện thực và thể hiện tình cảm
chủ quan đối với hiện thực ấy. Hình tượng nghệ thuật chính là phương tiện, là cách
thức để nghệ sĩ tái hiện đời sống và thể hiện tư tưởng chủ quan của mình.


14
Thứ hai, hình tượng nghệ thuật là một chỉnh thể có sự thống nhất giữa tính
cụ thể và tính khái quát
Tính cụ thể trực tiếp là một đặc trưng quan trọng của hình tượng nghệ thuật.
Trong thực tế, mỗi sự vật, hiện tượng là một cá thể độc lập, cụ thể. Tất cả đều tồn
tại ở dạng riêng biệt. Con người cũng không là ngoại lệ. Mỗi cá nhân là một tồn tại
cụ thể, không lặp lại. Do đó, sự phản ánh của nghệ thuật đối với các đối tượng trên
phải mang tính cụ thể, đúng với đối tượng. Thêm nữa, nếu các ngành khoa học phản
ánh hiện thực cuộc sống bằng các khái niệm, các tiền đề, định lí hoặc công thức thì
nghệ thuật phản ánh bằng hình tượng cụ thể. Nếu qua hình thức phản ánh của khoa
học ta thấy được cái chung, cái phổ quát chứ không hình dung được cụ thể cuộc
sống một cách cảm tính thì trong nghệ thuật, chúng ta như được gặp gỡ với những
con người, những tính cách, số phận riêng biệt, cụ thể.
Tuy nhiên, tính cụ thể không tách rời tính khái quát. Không chỉ là những tồn
tại độc lập, riêng rẽ, mỗi sự vật, hiện tượng còn là một bộ phận trong chỉnh thể, liên
hệ với các sự vật, hiện tượng khác. Vì vậy, mỗi sự vật, hiện tượng đều có sự thống
nhất giữa cái chung và cái riêng. Nó vừa mang dấu hiệu chung, nét bản chất chung
của các hiện tượng, cùng loại, vừa có những dấu hiệu cụ thể, cá biệt, không lặp lại ở
bất cứ đối tượng nào. Do vậy, người nghệ sỹ một mặt phải biết nắm bắt những nét
chủ yếu thuộc về bản chất của sự vật, hiện tượng, mặt khác, phải khái quát hóa
thành những quy luật, những nét chung của đời sống xã hội. Nhờ sự thống nhất giữa
tính cụ thể và tính khái quát, hình tượng nghệ thuật có khả năng tái hiện đời sống
vừa có tính độc đáo, vừa có tính đại diện.
Thứ ba, hình tượng nghệ thuật có sự thống nhất giữa tính tạo hình và tính
biểu hiện.



15
Tính tạo hình là một phẩm chất không thể thiếu được của hình tượng. Tạo
hình tức là tạo cho hình tượng một không gian, thời gian, đặt hình tượng vào những
sự kiện và những mối quan hệ khác nhau. Nhờ có tính tạo hình mà hình tượng được
hiện lên cụ thể qua chất liệu. Tạo hình chính là phương tiện để biến cái vô hình
thành cái hữu hình, biến cái trừu tượng thành cái cụ thể, tri giác được. Không có tạo
hình thì không có hình tượng. Nhưng tạo hình nghệ thuật không có nghĩa là kể lể
mọi chi tiết của đối tượng mà người nghệ sỹ chỉ chọn lọc những chi tiết ít ỏi nhất
nhưng giàu sức biểu hiện nhất, tiêu biểu nhất cho một cuộc sống, một tình huống
hay một tính cách. Có thể nói, tạo hình trong nghệ thuật là một cấu tạo tập trung,
dồn nén, mang tính ước lệ ở các mức độ khác nhau.
Tạo hình không tách rời với biểu hiện. Biểu hiện là khả năng bộc lộ cái sâu
kín bên trong, cái bản chất của sự vật, hé mở những nỗi niềm khuất lấp trong tâm
hồn. Biểu hiện khiến cho hình tượng được toàn vẹn, đầy đặn, thể hiện được chiều
sâu khôn cùng không nói hết của con người cũng như của chính người nghệ sỹ
trước cuộc sóng.
Sự thống nhất giữa tính tạo hình và tính biểu biện làm cho hình tượng có một
hình thức nghệ thuật độc đáo. Đó là một thể thống nhất sinh động giữa thống nhất
và đa dạng, giữa bên ngoài và bên trong, ổn định và biến hóa.
Ngoài ra, có nhiều quan điểm khác về đặc trưng của hình tượng như hình
tượng mang tính ước lệ, tính đa nghĩa, tính nghệ thuật… Tuy nhiên, trong đề tài này,
chúng tôi chỉ cố gắng khắc họa những nét đặc trưng cơ bản nhất, mang ý nghĩa khái
quát nhất của hình tượng, từ đó làm cơ sở, tiền đề để tiếp cận hình tượng người phụ
nữ trong văn học viết Việt Nam một cách khoa học, toàn diện.
1.2. Sự xuất hiện của hình tượng người phụ nữ trong sách Ngữ văn Trung học
cơ sở
1.2.1. Bộ phận văn học trung đại Việt Nam
Là sản phẩm của hình thái ý thức xã hội, văn học trung đại Việt Nam trong từng

giai đoạn lịch sử đã xây dựng những hình tượng nghệ thuật con người riêng. Theo các
nhà nghiên cứu, văn học trung đại Việt Nam phát triển qua bốn giai đoạn lớn.


16
Giai đoạn đầu của văn học trung đại bắt đầu từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV. Từ
cuối thế kỉ X, dân tộc ta giành được quyền độc lập tự chủ và lập nhiều kì tích trong
các cuộc kháng chiến chống xâm lược chống quân Tống thế kỉ XI, chông quân
Mông – Nguyên thế kỉ XIII. Đây là thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến Việt
Nam. Hình tượng con người nổi bật trong giai đoạn văn học này là con người sử thi,
mang tầm vóc của người anh hùng với đầy chiến công lẫy lừng, với những phẩm
chất, khí thế chung của cả thời đại. Không chỉ có vậy, trong văn học còn xuất hiện
hình tượng con người trí thức biết giữ khí tiết, mang phong thái của những hiền sĩ,
ẩn sĩ thoát tục, lánh đời. Điều đáng chú ý là trong giai đoạn này, tuyệt nhiên không
có sự xuất hiện của hình tượng người phụ nữ. Thời kỳ phong kiến phát triển, hệ tư
tưởng Nho giáo giữ vai trò chủ đạo, độc tôn nên vai trò của người phụ nữ hoàn toàn
mờ nhạt. Người phụ nữ không phải là đối tượng mô tả của văn học.
Từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII, dân tộc Việt Nam tiếp tục làm nên nhiều kì
tích: đầu thế kỷ XV là thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, cuối thế
kỷ này là sự phát triển tới đỉnh cao cực thịnh của chế độ phong kiến. Bước sang thế
kỉ XVI, chế độ phong kiến tuy bắt đầu có những dấu hiệu khủng hoảng nhưng nhìn
chung tình hình xã hội vẫn ổn định. Bên cạnh hình tượng con người quan phương,
con người lí trí theo khuôn mẫu của Nho gia, văn học giai đoạn này đã bắt đầu xuất
hiện những hình tượng phụ nữ đầu tiên. Đó chính là trường hợp Truyền kì mạn lục
của Nguyễn Dữ, mà Chuyện người con gái Nam Xương trong sách Ngữ văn lớp 9
với nhân vật Vũ Nương là tiêu biểu.


17
Giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX, chế độ phong kiến có

nhiều biến động và dần đi vào suy thoái, khủng hoảng. Hệ tư tưởng Nho giáo dần
trở nên lỗi thời, không bắt kịp với sự phát triển của thời đại. Ý thức thị dân bắt đầu
phát triển, làm nảy sinh tư tưởng tự do, hưởng lạc. Đây là giai đoạn văn học phát
triển rực rỡ nhất trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam. Hình tượng con người
được khám phá từ góc độ con người trần tục, con người tài, sắc, con người thân
phận… chứ không còn là con người của đạo lí, của lễ nghĩa... Đặc biệt, giai đoạn
này đánh dấu sự phát triển nở rộ của hình tượng người phụ nữ trong văn học. Sự
thay đổi trong quan niệm văn học từ “ngôn chí” sang “ngôn tình”, sự cởi trói tư
tưởng Nho gia cổ hủ, lạc hậu đã khiến người nghệ sỹ nhận thức vẻ đẹp cũng như
thấm thía về số phận, tình cảnh của người phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ. Nhiều
đỉnh cao văn học giai đoạn này xoay quanh hình tượng người phụ nữ, đó là người
chinh phụ cô đơn vò võ đợi chồng với niềm khao khát hạnh phúc mỏi mòn trong
thơ Đặng Trần Côn, là người phụ nữ tài năng, cá tính, cô đơn trong thơ Hồ Xuân
Hương, là người con gái “tài tình chi lắm cho trời đất ghen” trong thơ Nguyễn Du…
Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam.
Nhân dân cả nước kiên cường bất khuất dứng lên chống giặc ngoại xâm. Xã hội
Việt Nam chuyển dần từ xã hội phong kiến sang thực dân nửa phong kiến. Văn hoá
phương Tây bắt đầu có những ảnh hưởng tới đời sống xã hội Việt Nam. Biến động
của thời đại khiến hình tượng người phụ nữ lại vắng bóng trong văn học, nhường
chỗ cho hình tượng của người anh hùng, người nông dân khởi nghĩa, người trí thức
thất thế, đau đời. Trong giai đoạn này, ta thấy xuất hiện duy nhất hình tượng người
phụ nữ qua nhân vật Kiều Nguyệt Nga trong Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình
Chiểu.
Như thế, sơ khảo qua các giai đoạn văn học trung đại Việt Nam, chúng tôi
nhận thấy chương trình sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở đã lựa chọn, giới
thiệu cho học sinh những tác giả, tác phẩm tiêu biểu nhất viết về hình tượng người
phụ nữ trong văn học. Việc tìm hiểu về hình tượng người phụ nữ sẽ là một cơ sở
quan trọng góp phần giúp ta nhận diện được đặc điểm, hành trình của cả một nền
văn học.



18
1.2.2. Bộ phận văn học hiện đại Việt Nam
Bước sang thời kì hiện đại, những tư tưởng tích cực, tiến bộ của văn minh
phương Tây đã dần thay thế cho tư tưởng lạc hậu, lỗi thời của Nho giáo. Vị trí, vai
trò của người phụ nữ trong xã hội cũng có sự thay đổi tích cực. Người phụ nữ
không còn bị bó hẹp cuộc sống của mình trong phạm vi gia đình mà đã có thể khẳng
định tiếng nói trong nhiều lĩnh vực ngoài xã hội.
Trước hết, người phụ nữ tiếp tục khẳng định được vai trò quan trọng của
mình trong gia đình. Như là một thiên chức, người phụ nữ được sinh ra để “thắp
lửa”, “giữ lửa” trong mỗi tổ ấm. Bên cạnh đó, người phụ nữ trong xã hội hiện đại đã
biết nâng giá trị, dần khẳng định mình trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống. Khi
có áp bức, bất công, người phụ nữ sẵn sàng vùng lên chống trả. Khi có kẻ thù xâm
lược, người phụ nữ không chỉ “ở nhà nuôi cái cùng con” mà còn tham gia trực tiếp
chiến đấu “ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh” (Nguyễn Khoa Điềm). Họ quả
cảm, phi thường, trở thành những nữ anh hùng trong trận mạc. Khi đất nước độc
lập, thống nhất, người phụ nữ lại có những đóng góp quan trọng trong công cuộc
xây dựng đất nước.
Bám sát những chặng đường phát triển của lịch sử, văn chương thời hiện đại
cũng có những bước chuyển mình lớn. Đầu thế kỉ XX, xã hội Việt Nam có sự thay
đổi, biến chuyển sâu sắc do ảnh hưởng của văn minh phương Tây. Cuộc xâm lược
của thực dân Pháp kéo theo sự phát triển, mở mang của các đô thị, các tầng lớp mới
được hình thành, chữ quốc ngữ thay thế cho chữ Hán và chữ Nôm, nghề in, báo chí
ra đời và phát triển mạnh mẽ… Văn học Việt Nam vì thế thoát ra khỏi những
nguyên tắc sáng tác của văn học trung đại để vận động theo xu hướng hiện đại hóa.
Từ Cách mạng tháng Tám năm 1945, văn học tiếp tục có bước phát triển tích cực.
Cuộc cách mạng vĩ đại của dân tộc đã mở ra một kỉ nguyên mới trên đất nước ta,
khai sinh ra một nền văn học mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, văn học phát triển
theo hướng đại chúng hóa. Văn học sát cánh cùng dân tộc trong suốt 30 năm kháng
chiến bảo vệ Tổ quốc. Sau năm 1975, hòa bình lập lại, văn học lại đồng hành với

những vấn đề ngổn ngang, bề bộn của cuộc sống đương đại.


19
Xuyên suốt các giai đoạn sáng tác của văn học hiện đại, ta luôn thấy bóng
dáng của người phụ nữ qua mỗi trang văn. Nếu ở các tác phẩm văn học trung đại
trong sách Ngữ văn Trung học cơ sở có 6 tác phẩm viết về hình tượng người phụ nữ
thì có 12 tác phẩm văn học hiện đại xuất hiện hình tượng người phụ nữ. Tỉ lệ vượt
trội ấy chứng tỏ, trong văn học hiện đại, hình tượng người phụ nữ được quan tâm
nhiều hơn, xứng đáng với vai trò, vị trí quan trọng của họ trong cuộc sống hôm nay.
Không chỉ có vậy, nếu trong văn học trung đại, người phụ nữ chỉ xuất hiện ở một
đối tượng duy nhất – người phụ nữ đứng trước ngưỡng của của tình yêu, hôn nhân,
hạnh phúc thì trong văn học hiện đại, ta bắt gặp đủ các khuôn mặt phụ nữ. Thống kê
trong chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở, ở mảng văn học hiện đại, chúng tôi
nhận diện các khuôn mặt phụ nữ như sau:
- Khuôn mặt người vợ, người mẹ, người bà trong gia đình: Đó là những
người mẹ, người bà đôn hậu, yêu thương, vị tha, sẵn sàng hi sinh vì chồng, vì con,
vì đất nước trong “Tức nước vỡ bờ” (Tắt đèn, Ngô Tất Tổ), “Tiếng gà trưa” (Xuân
Quỳnh), “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” (Nguyễn Khoa Điềm), “Bếp
lửa” (Bằng Việt), “Con cò” (Chế Lan Viên), “Tôi đi học” (Thanh Tịnh), “Bến quê”
(Nguyễn Minh Châu).
- Khuôn mặt người phụ nữ trong chiến đấu, lao động: Đó là những con người
anh hùng trong chiến đấu, có sự giác ngộ lí tưởng, có khát vọng sống cao đẹp trong
“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” (Nguyễn Khoa Điềm), “Những ngôi
sao xa xôi” (Lê Minh Khuê).
Như thế, so với văn học trung đại, văn học hiện đại miêu tả, khám phá người
phụ nữ một cách phong phú, toàn diện hơn. Từ cuộc đời bước vào trang sách, người
phụ nữ trong văn học hiện đại đã thực sự trở thành “kỳ quan” tuyệt đẹp của thế giới
nghệ thuật lấp lánh sắc màu.
Tiểu kết



20
Có thể nói rằng, hình tượng nghệ thuật là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng
trong nghiên cứu lí luận văn học, góp phần thể hiện các vấn đề của hiện thực đời
sống và phản ánh tư tưởng, tình cảm của người nghệ sỹ. Trong văn học nói chung,
trong sách Ngữ văn Trung học cơ sở nói riêng, hình tượng người phụ nữ chiếm một
vị trí quan trọng, được xuất hiện xuyên suốt từ văn học trung đại đến văn học hiện
đại. Qua các sáng tác, người phụ nữ hiện lên với nhiều góc độ, nhiều đặc điểm khác
nhau, nhưng tựu chung lại, họ là phần không thể thiếu để làm nên sự hoàn chỉnh của
thế giới. Dù trong cuộc đời hay trong trang viết, vị trí của người phụ nữ là không
thể thay thế.


21
Chương 2. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN HỌC
TRUNG ĐẠI VIỆT NAM QUA SÁCH NGỮ VĂN TRUNG HỌC CƠ SỞ

2.1. Hình tượng người phụ nữ nhìn từ ý thức hệ phong kiến
2.1.1. Người phụ nữ và chuẩn mực tứ đức
Từ thời Xuân Thu - Chiến Quốc, Nho giáo ra đời và trở thành một hệ thống
đạo đức, triết lý giáo dục, triết học xã hội, triết học chính trị. Tư tưởng Nho giáo với
gốc rễ là đạo làm người còn được đánh giá là đạo trị nước. Đối với người phụ nữ,
Nho giáo đặt ra những yêu cầu khắt khe về đạo đức, tập trung ở thuyết tam tòng, tứ
đức. Tư tưởng này được truyền vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc. Tam tòng, tứ đức
cũng trở thành những quy phạm giáo dục đạo đức cơ bản đối với người phụ nữ Việt.
Về tam tòng, lễ giáo đòi hỏi người phụ nữ “tại gia tong phụ, xuất giá tòng phu, phu
tử tòng tử”. Tư tưởng này giáo dục người phụ nữ về kỷ cương, phép tắc gia đình, là
cơ sở làm nên những đặc trưng tính cách của người phụ nữ Việt Nam: chịu thương
chịu khó, nhẫn nại, hy sinh… Tuy nhiên, nó kìm hãm, thậm chí triệt tiêu quyền bình

đẳng của nữ giới từ gia đình đến xã hội. Về tứ đức, Nho giáo hướng người phụ nữ
tới Công - Dung - Ngôn - Hạnh. Cùng với quá trình phát triển dài lâu của lịch sử
dân tộc, thuyết tứ đức đã đóng góp những giá trị nhất định hình thành vẻ đẹp truyền
thống của người phụ nữ Việt Nam.
Khảo sát qua các tác phẩm văn học trung đại Việt Nam trong sách Ngữ văn
Trung học cơ sở, ta thấy thuyết tứ đức được thể hiện đậm nét.
Trước hết, người phụ nữ trong văn học trung đại gắn với “Công”. Với quan
niệm “nữ nội, nam ngoại”, công việc của người phụ nữ gắn liền với không gian gia
đình: nấu nướng, thêu thùa, may vá… Ngay từ thuở nhỏ, người con gái đã được
giáo dục về nhiệm vụ trong gia đình để khi lấy chồng có thể làm lụng để phục vụ
gia đình nhà chồng.


22
Hình tượng nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương”
(Nguyễn Dữ) là một nhân vật như vậy. Là người phụ nữ sinh ra trong gia đình “kẻ
nhỏ” nên Vũ Nương được dạy dỗ, thấm nhuần đức công. Trong tình cảnh chồng đi
lính phương xa, Vũ Nương đã thể hiện được vai trò một người phụ nữ đảm đang,
chịu thương chịu khó trong gia đình. Mặc dù mẹ chồng già yếu, ốm đau nhưng
nàng chăm sóc, phụng dưỡng vô cùng chu đáo “hết sức thuốc thang”, “ngọt ngào
khôn khéo khuyên lơn”. Lúc mẹ chồng qua đời, nàng đã “hết lời thương xót”, một
mình lo liệu việc ma chay tế lễ, tổ chức chu đáo “như đối với cha mẹ đẻ mình”.
Không chỉ có vạy, khi Trương Sinh đi lính, Vũ Nương đang có mang, vừa một tuần
sau nàng sinh con. Như thế, Vũ Nương vừa phụng dưỡng, chăm sóc mẹ già, vừa tảo
tần nuôi dưỡng con thơ. Nàng thực sự là người phụ nữ đảm đang, xứng đáng với
chữ “công” theo quan niệm tứ đức.
Phẩm chất thứ hai được coi trọng ở người phụ nữ chính là “dung”. Dung
được hiểu là vẻ đẹp hình thức, thể hiện qua dáng vẻ tự nhiên kết hợp với trang phục,
trang điểm tạo nên sự đoan trang. Không chỉ là vẻ đẹp hình thức, yêu cầu về “dung”
đối với người phụ nữ còn liên quan tới vẻ đẹp tâm hồn, tới tính cách, ứng xử trong

cuộc sống hàng ngày.
Trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ không miêu tả sâu
về dung mạo của Vũ Nương, nhưng chỉ bằng một vài chi tiết ngắn gọn, ta cũng biết
được đó là một người con gái “có tư dung tốt đẹp”. Hai chữ “tư dung” không đơn
thuần chỉ nhan sắc mà là dáng dấp và vẻ mặt của người phụ nữ. Nhà văn không đem
đến cho người đọc cảm nhận về sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành của các mỹ
nhân cổ mà gợi ấn tượng đẹp về một con người phúc hậu, khoan thai, điềm đạm,
đúng mẫu hình thẩm mỹ của phụ nữ thuở xưa.


23
Cũng là một người phụ nữ bình dân, mộc mạc, người phụ nữ trong thơ Hồ
Xuân Hương được miêu tả rõ nét hơn ở phương diện ngoại hình: “Thân em vừa trắng
lại vừa tròn” [61;94]. Hai chữ “thân em” cất lên nhẹ nhàng, khiêm nhường, gợi nhắc
âm điệu của câu ca dao tự thuở xưa: “Thân em như củ ấu gai”, “Thân em như tấm
lụa đào”, “Thân em như hạt mưa sa”… Với Hồ Xuân Hương, chữ “thân” vừa mang ý
nghĩa chỉ thân thể, vừa hàm ý chỉ thân phận. Với ý nghĩa chỉ thân thể người phụ nữ,
câu thơ thật táo bạo, độc đáo. Bởi xưa nay, quan điểm Nho gia xem thường thân xác
của người phụ nữ, cho đó là phàm tục, tà dâm, tầm thường. Hồ Xuân Hương lại khác.
Bà tiếp thu tư tưởng phồn thực tự nhiên trong văn học dân gian, phá vỡ những quy
tắc chuẩn mực của đạo đức phong kiến để ngang nhiên ca ngợi vẻ đẹp trần thế của
con người. Những tính từ “trắng” “tròn” kết hợp với quan hệ từ tương đồng, tăng cấp
“vừa… vừa” gợi vẻ đẹp nõn nà, đầy đặn, mỡ màng của người phụ nữ. Sự miêu tả táo
bạo ấy, sau này ta còn gặp trong “Thiếu nữ ngủ ngày”:
“Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Ðôi gò bồng đảo sương còn ngậm”
[18;27]
Tư tưởng của Hồ Xuân Hương rất tương đồng với tư tưởng của các nhà Phục
hưng phương Tây – coi trọng vẻ đẹp hình thể con người, đặc biệt ở vẻ đẹp tròn đầy,
căng tràn sức sống. Tuy nhiên, trong thơ Hồ Xuân Hương, chữ “thân” còn mang ý

nghĩa chỉ thân phận con người. “Trắng” “tròn” còn là tâm hồn trắng trong, nhân
hậu, sự tròn trịa, đầy đặn của tâm hồn, phẩm giá.
Chị em Thuý Vân và Thuý Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du thì rõ
ràng là khuôn mẫu của sắc đẹp:
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,


×