Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Đặc tính dân tộc trong việc giáo dục giới tính cho trẻ vị thành niên trong gia đình (nghiên cứu trường hợp dân tộc tày, xã tân thanh, huyện văn lãng, tỉnh lạng sơn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.93 KB, 36 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ AN NI

ĐẶC TÍNH DÂN TỘC TRONG VIỆC GIÁO DỤC GIỚI TÍNH CHO TRẺ VỊ
THÀNH NIÊN TRONG GIA ĐÌNH
(Nghiên cứu trường hợp dân tộc Tày,
xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn)

Chuyên ngành
Mã số

: Xã hội học
: 60 31 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS. TS. Phạm Văn Quyết

Hà Nội, 2009


MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC .................................................................................................................... 1
DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................................ 3
DANH MỤC CÁC HÌNH .............................................................................................. 3
DANH MỤC CÁC HỘP ................................................................................................ 3
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 4
1. Lý do lựa chọn đề tài ....................................................................................... 4


2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài............................................ 6
3. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................ 6
4. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu ..................................................... 6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................. 7
6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết ...................................................... 8
NỘI DUNG CHÍNH ...................................................................................................10
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU10
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng ........................................... 10
1.2. Hệ thống lý thuyết sử dụng trong nghiên cứu ............................................ 10
1.3. Hệ thống khái niệm sử dụng trong đề tài ................................................... 13
1.4. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ....................................................................18
1.5. Vài nét về địa bàn nghiên cứu ....................................................................24
CHƢƠNG 2. ĐẶC TÍNH DÂN TỘC TRONG VIỆC GIÁO DỤC GIỚI TÍNH CHO
TRẺ VỊ THÀNH NIÊN TRONG CÁC GIA ĐÌNH DÂN TỘC TÀY ................... 26
2.1. Kiến thức của cha mẹ trong lĩnh vực giới tính và tầm quan trọng của giáo dục
giới tính đối với trẻ vị thành niên ......................................................................26
2.1.1. Hiểu biết của cha mẹ về tuổi dậy thì, sự thay đổi tâm sinh lý và các mối
quan hệ bạn bè của con ................................................................................ 26
2.1.2. Quan niệm của cha mẹ về vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân và
những điều cấm kỵ của dân tộc Tày liên quan tới vấn đề này .................... 38
2.1.3. Nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục giới tính đối với trẻ vị thành
niên ............................................................................................................... 44


2.2. Nội dung và phương pháp giáo dục giới tính cho con trong độ tuổi vị thành
niên của cha mẹ người Tày................................................................................ 46
2.2.1. Các nội dung về biến đổi tuổi dậy thì cha mẹ người Tày dạy cho con46
2.2.2. Phương pháp giáo dục giới tính của cha mẹ với con trong tuổi vị thành
niên ............................................................................................................... 53
2.2.3. Đánh giá của cha mẹ về kiến thức giới tính của con ......................... 61

2.3. Giáo dục giới tính trong gia đình nhìn từ góc độ trẻ vị thành niên ............ 63
2.3.1. Đánh giá về vai trò của gia đình trong việc giáo dục giới tính cho trẻ vị
thành niên .....................................................................................................63
2.3.2. Mong muốn về các thông tin giới tính được cung cấp ...................... 66
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................................ 68
1. Kết luận..................................................................................................................... 68
2. Khuyến nghị ............................................................................................................. 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Hiểu biết của cha mẹ về sự thay đổi cơ thể ở con trai và con gái khi dậy thì 29
Bảng 2.2. Nhận xét của cha mẹ về sự thay đổi tâm lý khi trẻ dậy thì

30

Bảng 2.3. Tương quan giữa sự cần thiết trao đổi với con về biến đổi tuổi dậy thì và có
nói chuyện với con về vấn đề giới tính

45

Bảng 2.4. Tương quan giữa người có quyền quyết định cao nhất trong gia đình và người
nói với con về vấn đề giới tính

54

Bảng 2.5. Tương quan giữa thái độ của cha mẹ người Kinh và người Tày khi con hỏi về
vấn đề giới tính


56

Bảng 2.6. Tương quan giữa thái độ trả lời con về vấn đề giới tính và thời điểm chủ động
nói với con về vấn đề này

58

Bảng 2.7. Tương quan giữa hình thức cung cấp thông tin giữa cha và mẹ

60

Bảng 2.8. Tương quan giữa trình độ học vấn của cha mẹ và việc giới thiệu sách, báo, tạp
chí cho con tìm hiểu các kiến thức giới tính

60

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1. Tương quan giữa hiểu biết của cha và mẹ về số lần cần thay băng vệ sinh

33

Hình 2.2. So sánh giữa tâm trạng của cha mẹ người Tày và người Kinh khi con gái trong
tuổi vị thành niên mang thai

40

Hình 2.3. Hành động của cha mẹ khi con gái có thai

41


Hình 2.4. So sánh sự cần thiết trao đổi với con về các vấn đề liên quan tới tuổi dậy thì
giữa cha mẹ người dân tộc Kinh và dân tộc Tày

45

Hình 2.5. Hình thức cung cấp thông tin về giới tính cho trẻ vị thành niên

59

DANH MỤC CÁC HỘP
Hộp 2.1. Lễ cúng sláo lườn của người Tày

42


Hộp 2.2. Chuyện của Lộc Thị B

52
MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong vài thập niên gần đây, các công trình nghiên cứu về tâm lý học, giáo dục
học cho thấy gia tốc phát triển của trẻ em rất nhanh. Điều này biểu hiện thông qua sự
trƣởng thành và chín muồi nhanh về sinh lý giới tính (tuổi dậy thì phát triển sớm hơn) và
sự phát triển của tâm lý giới tính (nhu cầu quan hệ giới tính phát triển, quan hệ với bạn bè
khác giới, ứng xử với bạn khác giới…). Ở lứa tuổi dậy thì, các em bắt đầu nảy sinh sự tò
mò khám phá bản thân, những cảm xúc, tâm lý, các trạng thái tình cảm mới mẻ, khác biệt
với những gì các em đã từng trải qua trƣớc đây. Mặc dù vậy, những kiến thức đƣợc trang
bị cho các em về vấn đề giới tính, tình bạn, tình yêu còn rất hạn chế và không đầy đủ,

chính xác. Là một nƣớc Á đông, giáo dục giới tính (GDGT) là một là một đề tài tế nhị
nên từ xƣa đến nay ít đƣợc đề cập tới. Nhiều ngƣời quan niệm rằng việc dạy dỗ cho trẻ
em về vấn đề này chính là “Vẽ đƣờng cho hƣơu chạy”. Chính vì vậy, trong một thời gian
dài trƣớc kia, cả nhà trƣờng, gia đình và xã hội đều hạn chế đề cập tới. Hiện nay, quan
niệm về vấn đề này đã cởi mở hơn nhƣng việc GDGT cũng còn nhiều bất cập. Trong nhà
trƣờng, những nội dung này thƣờng đƣợc lồng ghép trong môn Sinh học và Giáo dục
công dân. Cả giáo viên và học sinh đều có tâm lý ngại ngùng, xấu hổ khi giảng dạy về sự
phát triển của sinh lý nam và nữ. Trong gia đình, không phải bậc phụ huynh nào cũng có
kiến thức đầy đủ và hiểu đƣợc tầm quan trọng trong việc GDGT cho con ở lứa tuổi vị
thành niên (VTN). Nhƣ vậy, cả gia đình và nhà trƣờng đã không thực hiện đƣợc chức
năng giáo dục, cung cấp các thông tin hữu ích nhất, giải đáp những thắc mắc cho trẻ
trong lứa tuổi từ trẻ em dần trở thành ngƣời lớn. Trong khi ngoài xã hội, với sự bùng nổ
của các phƣơng tiện truyền thông đại chúng thì trẻ VTN lại có nhiều nguồn khác nhau để
tiếp cận với những loại thông tin này. Chính bởi sự lan tràn về thông tin nhƣ vậy khiến
VTN gặp nhiều khó khăn trong việc thu đƣợc với những thông tin mang tính khoa học,
thực sự cần thiết với các em.
Theo thống kế của Hội Kế hoạch hóa gia đình, cũng bởi thiếu sự hiểu biết trong
cách ứng xử trong tình bạn, tình yêu, cùng kiến thức hạn chế về vấn đề sức khoẻ sinh sản,


sức khoẻ tình dục mà Việt Nam mỗi năm có 1,2 triệu – 1,6 triệu ca nạo phá thai, trong đó
20% ở lứa tuổi VTN và là một trong ba nƣớc có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới [41]. Tại
bệnh viện Từ Dũ thành phố Hồ Chí Minh, năm 2004 có trên 30.000 trƣờng hợp nạo phá
thai, trong đó gần 5.000 em gái dƣới 19 tuổi [16]. Các trƣờng hợp nạo phá thai đều để lại
những hậu quả rất lớn cho chính bản thân nạn nhân và gia đình, xã hội.
Theo số liệu của cuộc Tổng điều tra dân số năm 1999, cả nƣớc có gần 24 triệu
ngƣời ở lứa tuổi VTN, thanh niên (10-24 tuổi), chiếm 31,6% tổng dân số. 22,2% nam
thanh niên chƣa lập gia đình đã có quan hệ tình dục (QHTD) trƣớc hôn nhân, trong số đó
có 21,5% QHTD với gái mại dâm; có trên 30% số ca nạo phá thai là phụ nữ trẻ chƣa lập
gia đình [17]. Nhìn vào những số liệu trên đây, thật đáng lo ngại cho tƣơng lai của thế hệ

trẻ nƣớc ta. Chính vì vậy, việc GDGT cho VTN, thanh niên dù không còn sớm nhƣng vẫn
có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Về đồng bào dân tộc ít ngƣời, một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ QHTD trƣớc hôn
nhân của thanh niên nhóm dân tộc thiểu số đã lập gia đình 15-24 tuổi tƣơng ứng là 39,8%
và 26,1% cho nhóm nam giới và nữ giới. Đây đƣợc coi là hành vi bình thƣờng theo
phong tục tập quán của một số dân tộc thiểu số. Tỷ lệ này cao hơn so với nhóm thanh
niên tuổi 18-25 chƣa lập gia đình (nam: 13,6% và nữ 2,2%). Trong số nữ thanh niên trả
lời đã QHTD trƣớc hôn nhân có 26,8% số chƣa lập gia đình trả lời đã từng có thai. Nhƣ
vậy cứ 4 ngƣời đã QHTD trƣớc hôn nhân thì 1 ngƣời đã mang thai [6].
Dân tộc Tày là một cộng đồng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái có số dân khoảng
1.500.000 ngƣời, đông nhất trong các dân tộc thiểu số nƣớc ta. Ở Lạng Sơn, dân tộc Tày
chiếm số lƣợng đông đảo nhất. Là một dân tộc thiểu số lại nằm ở tỉnh phía Bắc Việt
Nam, đời sống của ngƣời dân ở đây còn gặp nhiều khó khăn và nhận thức cũng còn nhiều
hạn chế. Chính vì vậy, sự quan tâm của cha mẹ tới GDGT cho con cái trong lứa tuổi
VTN còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, yếu tố văn hóa dân tộc cũng có những ảnh hƣởng
nhất định tới việc GDGT cho con cái. Nghiên cứu “Đặc tính dân tộc trong việc giáo dục
giới tính cho trẻ vị thành niên trong gia đình (nghiên cứu trường hợp dân tộc Tày tại
xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn)” nhằm tìm hiểu các yếu tố, các đặc
trƣng của tộc ngƣời có ảnh hƣởng nhƣ thế nào tới nhận thức của cha mẹ về tầm quan


trọng của việc GDGT cho con cái trong lứa tuổi VTN, cũng nhƣ những nội dung, phƣơng
pháp, cách thức họ dạy dỗ con về vấn đề này.
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
2.1 Ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học cho việc xây dựng một chƣơng trình hỗ
trợ, nâng cao kiến thức, kỹ năng cho cha mẹ thuộc nhóm các dân tộc ít ngƣời trong việc
GDGT cho con ở lứa tuổi VTN.
- Kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ thêm những khái niệm, phƣơng pháp
của Xã hội học, góp phần bổ sung các tri thức thực tiễn vào hệ thống tri thức và phƣơng

pháp nghiên cứu môn xã hội học Gia đình, xã hội học Văn hóa.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu nhằm làm rõ yếu tố, các đặc trƣng của tộc ngƣời có tác động
tới việc GDGT cho con cái của cha mẹ, từ đó góp thêm tiếng nói vào việc tuyên truyền
giúp ngƣời dân và đặc biệt các bậc phụ huynh thuộc các dân tộc ít ngƣời có thêm hiểu
biết, nhận thức về tầm quan trọng của việc GDGT cho con cái ở lứa tuổi VTN, cũng nhƣ
hiểu rõ các nhu cầu, mong muốn của các em khi đƣợc học về vấn đề này.
- Kết quả nghiên cứu sẽ đƣợc gửi tới các nhà tài trợ cho một dự án phát triển cộng
đồng dành cho nhóm dân tộc thiểu số để hỗ trợ về kiến thức, kỹ năng cho phụ huynh, từ
đó giúp tăng cƣờng mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái thông qua các hình thức GDGT.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm tìm hiểu yếu tố văn hóa dân tộc trong quá trình GDGT cho trẻ
VTN trong gia đình, thể hiện qua những khía cạnh:
- Nhận thức của cha mẹ trong các gia đình dân tộc Tày về tầm quan trọng của việc
GDGT cũng nhƣ kiến thức của họ trong lĩnh vực này.
- Đặc tính dân tộc trong các phƣơng pháp và nội dung của cha mẹ để GDGT cho
trẻ VTN.
- Nhận xét của trẻ VTN về các kiến thức cha mẹ cung cấp cũng nhƣ đánh giá về
vai trò của gia đình trong việc GDGT cho chính các em.
4. Đối tượng, phạm vi và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu


Đặc tính dân tộc trong việc GDGT cho trẻ VTN trong gia đình ngƣời dân tộc Tày.
Tuy nhiên, nội dung GDGT trong nghiên cứu này đƣợc giới hạn trong khía cạnh cha mẹ
dạy dỗ cho trẻ VTN về những biến đổi tâm sinh lý trong lứa tuổi dậy thì và cách vệ sinh
thân thể, những cách ứng xử trong mối quan hệ bạn cùng giới, khác giới, trong tình bạn,
tình yêu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu: Tại 6 bản thuộc xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh

Lạng Sơn.
- Thời gian nghiên cứu: Tháng 2 năm 2008 - tháng 9 năm 2009
4.3. Khách thể nghiên cứu
- Các bậc cha mẹ trong các gia đình dân tộc Tày có con trong lứa tuổi 13 - 18
- Trẻ em trong lứa tuổi 13 – 18 có cha, mẹ là ngƣời dân tộc Tày
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thu thập thông tin
5.1.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Phƣơng pháp này đƣợc vận dụng trong quá trình tác giả xây dựng đề cƣơng nghiên
cứu cũng nhƣ trong suốt quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu.
Tài liệu là kết quả nghiên cứu của các đề tài, các dự án đã có, bài viết trên các báo
in, tạp chí, các trang báo điện tử và các số liệu thống kê có liên quan tới đề tài nghiên
cứu.
5.1.2. Phương pháp quan sát
Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng trong quá trình thu thập số liệu tại địa bàn nghiên
cứu. Tác giả đã có 3 tuần sống cùng một gia đình ngƣời dân tộc Tày và tiếp xúc với nhiều
bậc cha mẹ, VTN ngƣời Tày trong quá trình PVS và phỏng vấn bằng bảng hỏi tại xã Tân
Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn.
Các thông tin thu đƣợc từ phƣơng pháp quan sát có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong nghiên cứu này. Đó là những thông tin bổ sung, kiểm chứng cho các thông tin thu
đƣợc từ các phƣơng pháp khác.
5.1.3. Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi


Phƣơng pháp này đƣợc áp dụng với cha mẹ là ngƣời dân tộc Tày, có con trong độ
tuổi 13 – 18 tại 6 thôn của xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, Lạng Sơn. Tác giả đã tiến
hành phỏng vấn bằng bảng hỏi với 145 vị phụ huynh và xử lý toàn bộ số phiếu thu về.
Bảng hỏi đƣợc xây dựng với 27 câu hỏi chia làm 5 phần bao gồm: kiến thức của
cha mẹ về vấn đề giới tính, các nội dung về giới tính cha mẹ dạy dỗ con cái, thái độ về
QHTD, mang thai trƣớc khi cƣới, cách thức dạy bảo con cái về vấn đề giới tính và thông

tin chung về bản thân, gia đình ngƣời đƣợc phỏng vấn. Do đặc thù là nhóm ngƣời ở vùng
cao, trình độ học vấn hạn chế, lại là những ngƣời dân tộc thiểu số nên các câu hỏi đƣợc
đƣa ra hết sức đơn giản với từ ngữ dễ hiểu, tránh dùng các thuật ngữ chuyên môn, khoa
học vẫn thƣờng hay dùng khi đề cập tới vấn đề GDGT.
Bảng hỏi thu về đƣợc xử lý trên phần mềm SPSS.
5.1.4. Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phỏng vấn sâu (PVS) đƣợc áp dụng với 15 trẻ em trong độ tuổi 13 – 18 tuổi
nhằm tìm hiểu những kiến thức của các em về vấn đề giới tính, cảm giác của các em khi
trải qua giai đoạn có sự thay đổi về cơ thể, tâm lý, các thông tin nhận đƣợc từ cha mẹ
cũng nhƣ đánh giá vai trò của cha mẹ trong việc dạy dỗ các em về vấn đề này.
- PVS cũng đƣợc sử dụng với 8 cha mẹ có con trong tuổi 13 – 18 để tìm hiểu
những phong tục tập quán của ngƣời Tày có ảnh hƣởng nhƣ thế nào tới các vấn đề giới
tính cha mẹ dạy dỗ cho con, nhận thức của họ về tầm quan trọng của việc GDGT cho con
cũng nhƣ phƣơng pháp giáo dục của cha mẹ.
Các thông tin thu đƣợc từ PVS đƣợc xử lý trên phần mềm Nvivo.
5.2. Phương pháp chọn mẫu
Toàn bộ cha mẹ trong các gia đình dân tộc Tày có con trong độ tuổi 13 – 18 ở xã
Tân Thanh đều đƣợc mời tham gia phỏng vấn bằng bảng hỏi. Tổng số mẫu đƣợc phỏng
vấn bằng bảng hỏi là 145. Mẫu đƣợc chọn để PVS là có chủ định phù hợp với mục đích
nghiên cứu.
Theo Tổ chức Y tế thế giới, VTN đƣợc định nghĩa là nhóm ngƣời trong độ tuổi 10
– 19. Tuy nhiên trong nghiên cứu này, tác giả chọn nhóm VTN trong độ tuổi 13 – 18
cũng nhƣ các bậc phụ huynh có con trong độ tuổi này bởi thực tế ở Việt Nam, độ tuổi dậy


thì trung bình ở nữ là 14,4 [6, tr.16] và khi tròn 18 tuổi cá nhân đã hoàn toàn trở thành
một thực thể độc lập, chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật.
6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết
6.1. Giả thuyết nghiên cứu
- Cha mẹ ngƣời dân tộc Tày có giáo dục con về vấn đề giới tính nhƣng chỉ dựa trên trải

nghiệm của bản thân.
- Tâm sự, giải thích, nói chuyện trực tiếp là hình thức chủ yếu cha mẹ giáo dục giới tính
cho con trong tuổi VTN.
- Gia đình không phải là nguồn chính cung cấp thông tin giới tính cho trẻ vị thành niên.
- So với cha mẹ ngƣời Kinh ở Nam Định, tỷ lệ cha mẹ ngƣời Tày ở Tân Thanh nhận thức
đƣợc tầm quan trọng của việc GDGT cho trẻ VTN thấp hơn.
6.2. Khung lý thuyết

Điều kiện kinh tế - văn hóa – xã hội,
đặc trưng tộc người

Nhận thức của
cha mẹ về tầm
quan trọng của
GDGT cho trẻ
VTN

Kiến thức và kỹ
năng của cha
mẹ trong việc
GDGT cho trẻ
VTN

Hình thức và
nội dung
GDGT

Kết quả
Đánh giá về
vai trò của gia

đình trong
việc GDGT từ
góc độ trẻ

Mong muốn
của trẻ VTN
về vấn đề
cung cấp
thông tin


NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở lý luận cơ bản, là nguyên tắc cho mọi khoa
học nói chung và khoa học xã hội nói riêng. Vận dụng tổng hợp những lý luận này tuân
theo các yêu cầu sau:
-

Những quy luật vận động phát triển của xã hội phải đƣợc xem xét khách quan
nhƣ nó đang tồn tại;

-

Những hiện tƣợng xã hội phải đƣợc xem xét trong mối quan hệ biện chứng với
nhau;

-

Xem xét các hiện tƣợng xã hội phải hƣớng đến cái bản chất, không tới cái ngẫu

nhiên, bất bình thƣờng;

-

Tuân thủ các nguyên tắc lịch sử cụ thể;

-

Xem xét yếu tố con ngƣời mang bản chất xã hội, trong tính hiện thực của nó
“con ngƣời là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, đồng thời cũng là chủ thể của
xã hội; từ đó coi việc ra sức phát huy nhân tố con ngƣời, con chiến lƣợc con
ngƣời là điểm mấu chốt của sự phát triển kinh tế - xã hội.

Trong đề tài này, các nguyên lý cơ bản nêu trên đƣợc vận dụng để tìm hiểu tính
dân tộc trong việc GDGT cho trẻ VTN trong gia đình ngƣời dân tộc Tày. Cụ thể là tác giả
tìm hiểu các phong tục, những kiêng kỵ của tộc ngƣời có ảnh hƣởng nhƣ thế nào tới việc
GDGT cho trẻ; sự giao lƣu văn hóa, kinh tế có tác động tới nội dung, phƣơng pháp giáo
dục trẻ ra sao.
1.2. Hệ thống lý thuyết sử dụng trong nghiên cứu
1.2.1. Phương pháp luận dân tộc học
Phƣơng pháp luận dân tộc học cũng là một lĩnh vực xã hội học quan tâm tới vì nó
nghiên cứu toàn bộ tri thức, hành vi ứng xử, những quá trình, nếp sống, lối sống của một
nhóm ngƣời trong xã hội trên cơ sở giải thích những loại hành động xã hội, những phong
tục tập quán truyền thống của xã hội. Tác giả nổi tiếng của trƣờng phái phƣơng pháp luận
dân tộc học là Harold Garfinkel.


- Phƣơng pháp nghiên cứu thiết chế xã hội: Để nghiên cứu thiết chế xã hội, việc
nghiên cứu môi trƣờng thiết chế, mối quan hệ của môi trƣờng thiết chế có ý nghĩa quan
trọng để xác định những mô hình hành vi ứng xử, xác định phong tục tập quán của các

nhóm xã hội khác nhau. Do đó, mỗi thành viên trong cộng đồng có xu hƣớng tuân thủ các
giá trị của tập thể hay các mô hình mà mọi ngƣời xung quanh thừa nhận. Theo Harold
Garfinkel, để nghiên cứu thiết chế cần sử dụng phƣơng pháp phân tích đàm thoại, qua đó
có thể hiểu một cách chi tiết, cụ thể những cơ cấu cơ bản của tƣơng tác ngƣời trong đàm
thoại, trên cơ sở đó nghiên cứu đƣợc những hành vi hoặc phản xạ vô thức tiềm ẩn.
- Phƣơng pháp nghiên cứu hành vi thƣờng ngày: Trong quá trình nghiên cứu hoạt
động thƣờng ngày, những cân nhắc, tính toán của các chủ thể hành động chính là hình
thức gián tiếp mô tả, đánh giá những ý tƣởng hoặc những tình huống xã hội đặc thù. Để
nghiên cứu hành vi thƣờng ngày, các phƣơng pháp tƣờng thuật, mô tả, phân tích đàm
thoại đƣợc sử dụng một cách triệt để. Trên cơ sở đề nghị đối tƣợng bị nghiên cứu tƣờng
thuật lại những hành động cụ thể diễn ra trong cuộc sống hàng ngày, nhà nghiên cứu có
thể đánh giá mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng hoặc cả cộng đồng với toàn xã hội.
Đây là những phản ánh chủ quan về đời sống xã hội khách quan, từ đó giải thích đƣợc
mô hình hành vi của các nhóm dân cƣ.
- Cũng theo Harold Garfinkel, thói quen xã hội và những hành vi tiềm thức có ý
nghĩa quan trọng giúp xác định mô hình ứng xử, phong tục tập quán của cá nhân và nhóm
xã hội. Những thói quen và hành vi tiềm thức đó thƣờng đƣợc bộc lộ trong các đàm thoại
khi chủ thể không có ý thức kiểm soát lời nói hoặc hành vi của mình vì bị lôi cuốn vào
mục tiêu của cuộc đàm thoại. Chính vì vậy, hành vi tiềm thức và thói quen xã hội là
những đối tƣợng nghiên cứu quan trọng theo lý thuyết phƣơng pháp dân tộc học.
Tóm lại, trong nghiên cứu này, phƣơng pháp luận dân tộc học đƣợc sử dụng để
nghiên cứu về các đặc trung của tộc ngƣời có ảnh hƣởng nhƣ thế nào tới nhận thức cũng
nhƣ hình thức, nội dung đƣợc cha mẹ lựa chọn trong việc GDGT cho trẻ VTN trong các
gia đình ngƣời dân tộc Tày một cách khách quan, không áp đặt ý thức chủ quan của tác
giả. Việc cùng sống, sinh hoạt và tiếp xúc với ngƣời Tày trong 3 tuần giúp tác giả tìm
hiểu đƣợc cuộc sống thực tế của ngƣời Tày ở Lạng Sơn.
1.2.2. Thuyết Vai trò xã hội


Vai trò là tập hợp các mong đợi, các quyền và những nghĩa vụ đƣợc gán cho một

địa vị cụ thể. Những sự mong đợi này xác định các hành vi của con ngƣời đƣợc xem nhƣ
là phù hợp và không phù hợp đối với ngƣời chiếm giữ một địa vị. Mỗi cá nhân có một
loạt vai trò đƣợc đem lại từ những hình mẫu xã hội khác nhau mà anh ta tham dự. Trong
cả cuộc đời, mỗi cá nhân thực hiện một số những vai trò khác nhau và tổng hợp tất cả các
vai trò xã hội của anh ta đã thực hiện từ khi sinh ra cho đến lúc chết tạo thành nhân cách
xã hội của chính ngƣời đó.
Tƣơng ứng với mỗi quan hệ xã hội, cá nhân có một địa vị xã hội, nhƣng cá nhân
thƣờng có rất nhiều quan hệ xã hội khác nhau, do vậy họ cũng có nhiều địa vị khác nhau.
Mỗi địa vị đó tƣơng ứng với một vai trò cụ thể. Chính vì vậy một cá nhân luôn có nhiều
vai trò khác nhau. Do đó, Merton đã đƣa ra khái niệm hệ vai trò để chỉ một cấu trúc gồm
các vai trò và các quan hệ của chúng mà cá nhân thực hiện khi nắm giữ một địa vị xã hội
nhất định.
Talcott Parsons đã phân tất cả các loại vai trò đa dạng khác nhau của cá nhân
thành năm loại cơ bản:
-

Một số vai trò đòi hỏi sự kiềm chế tình cảm khi thực hiện, trong khi một số vai
trò khác lại không cần sự kiềm chế này.

-

Một số vai trò xã hội dựa trên địa vị đã có sẵn, một số vai trò dựa trên địa vị
đạt đƣợc.

-

Một số vai trò đƣợc xác định hẹp còn một số khác lại đƣợc xác định rộng.

-


Một số vai trò đòi hỏi các cá nhân có thái độ ứng xử với mọi ngƣời theo các
nguyên tắc chung; ngƣợc lại, một số vai trò khác đòi hỏi phải đối xử với ngƣời
khác theo cách đặc thù vì những quan hệ đặc biệt với họ.

-

Các vai trò khác nhau có những động cơ khác nhau.

Theo năm loại vai trò do Parsons phân định, trong gia đình, vai trò của cha mẹ dựa
trên địa vị đã có sẵn, và khi đó gia đình trở thành một thiết chế giáo dục, đóng vai trò xã
hội hóa trẻ em và do đó, cha mẹ đóng vai trò là những nhà sƣ phạm, giúp con cái hòa
nhập, thích nghi với xã hội. Trong nghiên cứu này, vai trò xã hội của cha mẹ đƣợc xem
xét từ khía cạnh giáo dục, xã hội hóa cho con ở tuổi VTN về vấn đề tuổi dậy thì, tình bạn
tình yêu.


1.2.3. Thuyết Tương tác xã hội
Tƣơng tác là đơn vị cơ bản của sự kiện xã hội mà tại đó con ngƣời định hƣớng
hành vi của họ vào nhau mà trong đó, trƣớc tiên, những ngƣời tham gia phải thông tin
cho nhau về hoàn cảnh tƣơng tác. Tƣơng tác chịu ảnh hƣởng của chuẩn mực và vai trò xã
hội, của hình mẫu hành vi đƣợc thừa nhận và cả kỳ vọng của những ngƣời tham gia.
Tƣơng tác xã hội là khái niệm trung tâm trong tƣ tƣởng xã hội học của Simmel.
Cơ sở xuất phát điểm của Simmel là tác động qua lại giữa các bộ phận của thực tiễn:
“Chúng ta phải chấp nhận nhƣ là 1 nguyên tắc hợp thức cho cả thế giới là tất cả đều nằm
trong một quan hệ qua lại nào đó”. Theo Simmel, xã hội là kết quả của tác động qua lại
giữa các cá thể, các nhóm và thành phần xã hội khác cấu tạo nên, trong đó các nhân tố
không chỉ là các cá thể mà còn là các nhóm, các thành phần xã hội đông đảo khác.
Trong nghiên cứu này, thuyết Tƣơng tác xã hội đƣợc sử dụng để lý giải cho cách
thức các bậc cha mẹ lựa chọn để trò chuyện, tâm sự, dạy dỗ con cái về vấn đề liên quan
tới tuổi dậy thì, các cách ứng xử trong mối quan hệ giữa bạn cùng giới, bạn khác giới, về

tình bạn, tình yêu.
1.3. Hệ thống khái niệm sử dụng trong đề tài
1.3.1. Đặc tính dân tộc
Đặc tính là tính chất riêng, không giống với tính chất các sự vật khác.
Dân tộc là tên gọi chung những cộng đồng ngƣời cùng chung một ngôn ngữ, lãnh
thổ, đời sống kinh tế và văn hóa, hình thành trong lịch sử từ sau bộ lạc. Theo cách hiểu
của các nhà dân tộc học, dân tộc thực chất phải đƣợc hiểu là tộc ngƣời (ethnic). Tộc
ngƣời là hình thái đặc biệt của một tập đoàn xã hội xuất hiện không phải do ý nguyện của
con ngƣời mà là trong kết quả của quá trình tự nhiên lịch sử. Điểm đặc trƣng của các tộc
ngƣời là có tính bền vững và giống nhƣ là những quy tắc, các tộc ngƣời tồn tại hàng
nghìn năm. Mỗi tộc ngƣời có sự thống nhất bên trong xác định, cả những nét đặc thù để
phân định nó với các tộc ngƣời khác [14].
Theo đó, trong nghiên cứu này, đặc tính dân tộc đƣợc hiểu là những nét tiêu biểu,
đặc trƣng về văn hóa, phong tục tập quán, suy nghĩ, lối sống (sinh hoạt, giao tiếp, thói
quen...) của nhóm ngƣời dân tộc thiểu số, cụ thể là dân tộc Tày.


Trong đời sống hàng ngày, ngƣời Tày rất coi trọng thứ bậc tôn ty trật tự trong gia
đình. Việc cha mẹ dạy bảo con cái rất đƣợc quan tâm tới tuy nhiên chỉ ở góc độ giáo dục
cách ứng xử, lễ phép thông thƣờng. Những vấn đề “tế nhị”, “nhạy cảm” liên quan tới mối
quan hệ nam nữ, sự phát triển tâm sinh lý tuổi dậy thì ít đƣợc đề cập tới một cách thẳng
thắn. Mẹ thƣờng nói riêng với con gái, cha ít nói với con trai bởi chính trong suy nghĩ của
mình họ cũng cho rằng các em khắc lớn khắc biết.
1.3.2. Khái niệm Giới
Khái niệm giới đƣợc hiểu là những đặc điểm, tính cách, cách ứng xử, vai trò và
trách nhiệm của con trai và con gái mà xã hội quy định. Các đặc điểm này đƣợc hình
thành từ cuộc sống, chịu ảnh hƣởng của gia đình, bạn bè, tôn giáo, văn hóa, nhà trƣờng,
báo chí… Các đặc điểm này có thể thay đổi đƣợc.
1.3.3. Khái niệm Giới tính
Giới tính là khái niệm chỉ tập hợp những đặc điểm, tính chất riêng biệt tạo nên sự

khác nhau giữa nam và nữ, những đặc điểm ấy giúp ta phân biệt đƣợc dễ dàng nam và nữ.
Giới tính hình thành từ hai nguồn gốc:
- Nguồn gốc sinh học: nam với nhiễm sắc thể XY, nữ là nhiễm sắc thể XX; nhiễm
sắc thể quy định tính trạng nam, nữ là Y, X. Cấu tạo cơ thể, nội tiết, tâm sinh lý bắt
nguồn từ đó.
- Nguồn gốc xã hội: tình cảm, ý thức đƣợc hình thành qua giao tiếp dƣới ảnh
hƣởng của giáo dục, xã hội. Mỗi xã hội có sự phân công lao động riêng, có quan niệm về
giới tính theo những chuẩn mực đạo đức và văn hóa nhất định.
Nhƣ vậy, giới tính là chỉ sự phân biệt về mặt sinh học giữa nam và nữ, theo đó các
đặc điểm về giới tính không thể thay đổi đƣợc trừ khi phẫu thuật.
1.3.4. Khái niệm Giáo dục giới tính
Có nhiều định nghĩa khác nhau về GDGT.
1.3.4.1. Định nghĩa của A.G.Khơricôpva và D.B.Kôlêxốp
“GDGT là một quá trình hƣớng vào việc vạch ra những nét, những phẩm chất,
những đặc trƣng và khuynh hƣớng phát triển của nhân cách nhằm xác định thái độ xã hội
cần thiết của con ngƣời đối với những thuộc giới khác” [29, tr.15]


Định nghĩa này cho thấy phạm vi của GDGT không chỉ bó hẹp ở việc giáo dục
mối quan hệ giữa nam và nữ mà bao gồm cả việc giáo dục những mối quan hệ nam nữ
trong đời sống cũng nhƣ học tập, lao động, nghỉ ngơi, giải trí… Giáo dục cho con ngƣời
biết rèn luyện những phẩm chất giới tính nhằm phát huy thế mạnh của giới tính.
1.3.4.2. Định nghĩa theo Bách khoa toàn thư y học phổ thông (Pêtrôpxki chủ biên)
“GDGT là hệ thống các biện pháp y khoa và sƣ phạm nhằm giáo dục cho nhi
đồng, thanh niên và thiếu niên có thái độ đúng đắn đối với các vấn đề giới tính” [29,
tr.16]. Định nghĩa này ngoài góc độ giáo dục còn đứng ở góc độ y học để xem xét nội
dung GDGT, giúp thế hệ trẻ biết bảo vệ sức khoẻ của chính mình và những ngƣời khác
trong quan hệ nam nữ.
1.3.4.3. Định nghĩa theo Từ điển bách khoa về giáo dục
“GDGT là giáo dục về chức năng làm một con ngƣời có giới tính. Điều quan trọng

là đề cập vấn đề giới tính một cách công khai và đầy đủ trong lớp học, từ nhà trẻ đến đại
học, giúp cho học sinh cảm thấy an toàn và tự do trong việc biểu lộ các cảm xúc liên
quan đến đời sống giới tính”. Định nghĩa này nêu bật đƣợc bản chất của công tác GDGT,
đó là sự định hƣớng cho thế hệ trẻ cách sống đúng đắn của con ngƣời có giới tính. Việc
giúp cho thế hệ trẻ “làm một con ngƣời có giới tính” là việc làm hết sức cần thiết trong
cuộc sống. Nhiều ngƣời không nhận thức đƣợc việc thiếu “nữ tính” của phụ nữ hoặc
“nam tính” của đàn ông là một tai hại. Những “tính nam”, “tính nữ” này không thể hình
thành một cách tự nhiên mà con ngƣời phải trải qua một quá trình đƣợc giáo dục, đƣợc
rèn luyện mới có đƣợc. Ngay chức năng giới tính mà thiên nhiên đã ban phú cho ngƣời
đàn ông và ngƣời đàn bà đó là chức năng truyền giống ở đàn ông, chức năng sinh đẻ ở
đàn bà cũng cần đƣợc giải thích làm sáng tỏ cơ sở khoa học của sự hoạt động có quy luật
của hành vi tình dục nhằm mang lại “sự an toàn và tự do” cho con ngƣời. Con ngƣời chỉ
cảm thấy “tự do” khi đã nắm vững đƣợc cái “tất yếu”, những quy luật phát triển sinh lý,
tâm lý của con ngƣời.
1.3.4.4. Định nghĩa của D.N.Ixaev và V.E.Kagan
Theo D.N.Ixaev và V.E.Kagan, GDGT cần đƣợc hiểu theo hai nghĩa. Trƣớc hết,
theo nghĩa rộng, thuật ngữ GDGT chỉ sự ảnh hƣởng của môi trƣờng đến sự phát triển tâm
lý tình dục và sự hình thành cá nhân. Môi trƣờng bao quanh con ngƣời là thực thể nhiều


mặt và cơ động, không phải lúc nào cũng hoạch định đƣợc hay mong muốn đƣợc những
ảnh hƣởng của nó. GDGT là một bộ phận hợp thành của giáo dục học đại cƣơng “Giáo
dục phải đảm bảo sự phát triển tự do và vui sƣớng của mọi thể hiện tăng trƣởng của con
ngƣời từ bầu vú mẹ đến chiếc giƣờng chung vợ chồng” [29, tr.17].
Theo nghĩa hẹp, GDGT là một quá trình tác động có hệ thống, đƣợc hoạch định và
thực hiện một cách có ý thức, hƣớng tới kết quả cuối cùng xác định vào sự phát triển tâm
lý và thể chất của em trai và em gái với mục đích tối ƣu hóa sự phát triển nhân cách và
hoạt động của chúng trong mọi lĩnh vực của đời sống có liên quan tới các mối quan hệ
của hai giới.
Tóm lại: GDGT là một vấn đề quan trọng trong việc giáo dục sự phát triển toàn diện của

con ngƣời. GDGT nhằm bồi dƣỡng cho thế hệ trẻ những hiểu biết cần thiết về giới tính,
giúp họ có thái độ và kỹ năng giao tiếp, ứng xử lịch sự, văn minh trong quan hệ với ngƣời
khác giới trong hoạt động và đời sống xã hội. GDGT chủ yếu hƣớng vào thế hệ trẻ trƣớc
hôn nhân. Ở nhiều nƣớc, GDGT đƣợc tiến hành từ lứa tuổi mẫu giáo và đặc biệt đƣợc
quan tâm ở giai đoạn tuổi dậy thì và thanh niên.
Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, các nội dung GDGT cha mẹ ngƣời Tày dạy con đƣợc
nghiên cứu là:
- Giải thích về sự thay đổi của cơ thể khi trẻ bƣớc vào tuổi dậy thì
- Hƣớng dẫn vệ sinh thân thể khi con có những dấu hiệu dậy thì
- Hƣớng dẫn cách ứng xử trong cuộc sống hàng ngày với ngƣời lớn tuổi, bạn cùng giới,
bạn khác giới.
1.3.5. Khái niệm Vị thành niên
VTN là giai đoạn đặc biệt của cuộc đời con ngƣời. Đó là bƣớc quá độ từ tuổi ấu
thơ trở thành ngƣời lớn. Có nhiều quan điểm khác nhau về tuổi VTN. Sự phân chia độ
tuổi VTN ở các quốc gia, các chủng tộc và các khu vực khác nhau cũng rất khác nhau.
Tuy nhiên, có một điểm thống nhất là VTN nghĩa là ngƣời chƣa trƣởng thành và còn do
ngƣời lớn giám hộ.
Theo WHO, VTN có độ tuổi từ 10 đến 19 tuổi. Trên cơ sở quan niệm này, ngƣời
ta thƣờng phân chia VTN thành ba nhóm: VTN sớm: 10 – 14 tuổi, VTN trung: 15 – 17
tuổi và VTN muộn: 18 – 19 tuổi.


Ở Việt Nam, pháp luật quy định từ 18 tuổi trở lên thì một con ngƣời có đầy đủ
những quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân độc lập. Từ 18 tuổi họ có quyền kết hôn
và sinh con, nghĩa là khi đó họ không còn là VTN nữa. Do vậy, VTN ở nƣớc ta thƣờng
đƣợc xác định trong độ tuổi từ 10 đến trƣớc 18 tuổi.
VTN là giai đoạn trải qua quá trình dậy thì ở cuộc đời con ngƣời. Chính vì thế, ở
giai đoạn này từng bƣớc có sự thay đổi toàn diện về tâm sinh lý và tình cảm:
- Sự phát triển của các cơ quan sinh sản, sự xuất hiện của ham muốn tình dục. Nếu
trƣớc đây nhu cầu tình dục tồn tại ở dạng tiềm năng thì nay nó trở thành một động lực

thực sự và đƣợc biểu hiện một cách nào đó trong các hành vi của chủ thể.
- Sự thay đổi những năng lực tâm lý, đó là sự biểu hiện của cá tính, sự hiện diện rõ
nét của các kiểu dạng tâm lý, VTN tự ý thức về bản thân, đề cao cái tôi cá nhân, muốn
khẳng định mình, muốn trở thành ngƣời lớn.
- Xuất hiện những sắc thái tình cảm khác nhau do sự biến đổi của các năng lực
tình dục và tâm lý. Những trạng thái tình cảm luôn biến đổi thất thƣờng là nét đặc trƣng
của tuổi VTN. Vì thế ở VTN xuất hiện những tình cảm mới lạ, những bất thƣờng trong
ứng xử, hành vi và có sự thay đổi rõ nét trong mối quan hệ với gia đình, bạn bè và xã hội.
Nhƣ vậy, trong giai đoạn không còn là trẻ con cũng chƣa trở thành ngƣời lớn, đặc
trƣng cơ bản của VTN là sự tăng trƣởng nhanh về thể chất với việc hoàn thiện cơ quan
sinh sản và sự phát triển về nhân cách.
1.3.6. Khái niệm Gia đình
Gia đình đƣợc tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc (UNESCO)
định nghĩa: “Gia đình là một nhóm ngƣời có quan hệ họ hàng, cùng sống chung và có
cùng ngân sách chung”. Nhƣ vậy, gia đình là một nhóm xã hội đặc biệt gắn bó với nhau
bởi huyết thống và tình cảm. Gia đình đƣợc hình thành trên cơ sở hôn nhân, và quan hệ
huyết thống có đƣợc từ hôn nhân đó.
Gia đình là một thiết chế đặc biệt, có nhiều chức năng khác nhau và đầu tiên phải
kể tới là chức năng xã hội hóa. Gia đình là môi trƣờng giáo dục đầu tiên giúp cá nhân
thích nghi, làm quen với đời sống xã hội. Chính vì vậy, gia đình có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong việc giáo dục cho các thành viên để hòa nhập với xã hội.
1.3.7. Giáo dục giới tính cho vị thành niên trong gia đình


GDGT là một phần của hoạt động giáo dục trong gia đình, chuẩn bị các kiến thức
cần thiết cho VTN để các em có tâm lý vững vàng, biết cách ứng phó với những thay đổi
bất ngờ về sinh lý cũng nhƣ tâm lý ở độ tuổi mới lớn. Tuy nhiên hiện nay việc GDGT
trong các gia đình Việt Nam nói chung và gia đình ngƣời dân tộc Tày nói riêng vẫn chƣa
đƣợc chú trọng và quan tâm đúng mức. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề
này có ý nghĩa quan trọng để góp phần thúc đẩy việc nâng cao vai trò của gia đình trong

việc GDGT cho thế hệ tƣơng lai.
1.4. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.4.1. Các công trình nghiên cứu, bài viết về vấn đề giáo dục giới tính
GDGT không phải là một chủ đề mới trong các nghiên cứu, bài viết, đã có rất
nhiều nghiên cứu, bài báo, sách viết về đề tài này ở những khía cạnh khác nhau.
Trong khuôn khổ nghiên cứu này, tác giả xin đề cập tới một số bài viết, nghiên
cứu, luận án tiêu biểu trong lĩnh vực này.
Cuốn sách “Giáo dục giới tính” của tác giả Nguyễn Văn Lê, Nguyễn Thị Đoan,
nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội năm 1997 khẳng định tầm quan trọng của việc
GDGT, đó là quá trình rèn luyện cho thế hệ trẻ những phẩm chất, tính cách, hành vi và
thái độ cần thiết, đúng đắn trong quan hệ với ngƣời khác giới, hình thành ở họ những
quan hệ đạo đức lành mạnh cũng nhƣ tình cảm trong sáng, đẹp đẽ giữa nam và nữ. Từ
cuốn sách này, ngƣời đọc sẽ có ý thức về việc GDGT là một phần quan trọng trong nội
dung giáo dục đời sống gia đình. Tuy nhiên, cuốn sách này cũng chỉ dừng lại ở việc cung
cấp các kiến thức cơ bản về vấn đề GDGT cho trẻ em trong gia đình.
Cuốn sách “Giáo dục giới tính vì sự phát triển của vị thành niên” của Bác sỹ Đào
Xuân Dũng, nhà xuất bản Đại học Quốc gia năm 2002 giới thiệu một cách toàn diện đầy
đủ về vấn đề GDGT, từ định nghĩa về GDGT, mục đích, ý nghĩa, nội dung, phƣơng pháp
GDGT tới vai trò của gia đình, của cha mẹ trong việc hình thành nhân cách cho con cái.
Nhƣng cuốn sách này cũng chỉ dừng lại ở việc giới thiệu một cách tổng quát các nội dung
GDGT cần thiết cho VTN.
Cuốn sách “Giáo dục giới tính cho con” của nhóm tác giả Nguyễn Thanh Bình,
Vũ Thị Sơn, Lƣu Thu Thủy và Đào Thị Oanh, nhà xuất bản Giáo dục năm 2001 đề cập
tới vai trò của gia đình trong GDGT và những vấn đề chung của gia đình với việc GDGT


cho con, những nội dung GDGT cụ thể, những điều cần quan tâm trong GDGT qua từng
giai đoạn phát triển tâm lý giới tính, cách giải quyết một số tình huống điển hình có thể
xảy ra trong thực tế.
Cuốn sách “Tâm lý học giới tính và giáo dục giới tính” của tác giả Bùi Ngọc

Oánh, nhà xuất bản Giáo dục năm 2006 đã nêu lên những vấn đề chung về giới tính và
tâm lý học giới tính, các khái niệm giới và giới tính, sự hình thành và phát triển giới tính,
một số vấn đề điển hình của đời sống giới tính, GDGT và những vấn đề thực tiễn. Các
vấn đề lý luận, thực tiễn trong cuốn sách này đƣợc trình bày theo hƣớng hệ thống hóa lý
luận cơ bản của khoa học giới tính, và mối tƣơng quan giữa chúng với các chuyên ngành
khoa học có liên quan.
Bài viết “Về vấn đề giáo dục giới tính cho trẻ em trong gia đình” của tác giả
Nguyễn Thị Tố Quyên trên Tạp chí Xã hội học số 1, năm 2005 cho thấy 61,6% bố mẹ
thấy cần thiết phải trao đổi với con về vấn đề giới tính, trong đó 56,6% ông bố và 64,3%
bà mẹ cho rằng cần phải giáo dục về vấn đề này (trang 87). Liên quan tới phƣơng pháp
GDGT, bài viết cũng đã chỉ ra một thực tế ngoài việc trò chuyện trực tiếp, có tới 20,5%
ông bố và 24,2% bà mẹ cho rằng chỉ cần GDGT, tình dục và SKSS cho con bằng việc
mua sách báo cho chúng tự học, không cần trao đổi hay nói chuyện trực tiếp về vấn đề
này. Bài viết này đã chỉ ra đƣợc thực trạng hiện nay trong việc GDGT của các gia đình,
tuy nhiên chƣa lý giải đƣợc những nguyên nhân dẫn tới thực trạng đó.
Luận án phó tiến sỹ khoa học tâm lý “Những yếu tố tâm lý trong sự chấp nhận
giáo dục giới tính cho thanh niên, học sinh” của tác giả Bùi Ngọc Oánh đã phát hiện
đƣợc những yếu tố tâm lý ảnh hƣởng tới sự chấp nhận GDGT ở thanh niên học sinh, từ
đó đề xuất một số phƣơng hƣớng, biện pháp nhằm nâng cao sự chấp nhận đó ở thanh
niên, học sinh. Tuy nhiên, nghiên cứu này mới chỉ tìm hiểu sự chấp nhận GDGT trong
nhà trƣờng mà chƣa đề cập tới khía cạnh GDGT trong gia đình.
Luận án tiến sỹ giáo dục “Một số biện pháp giáo dục giới tính cho sinh viên Đại
học Sư phạm” của nghiên cứu sinh Phan Bích Ngọc nhằm đánh giá thực trạng sử dụng
biện pháp GDGT cho sinh viên đại học sƣ phạm và đƣa ra các biện pháp, nội dung
GDGT cho họ. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ tập trung vào nhóm đối tƣợng đặc thù là
sinh viên trong trƣờng Đại học Sƣ phạm.


Tóm lại, các cuốn sách, bài viết nêu trên mới chỉ đƣa ra đƣợc những nội dung
nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản cho ngƣời đọc cũng nhƣ nêu lên tầm quan trọng,

vai trò của gia đình, nhà trƣờng trong việc GDGT cho VTN, thanh niên. Hai luận án đã
tìm hiểu ở những khía cạnh cụ thể hơn trong việc GDGT cho sinh viên, học sinh.
Trong phạm vi nghiên cứu “Đặc tính dân tộc trong việc giáo dục giới tính cho
trẻ vị thành niên trong gia đình”, tác giả đi sâu vào tìm hiểu vấn đề GDGT cho trẻ vị
thanh niên trong nhóm đồng bào dân tộc thiểu số, cụ thể ở đây là dân tộc Tày ở Lạng Sơn
nhằm tìm ra những nét khác biệt trong quá trình GDGT cho trẻ ngƣời dân tộc cũng nhƣ
nhận thức, hiểu biết của chính các bậc phụ huynh về lĩnh vực này và đánh giá của cha
mẹ, trẻ VTN về vai trò của gia đình trong việc GDGT.
1.4.2. Lược sử quá trình giáo dục giới tính
1.4.2.1. Quá trình giáo dục giới tính trên thế giới
GDGT là một vấn đề đƣợc nhiều nƣớc ở Châu Âu tiến hành từ rất sớm. Năm 1921
Thụy Điển đã nghiên cứu vấn đề GDGT. Ngay từ thời đó Thụy Điển đã coi tình dục là
quyền tự do của con ngƣời, là quyền bình đẳng nam nữ, là trách nhiệm đạo đức của công
dân đối với xã hội. Năm 1942, Bộ Giáo dục Thụy Điển quyết định đƣa thí điểm giáo dục
tình dục vào nhà trƣờng và đến năm 1956 thì dạy phổ cập trong tất cả các trƣờng từ tiểu
học đến trung học [29, tr.9].
Sau Thụy Điển, các nƣớc Đông Âu nhƣ Đức, Ba Lan, Hunggari, Tiệp Khắc và các
nƣớc Tây Âu, Bắc Âu khác đều coi giáo dục tình dục là một vấn đề lành mạnh, đem lại tự
do cho con ngƣời vì họ quan niệm rằng cần nói rõ cho mọi ngƣời hiểu biết những quy
luật hoạt động của tình dục. Sau đó, nhiều nƣớc ở châu Mỹ La tinh, vùng Caribê cũng
quan tâm đến giáo dục tình dục.
Tuy nhiên, những năm 1960 trở về trƣớc vấn đề GDGT chỉ đƣợc quan tâm ở từng
nƣớc riêng lẻ thuộc khu vực châu Âu, châu Mỹ. Đối với các nƣớc châu Á, GDGT là lĩnh
vực “cấm kị” xuất phát từ quan niệm phong kiến và tôn giáo, trong khi đó châu Á và
châu Phi lại là những vùng dân số tăng nhanh nhất thế giới. Trái lại, ở những quốc gia
giàu có dân số không tăng, thậm chí có những nƣớc còn giảm sút số dân thuộc lớp trẻ
nhƣ Ôxtrâylia, Cộng hòa Liên bang Đức, Đan Mạch, Bỉ, Italia… Những nƣớc này tỷ lệ
sinh bình quân hàng năm là mức thấp nhất của thời đại. Tình trạng sinh ít, dân số già,



thiếu sức lao động trẻ đã làm cho một phần sản xuất nông nghiệp giảm. Thực trạng đó đòi
hỏi Nhà nƣớc phải có những chính sách khuyến khích sinh đẻ nhiều đối với các cặp vợ
chồng trẻ. Nhƣ vậy, ở các nƣớc giàu và nghèo, dù đứng ở hai cực dân số đối lập nhau
song đều có nhu cầu về nâng cao chất lƣợng cuộc sống của mỗi cá nhân và cuộc sống văn
minh của toàn xã hội.
Trong những năm 1984, 1986, các Hội nghị UNESCO đã làm sáng tỏ những yêu
cầu về giáo dục đời sống gia đình và GDGT trong quá trình giáo dục ở các nƣớc khu vực
châu Á – Thái Bình Dƣơng. Nội dung và phƣơng pháp GDGT ở các nƣớc có thể có
những khía cạnh khác nhau vì mỗi dân tộc đều có những phong tục tập quán, những đình
hƣớng giá trị về tgd, về nam, nữ khác nhau. Nhƣng tất cả đều thống nhất ý kiến về tầm
quan trọng và sự cần thiết phải GDGT cho thế hệ trẻ, giúp họ làm chủ quá trình sinh sản
của mình một cách khoa học, phù hợp với tiến bộ của xã hội.
1.4.2.2. Giáo dục giới tính ở Việt Nam
Nhận thức về giới có từ rất sớm trong văn hóa truyền thống Việt Nam. Trong ca
dao, truyền thuyết, dân ca, nghệ thuật, khảo cổ… của các dân tộc đều cho thấy ngay từ
thời xa xƣa, ông cha ta đã có quan niệm về giới, “Trời – Cha”, “Mẹ - Đất”, Trời – Đất
nhƣ một cặp Nam – Nữ. Trong nền văn hóa Chàm có những tƣợng thờ bằng đá thể hiện
quan niệm rất rõ về đặc điểm giới và giới tính.
Nhận thức về giới và GDGT trong văn hóa còn đƣợc thể hiện trong các phong tục,
đặc biệt là trong các lễ hội cổ truyền của nhiều địa phƣơng. Nói chung, ngƣời Việt cổ có
quan niệm tƣơng đối đầy đủ về các yếu tố của vấn đề tâm sinh lý giới tính, khá cởi mở,
phóng khoáng về tình dục, coi đó là hành động tự nhiên, cần thiết để bảo tồn và phát triển
nòi giống, có quan hệ đến sự phồn thịnh và hạnh phúc của quốc gia, dân tộc.
Sau khi tiếp nhận ảnh hƣởng của văn hóa Nho giáo với chữ Lễ đƣợc đề cao, dần
dần khía cạnh tâm lý xã hội của giới tính đƣợc khai thác nhằm phục vụ lợi ích của giai
cấp phong kiến, tạo nên sự bất bình đẳng về giới. Hàng rào lễ giáo đƣợc dựng lên, ngăn
chặn một cách giả tạo sự tiếp xúc giữa những ngƣời khác giới. Những chuyện liên quan
đến khía cạnh sinh lý của giới tính và tình dục trở thành điều cấm kỵ đối với giới trẻ.
Toàn xã hội đƣợc hƣớng dẫn bởi những thuyết giáo đạo đức “Trung, Hiếu, Tiết hạnh”



phục vụ cho quân quyền, phụ quyền và nam quyền. Chính vì vậy, GDGT với ý nghĩa
chân chính của nó đã bị “né tránh”.
Ngày nay, Nhà nƣớc Việt Nam đã coi giáo dục dân số là công tác thuộc chiến lƣợc
con ngƣời. Hàng loạt chủ trƣơng đƣợc thực hiện nhằm xã hội hóa công tác giáo dục dân
số một cách hữu hiệu, trong đó có chủ trƣơng thực hiện khuyến nghị của Hội nghị tƣ vấn
khu vực về giáo dục dân số năm 1986 ở Băngkok, gồm 4 điểm: Giáo dục đời sống gia
đình, Giáo dục giới tính, Giáo dục tuổi già và Giáo dục về đô thị hóa.
Trong năm 1985, Trung ƣơng Hội Liên hiệp phụ nữ đã triển khai phong trào giáo
dục “Ba triệu bà mẹ nuôi con khỏe, dạy con ngoan”, trong đó có nội dung GDGT cho con
ở lứa tuổi dậy thì. Đây là lần đầu tiên ở nƣớc ta vấn đề GDGT đƣợc tiến hành rộng rãi và
gián tiếp thông qua việc cung cấp kiến thức khoa học cho các bà mẹ có con ở lứa tuổi dậy
thì. Tuy nhiên, hình thức chủ yếu đƣợc sử dụng ở đây là nói chuyện, diễn giảng và các
nhà thuyết giảng hầu hết không phải nhà chuyên môn nên hiệu quả chỉ mang tính chất
phong trào.
Tới năm 1988, một đề án có quy mô to lớn nghiên cứu về GDGT và dân số kế
hoạch hóa gia đình cho học sinh, đề án VIE/88/P09 đã đƣợc tiến hành với sự tài trợ của
Quỹ dân số Liên hiệp quốc UNFPA và sự giúp đỡ kỹ thuật của UNESCO. Đề án do Bộ
Giáo dục và Đào tạo , Viện khoa học giáo dục Việt Nam thực hiện với sự chỉ đạo và tham
gia trực tiếp của các nhà khoa học trong và ngoài ngành giáo dục. Đề án đã xây dựng
chƣơng trình, sách giáo khoa và giảng dạy thí điểm thành công ở 19 tỉnh thành trong cả
nƣớc.
1.4.3. Mục đích, nhiệm vụ và nội dung của giáo dục giới tính
1.4.3.1. Mục đích của giáo dục giới tính
“Mục đích của GDGT là nhằm hình thành ở ngƣời học sự hiểu biết đúng đắn về
bản chất các tiêu chuẩn và tâm thế đạo đức trong lĩnh vực quan hệ của hai giới và nhu cầu
hành động theo các tiêu chuẩn và tâm thế đó trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động” [19].
Điều đó có nghĩa là GDGT nhằm làm cho ngƣời học:
- Hiểu đƣợc ý nghĩa xã hội trong các mối quan hệ giữa mình với ngƣời khác;
- Biết cách tìm đƣợc lối giải quyết đúng đắn các vấn đề đạo đức cụ thể, xuất hiện trong

lĩnh vực các quan hệ theo tinh thần của đạo đức xã hội;


- Kiên định trƣớc ảnh hƣởng của tƣ tƣởng cổ vũ cho tính phóng đãng về tình dục và thái
độ hƣởng thụ đối với ngƣời khác giới, coi thƣờng các giá trị đạo đức.
1.4.3.2. Nhiệm vụ của giáo dục giới tính
- Giúp cho thế hệ trẻ có hiểu biết nhất định về giới tính và có kỹ năng xây dựng các quan
hệ của mình với ngƣời khác trên cơ sở tính đến những đặc điểm giới tính của họ. Hình
thành và giáo dục một số phẩm chất đạo đức giới tính (biết yêu thƣơng, quan tâm đến
ngƣời thân xung quanh mình, có ý thức trách nhiệm và tôn trọng mọi ngƣời, mong muốn
đem lại điều tốt lành cho ngƣời khác…)
- Giáo dục cho thanh thiếu niên nguyện vọng có một gia đình hạnh phúc, khỏe mạnh, ít
con (1 hoặc 2 con) và có thái độ tự giác, có trách nhiệm đối với việc nuôi dƣỡng và giáo
dục con cái.
- Giáo dục thái độ có trách nhiệm đối với sức khoẻ của mình và của ngƣời khác. Biết đề
phòng tác hại của các mối QHTD quá sớm và ý thức không chấp nhận thái độ vô trách
nhiệm, nhẹ dạ trong lĩnh vực quan hệ thầm kín nhất với ngƣời khác giới.
1.4.3.3. Nội dung của giáo dục giới tính
GDGT có thể chia ra thành ba nội dung:
- Giáo dục tâm lý nhân cách, các đặc điểm tâm lý (hành vi, đạo đức, phép ứng xử của
từng ngƣời), thái độ đối với vợ, chồng, với con và những ngƣời khác trong xã hội.
- Giáo dục sinh lý, đời sống sinh sản: đặc điểm và những điều cần biết về vấn đề sinh lý,
giới tính về hôn nhân và đời sống vợ chồng cho mỗi lứa tuổi, mỗi giới.
- Giáo dục xã hội: nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của từng giới đối với xã hội và
ngƣợc lại.
1.4.4. Ý nghĩa của giáo dục giới tính trong sự phát triển nhân cách của trẻ
GDGT là hệ thống các biện pháp y khoa và sƣ phạm nhằm giáo dục cho mỗi
ngƣời hay từng giới có thái độ đúng với các vấn đề giới tính. GDGT tạo điều kiện cho sự
phát triển hài hòa của thế hệ trẻ, cho sự hình thành đầy đủ giá trị chức năng sinh sản, cho
việc nâng cao những kiến thức về tình dục học, góp phần củng cố hôn nhân và gia đình.

Ở tuổi dậy thì, GDGT giúp các em điều khiển có ý thức các vấn đề tình dục, ở tuổi thanh
niên, giúp cho mọi ngƣời xây dựng đƣợc gia đình hạnh phúc.


GDGT góp phần quan trọng trong phát triển nhân cách, giúp cho thế hệ trẻ chuẩn
bị tốt hành trang vào đời, giáo dục họ trở thành những con ngƣời giàu về trí tuệ, phong
phú về tinh thần, lành mạnh trong lối sống, sẵn sàng kế tục sự nghiệp cha anh, mang hết
khả năng cống hiến cho đất nƣớc, cho nhân dân vì sự trƣờng tồn và phát triển của dân
tộc. Vì vậy, GDGT có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện mục đích giáo dục là giúp cho
thế hệ trẻ làm chủ đƣợc văn hóa đạo đức trong lĩnh vực các quan hệ qua lại giữa hai giới,
giáo dục họ có đƣợc nhu cầu và nguyện vọng tuân theo những chuẩn mực đạo đức của xã
hội; giữ gìn và phát huy những tinh hoa trong truyền thống văn hóa của dân tộc, trong
quan hệ ứng xử, giới tính. Có thể nói, GDGT góp phần quan trọng trong việc hình thành
và phát triển nhân cách toàn diện của trẻ VTN.
1.5. Vài nét về địa bàn nghiên cứu
Xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn là một xã miền núi, phía Bắc tiếp
giáp Trung Quốc (dài 7,65km), có hai chợ tại mốc 15 và nhiều đƣờng mòn qua biên giới.
Toàn xã có 6 thôn bản, 2 khu tại cửa khẩu mốc 15. Diện tích tự nhiên là 2.179,98ha,
trong đó đất canh tác làm ruộng có 159,7ha.
Dân số toàn xã tính tới 1/7/2007 có 444 hộ với 2006 nhân khẩu. Số dân cƣ ở các
nơi khác đến tạm trú tại 2 khu chợ cửa khẩu là 888 hộ với 2695 ngƣời, chủ yếu kinh
doanh buôn bán. Với vị trí địa lý, đặc điểm kinh tế nhƣ vậy, Tân Thanh đƣợc xác định là
một địa bàn trọng điểm với các diễn biến phức tạp về kinh tế, an ninh, chính trị, trật tự an
toàn xã hội.
Đƣợc sự quan tâm của Đảng, Nhà nƣớc, trong những năm gần đây, đời sống của
ngƣời dân ở Tân Thanh đã có nhiều thay đổi, đƣợc cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, cùng với
đó, các tệ nạn xã hội cũng phát triển theo. Lợi dụng chính sách mở cửa quan hệ buôn bán
Việt Nam – Trung Quốc, các loại tội phạm hoạt động qua biên giới nhƣ chuyển tiền giả,
vũ khí, ma tuý, buôn bán phụ nữ, trẻ em đã xuất hiện. Điều này có tác động không nhỏ
tới đời sống của ngƣời dân nơi đây.

Trƣớc kia, Tân Thanh là địa bàn cƣ trú của hai dân tộc chính là Tày và Nùng. Tuy
nhiên, từ khi mở cửa biên giới với các hoạt động giao lƣu thƣơng mại, ngƣời Kinh tới
Tân Thanh sinh sống và làm ăn ngày một nhiều. Và một lần nữa sự giao thoa văn hoá


×