Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.12 KB, 13 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
NỘI DUNG ................................................................................................................. 1
I. Những vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự ................... 1
1. Khái niệm về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự ................................... 1
2. Ý nghĩa của giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự ..................... 2
3. Cơ sở của việc tiến hành giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
............................................................................................................................. 3
II. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự ................................................................................................. 3
1. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự .......................................... 3
2. Các công việc chuẩn bị xét xử ....................................................................... 4
III. Thực trạng của công tác chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và một số
kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này......................................... 8
1. Thực trạng của công tác chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự ................ 8
2 . Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự ............................................................................................ 11
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 12

0


LỜI MỞ ĐẦU
Công tác chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự có ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng của công tác xét xử. Vì vậy ở nước ta, chuẩn bị xét xử sơ thẩm được quy
định khá sớm trong các văn bản pháp luật từ sau khi Hiến pháp năm 1946 ra đời và
ngày càng được quy định đầy đủ hơn theo sự phát triển của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động. Hiện nay


chuẩn bị xét xử sơ thẩm được quy định đầy đủ và có hệ thống hơn trong Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2004 và được hướng dẫn trong các Nghị quyết của Hội đồng thẩm
phán. Trên thực tế, việc thực hiện tốt các quy định của pháp luật hiện hành về chuẩn bị
xét xử sơ thẩm đã góp phần thiết thực vào việc nâng cao hiệu quả của xét xử sơ thẩm,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của nhà
nước. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, bài viết dưới đây sẽ tìm hiểu các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và qua đó,
đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án dân sự.
NỘI DUNG
I. Những vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
1. Khái niệm về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
Khi các tranh chấp dân sự xảy ra, các chủ thể có quyền tự thỏa thuận với nhau
để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết các tranh chấp, có nhiều
trường hợp các chủ thể không thể tự thỏa thuận với nhau và yêu cầu Tòa án giải quyết.
Từ khi thụ lý vụ án dân sự, Tòa án chính thức xác nhận thẩm quyền và trách nhiệm
của mình trong việc giải quyết vụ án dân sự. Nếu như hòa giải không thành, Tòa án
phải củng cố, hoàn thiện hồ sơ vụ án để đưa vụ án ra xét xử ở tại phiên tòa. Các hoạt
động này của Tòa án được gọi là chuẩn bị xét xử.
Theo Từ điển Tiếng Việt (Nhà xuất bản Đà Nẵng) thì “chuẩn bị” nghĩa là “làm
cho có sẵn cái cần thiết để làm việc gì”. Theo Từ điển thuật ngữ pháp lý, “xét xử” là
“hoạt động do Toà án tiến hành theo pháp luật tố tụng, trong đó Toà án, sau khi
nghiên cứu một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết của vụ án, tiến hành
giải quyết và xử lí vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định cần thiết có liên quan”.
Còn “sơ thẩm”, Từ điển Luật học định nghĩa là “lần đầu tiên đưa ra xét xử vụ án tại
một toà án có thẩm quyền”.
Như vậy, ta có thể đưa ra khái niệm chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự như sau:
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là tạo mọi điều kiện cần thiết (theo quy định của
pháp luật) cho việc xét xử một vụ án lần đầu tại một toà án có thẩm quyền.


1


,

, ra các
1

thì
2

.

nh
thu th

.

quá trình

1

2

2


Có thể nói, giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là giai đoạn rất quan
trọng, tuy không đưa ra những phán quyết như giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
nhưng nó làm tiền đề, cơ sở pháp lý vững chắc đảm bảo cho việc xét xử và ra các phán

quyết của toà án được khách quan, toàn diện và đúng pháp luật.
3. Cơ sở của việc tiến hành giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
Giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự được tiến hành dựa trên ý nghĩa
quan trọng của giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Đồng thời, các công
việc cần thực hiện khi tiến hành giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự như
phân công thẩm phán giải quyết vụ án; thông báo việc thụ lý vụ án; lập hồ sơ vụ án dân
sự và quyết định đưa vụ án ra xét xử,... còn được thực hiện dựa trên những nguyên tắc
bảo đảm quyền tham gia tố tụng của đương sự. Ví dụ như khi lập hồ sơ vụ án, cần đảm
bảo nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự ; Tòa án chỉ có
thể giải quyết một cách chính xác và công bằng khi có đầy đủ các chứng cứ và các tình
tiết của vụ án dân sự đã được làm sáng tỏ. Ngoài ra, việc tiến hành giai đoạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm còn dựa trên cơ sở đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa ; đồng thời đảm
bảo sự bình đẳng giữa các bên đương sự.
II. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án dân sự
1. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
Thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày Tòa án vào số thụ lý vụ án đến ngày
Toà án ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tùy theo tính chất của từng loại vụ án
mà thời hạn chuẩn bị xét xử được quy định khác nhau. Quy định này là sự kế thừa các
quy định của pháp lệnh đã được Nhà nước ta ban hành trước đây quy định về thủ tục
giải quyết các vụ án dân sự, lao động và kinh tế như Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động, Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án kinh tế.
Theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 (BLTTDS), thì tuỳ từng
loại vụ án mà thời hạn chuẩn bị xét xử được quy định khác nhau, cụ thể như sau:
*Đối với các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình (được quy định tại Điều 25 và
Điều 27 BLTTDS) là 4 tháng, kể từ ngày thụ lý. Vì những vụ án này thường có tính
chất phức tạp nên nhà làm luật quy định thời hạn chuẩn bị xét xử tương đối dài.
*Đối với những vụ án kinh doanh, thương mại và lao động (được quy định tại
Điều 29 và 31 BLTTDS) là 2 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. BLTTDS 2004 quy định

như vậy là vì những vụ án trên phát sinh từ các quan hệ rất nhạy cảm, đòi hỏi phải giải
quyết kịp thời.
*Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án
TA có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 2 tháng đối

3


với vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 25 và Điều 27 BLTTDS và 1
tháng đối với vụ án kinh doanh, thương mại và lao động quy định tại Điều 29 và Điều
31 BLTTDS.
Theo Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP thì “Những vụ án có tính chất phức tạp” là những
vụ án có nhiều đương sự, có liên quan đến nhiều lĩnh vực; vụ án có nhiều tài liệu, có
các chứng cứ mâu thuẫn với nhau cần có thêm thời gian để nghiên cứu tổng hợp các tài
liệu có trong hồ sơ vụ án hoặc tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn hoặc cần
phải giám định kỹ thuật phức tạp; những vụ án mà đương sự là người nước ngoài đang
ở nước ngoài hoặc người Việt Nam đang cư trú, học tập, làm việc ở nước ngoài, tài sản
ở nước ngoài cần phải có thời gian uỷ thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự, ngoại giao của
Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài…Tuy nhiên, đối với trường hợp cần
phải chờ ý kiến của các cơ quan chuyên môn, cần phải chờ kết quả giám định kỹ thuật
phức tạp hoặc cần phải chờ kết quả uỷ thác tư pháp mà đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử
(kể cả thời gian gia hạn), thì Thẩm phán căn cứ vào khoản 4 Điều 189 của BLTTDS ra
quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. “Trở ngại khách quan” là những trở
ngại do hoàn cảnh khách quan tác động như: thiên tai, địch họa, nhu cầu chiến đấu,
phục vụ chiến đấu… làm cho Toà án không thể giải quyết được vụ án trong thời hạn
quy định. “Lý do chính đáng” quy định tại khoản 3 Điều 179 của BLTTDS được hiểu
là các sự kiện xảy ra một cách khách quan, không lường trước được như: cần phải có
sự thay đổi, phân công lại người tiến hành tố tụng có tên trong quyết định đưa vụ án ra
xét xử mà người có thẩm quyền chưa cử được người khác thay thế; vụ án có tính chất
phức tạp đã được xét xử nhiều lần ở nhiều cấp Toà án khác nhau, nên không còn đủ

Thẩm phán để tiến hành xét xử vụ án đó mà phải chuyển vụ án cho Toà án cấp trên xét
xử hoặc phải chờ biệt phái Thẩm phán từ Toà án khác đến… nên cản trở Toà án tiến
hành phiên toà trong thời hạn quy định”.
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử tuỳ từng trường hợp, Toà án ra một trong các
quyết định sau đây: công nhận sự thoả thuận của các đương sự; tạm đình chỉ giải quyết
vụ án; đình chỉ giải quyết vụ án hoặc đưa vụ án ra xét xử. Trong thời hạn 1 tháng kể từ
ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên tòa để xét xử vụ án,
trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 2 tháng.
2. Các công việc chuẩn bị xét xử
Từ khi thu lý vụ án dân sự, Toà án chính thức xác nhận thẩm quyền và trách
nhiệm của mình trong việc giải quyết vụ án dân sự. Nếu hòa giải không thành, Toà án
phải củng cố hoàn thiện hồ sơ vụ án để đưa vụ án ra xét xử ở tại phiên tòa. Các hoạt
động này của Toà án được gọi là chuẩn bị xét xử. Các công việc chuẩn bị xét xử chủ
yếu của Toà án bao gồm: phân công Thẩm phán giải quyết vụ án; thông báo việc thụ lý
vụ án; lập hồ sơ vụ án; quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập những người tham

4


gia tố tụng đến tham gia phiên tòa hoặc quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải
quyết vụ án, quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
a. Phân công Thẩm phán giải quyết vụ án
Vì Thẩm phán có vai trò đặc biệt quan trọng, cho nên, trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử, Thẩm phán có thẩm quyền đã thụ lý vụ án phải phân công một Thẩm phán phụ
trách giải quyết vụ án.Việc phân công này là cơ sở để Thẩm phán toàn tâm toàn ý với
vụ án đã được giao, để Thẩm phán thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn được quy
định tại Điều 41 BLTTDS, đảm bảo giải quyết vụ án nhanh chóng, khách quan, đúng
pháp luật.
Theo quy định tại Điều 172 BLTTDS thì: “Trong thời hạn ba ngày làm việc kể
từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Toà án phân công một Thẩm phán giải quyết vụ

án.Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu Thẩm phán được phân công không thể tiếp
tục tiến hành được nhiệm vụ thì Chánh án Toà án phân công Thẩm phán khác tiếp tục
nhiệm vụ; trường hợp đang xét xử mà không có Thẩm phán dự khuyết thì vụ án phải
được xét xử lại từ đầu”.
b. Thông báo việc thụ lý vụ án
Sau khi đã tiến hành các công việc thụ lý, TA phải thông báo bằng văn bản cho
bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết
vụ án để họ biết được vụ án đã được thụ lý. TA cũng phải thông báo cho Viện kiểm sát
cùng cấp về việc TS đã thụ lý vụ án để Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát của
mình đối với việc giải quyết vụ án. Theo quy định của Điều 174 BLTTDS, trong thời
hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, TA phải gửi thông báo cho các cá nhân,
cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc giải quyết vụ án dân sự. Văn bản thông báo phải
có các nội dung sau:
− Ngày, tháng, năm làm văn bản thông báo;
− Tên, địa chỉ Toà án đã thụ lý vụ án;
− Tên, địa chỉ của người khởi kiện;
− Những vấn đề cụ thể người khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết;
− Danh sách tài liệu, chứng cứ người khởi kiện nộp kèm theo đơn khởi kiện;
− Thời hạn người được thông báo phải có ý kiến bằng văn bản nộp cho Toà án đối với
yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu có;
− Hậu quả pháp lý của việc người được thông báo không nộp cho Toà án văn bản về ý
kiến của mình đối với yêu cầu.
Người được thông báo có trách nhiệm nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến của
mình về yêu cầu của nguyên đơn hay người khởi kiện cùng các tài liệu, chứng cứ kèm
theo trong thời hạn nhất định, đó là thời gian 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo.
Trong trường hợp cần gia hạn thì người được thông báo phải có đơn xin gia hạn gửi

5



cho Toà án nêu rõ lý do; nếu việc xin gia hạn là có căn cứ thì Toà án phải gia hạn
nhưng không quá 15 ngày nữa. Người được thông báo có quyền thể hiện quan điểm
của mình về yêu cầu của người khởi kiện trước Toà án là đồng ý hay bác bỏ yêu cầu
này; có quyền yêu cầu Toà án cho xem, sao chụp đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ
kèm theo đơn khởi kiện.
Cùng với việc phải nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu
của người khởi kiện và các chứng cứ, tài liệu kèm theo, theo Điều 176 BLTTDS bị đơn
có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn. Đây là trường hợp bị đơn kiện lại đối
với nguyên đơn, vì vậy Toà án có thể xem xét để giải quyết trong cùng một vụ án để
sớm kết thúc việc giải quyết tranh chấp. Tuy vậy, theo Điều luật này thì yêu cầu phản
tố của nguyên đơn chỉ được Toà án chấp nhận trong các trường hợp sau đây:
+ Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn;
+ Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn
bộ yêu cầu của nguyên đơn;
+ Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn có sự liên quan với nhau và nếu
được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác
và nhanh hơn.
Quy định tại Điều 176 BLTTDS nói trên được hướng dẫn tại Khoản 11 Mục II NQ
02/2006 như sau:
+ Được coi là yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, nếu yêu cầu đó độc lập,
không cùng về yêu cầu mà nguyên đơn yêu cầu Toà án giải quyết. Trường hợp bị đơn
có yêu cầu cùng về yêu cầu của nguyên đơn (như yêu cầu Toà án không chấp nhận yêu
cầu của nguyên đơn hoặc chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn), thì đây là
ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn.
+ Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn là trường hợp bị đơn
có nghĩa vụ đối với nguyên đơn và nguyên đơn cũng có nghĩa vụ đối với bị đơn; do đó,
bị đơn có yêu cầu Toà án giải quyết để bù trừ nghĩa vụ mà họ phải thực hiện theo yêu
cầu của nguyên đơn.
+ Yêu cầu phản tố của bị đơn dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ
yêu cầu của nguyên đơn là trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố lại đối với nguyên

đơn và nếu yêu cầu đó được chấp nhận, thì loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn
bộ yêu cầu của nguyên đơn vì không có căn cứ.
+ Có sự liên quan giữa yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu của nguyên đơn là
trường hợp hai yêu cầu này có mối quan hệ với nhau và nếu được giải quyết trong cùng
một vụ án, thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh chóng hơn.
Theo Điều 177 BLTTDS, trong trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu
có yêu cầu độc lập thì họ cũng phải làm đơn gửi cho TA và phải gửi kèm theo tài liệu,

6


chứng cứ làm căn cứ để chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp như
việc khởi kiện của nguyên đơn. Tuy vậy, họ chỉ có quyền yêu cầu độc lập khi có đủ các
điều kiện sau đây:
+ Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ;
+ Yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết;
+ Yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết
vụ án được chính xác và nhanh hơn.
Việc TA xem xét, giải quyết yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là nhằm bảo đảm cho việc giải quyết các tranh chấp dân sự được nhanh chóng
triệt để, tránh được việc TA phải mở phiên tòa riêng để giải quyết yêu cầu đó trong một
vụ án khác.
c. Lập hồ sơ vụ án dân sự
Để lập hồ sơ vụ án, căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện, TA xác định các
chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án yêu cầu các đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức
khởi kiện cung cấp. Khi nhận được các chứng cứ, tài liệu do các đương sự, cá nhân, cơ
quan, tô chức cung cấp, TA phải đưa chúng vào hồ sơ vụ án. Thủ tục giao nhận các
chứng cứ tài liệu phải được thực hiện đúng theo quy định tại Điều 84 BLTTDS. Các tài
liệu có trong hồ sơ vụ án phải được sắp xếp theo thứ tự nhất định để thuận tiện cho
việc nghiên cứu, sử dụng và phải có danh mục ghi lại các tài liệu trong hồ sơ vụ án.

Trong tố tụng dân sự, các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh cho
yêu cầu của mình. Tuy vậy, trong những trường hợp đương sự không thể tự mình thu
thập được chứng cứ để cung cấp cho TA và có yêu cầu thì TA có thể áp dụng các biện
pháp thu thập chứng cứ do pháp luật quy định để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án
dân sự được đúng đắn. Việc thu thập chứng cứ của TA được thực hiện theo quy định
tại các điều, từ Điều 85 đến 94 BLTTDS.
d. Quyết định đưa vụ án ra xét xử
Khi việc hòa giải vụ án không đạt được kết quả và không có căn cứ để tạm đình chỉ
hoặc đình chỉ giải quyết vụ án thì Toà án phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Thẩm
phán được phân công giải quyết vụ án có thẩm quyền ra quyết định này. Quyết định
này phải có các nội dung theo quy định tại khoản 1 Điều 195 BLTTDS và phải gửi cho
các đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp ngay sau khi ra quyết định. Trong trường hợp
Viện kiểm sát tham gia phiên tòa đối với những vụ án do TA thu thập chứng cứ mà
đương sự có khiếu nại thì TA phải gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp; trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải nghiên cứu và
trả lại hồ sơ cho TA.
Căn cứ vào quyết định đưa vụ án ra xét xử, TA làm giấy triệu tập những người tham
gia tố tụng đến tham gia phiên tòa. Trường hợp nhận được yêu cầu thay đổi những

7


người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng trước khi mở phiên tòa thì tùy
từng trường hợp Chánh án TA hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát sẽ xem xét ra quyết
định.
III. Thực trạng của công tác chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và một số kiến
nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này.
1. Thực trạng của công tác chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
Theo báo cáo tổng kết của ngành Tòa án thì số vụ án dân sự được giải quyết
ngày càng tăng. Nếu như trong năm 2005 Các Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết

115186 vụ việc về dân sự, hôn nhân gia đình trong số 134332 vụ việc đã thụ lý, giải
quyết các tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh thương mại và yêu cầu tuyên bố phá sản
là 1035 vụ việc trong số 1260 vụ việc đã thụ lý, giải quyết các tranh chấp, yêu cầu về
lao động là 812 vụ việc trong số 950 vụ việc đã thụ lý thì đến năm năm 2009, Tòa án
nhân dân các cấp đã thụ lý 214.174 vụ việc; đã giải quyết, xét xử được 194.358 vụ
việc, đạt tỉ lệ 90,7%. Trong đó, giải quyết, xét xử theo thủ tục sơ thẩm đã lên đến
177,417 vụ việc.
Có thể thấy, mặc dù các vụ việc mà tòa án phải thụ lý và giải quyết là rất lớn, số
lượng tăng lên theo hàng năm, trong đó có nhiều tranh chấp phức tạp nhưng các tòa án
vẫn cố gắng khắc phục khó khăn, áp dụng đúng các quy định của pháp luật TTDS, làm
tốt việc hướng dẫn, giải thích pháp luật cho các bên đương sự về quyền và nghĩa vụ
của họ, tích cực xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp đương sự có yêu
cầu và tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan, nên số lượng lớn các vụ việc
dân sự đã được giải quyết theo thời hạn quy định của pháp luật, từng bước khắc phục
việc giải quyết các vụ án tồn đọng. Tỉ lệ các bản án, các quyết định bị hủy, sửa cũng
giảm dần qua các năm. Bên cạnh đó, do Tòa án làm tốt công tác hòa giải trong quá
trình giải quyết các vụ việc dân sự nên các vụ việc dân sự được hòa giải thành đạt tỉ lệ
khá cao. Năm 2008, tỉ lệ hòa giải thành đạt 44%, năm 2009 tỉ lệ là 45% tăng 0.5% so
với 2008.
Kết quả trên cho thấy Tòa án đã hoàn thành khá tốt nhiệm vụ giải quyết các vụ
án, trong đó công tác chuẩn bị xét xử đóng vai trò không nhỏ, việc chấp hành quy định
về thời hạn chuẩn bị xét xử được tòa án thực hiện khá nghiêm túc, nhưng bên cạnh đó
vẫn còn một số hạn chế như: xác định sai quan hệ pháp luật có tranh chấp dẫn đến việc
áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án không chính xác; xác định sai tư cách người
tham gia tố tụng, hoặc bỏ sót người tham gia tố tụng; công tác chuẩn bị xét xử không
chu đáo nên không đưa được quyết định đưa vụ án ra xét xử; nhiều phiên tòa chuẩn bị
cơ sở vật chất chưa tốt nên không đạt được kết quả như mong muốn, thậm chí phải
hoãn phiên tòa…
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có thể kể đến một số lý do sau:


8


a. Quy định pháp luật tố tụng dân sự về chuẩn bị xét xử còn một số hạn chế
+ Chưa có quy định về chế tài đối với cơ quan, tổ chức cá nhân từ chối cung cấp
tài liệu, chứng có có liên quan đến việc giải quyết vụ án. Mặc dù, Điều 5 BLTTDS quy
định cá nhân, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm cung cấp chứng cứ cho đương sự. Tuy
nhiên, thực tiễn cho thấy, không phải lúc nào việc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức
cung cấp chứng cứ của đương sự cũng được thực hiện.
+ Theo quy định của BLTTDS hiện nay, việc giao nộp chứng cứ có thể được
thực hiện bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng, không quy định về thời hạn giao
nộp chứng cứ của các đương sự. Có ý kiến cho rằng đây là điều bất cập và thiếu tính
thống nhất, BLTTDS quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử của Tòa án nhưng lại không
quy định về thời hạn giao nộp chứng cứ của đương sự.
+ Trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm, các bên đương sự cũng có quyền trao
đổi tài liệu, nghiên cứu hồ sơ vụ án đề xây dựng những lập luận bảo vệ chứng cứ của
mình hay phản bác những chứng cứ của bên kia? Việc trao đổi các chứng cứ, tài liệu
giữa các đương sự là trách nhiệm của các bên đương sự dưới sự hỗ trợ của TA hay
trách nhiệm của TA cung cấp các tài liệu cho đương sự khi có yêu cầu? Xác định rõ
trách nhiệm để xây dựng quy trình và cơ chế thực hiện có hiệu quả. Nếu quy định các
bên đương sự có trách nhiệm trao đổi các chứng cứ, tài liệu cho nhau thì TA chỉ có vai
trò hỗ trợ thông báo có những danh mục chứng cứ tài liệu các bên phải trao đổi trong
một thời hạn nhất định.Nếu xác định trách nhiệm của TA thì việc thông báo và cho
phép đọc, ghi chép, sao chụp các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đối với các
đương sự chỉ khi đương sự có yêu cầu. Trường hợp có các chứng cứ mới do đương sự
bổ sung sau thì TA có nghĩa vụ thông báo cho bên kia biết hay không? Như vậy, quy
định này cần được làm rõ hơn.
+ Theo pháp luật TTDS hiện hành, khi có quyết định đưa vụ án dân sự ra xét xử
là đánh dấu kết thúc chuẩn bị xét xử sơ thẩm, các đương sự hoàn toàn không được biết
đến mức độ chuẩn bị hồ sơ vụ án của TA đến đâu, có thể đưa ra xét xử được hay chưa?

Theo pháp luật TTDS của một số nước trên thế giới (Pháp, Liên bang Nga) thì
việc chuẩn bị xét sử sơ thẩm có vai trò hết sức quan trọng nên quy định khi kết thúc
giai đoạn này, Thẩm phán tổ chức phiên họp sơ bộ hay phiên họp “tiền xét xử” để các
đương sự thảo luận yêu cầu của họ và biết về danh mục các chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án. Các đương sự không có quyền yêu cầu trao đổi chứng cứ nữa và các vấn đề khác
trước khi ấn định ngày mở phiên tòa. Phiên họp sơ bộ sẽ giúp cho Thẩm phán xem xét
lại toàn bộ hồ sơ vụ án, các đương sự chốt lại chứng cứ đã biết của các bên để chuẩn bị
cho quá trình tranh luận tại phiên tòa một cách có hiệu quả.

9


+ Về thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các vụ án thương mại, có ý kiến cho rằng
quy định như hiện nay có phần cứng nhắc và áp đặt3. Thực tiễn xét xử cho thấy các
Tòa án thường không thể đạt được yêu cầu này. Vì vậy, cần sửa đổi bổ sung.
b. Về tổ chức và cán bộ của toà án
Số lượng các vụ án dân sự mà ngành Toà án phải giải quyết ngày càng nhiều trong khi
nguồn tuyển cán bộ và bổ nhiệm Thẩm phán ở nhiều địa phương còn thiếu tạo áp lực
lớn trong công tác. Trong những năm qua, số lượng các loại án gia tăng mỗi năm
khoảng 15%, một thẩm phán xét xử 5 vụ/tháng; nhưng do thiếu cán bộ nên toà án ở
một số địa phương bị quá tải dẫn đến số lượng các vụ án tồn đọng không được giải
quyết dứt điểm, có thẩm phán phải giải quyết đến 10 vụ/ tháng – điều này đã dẫn đến
những sai sót không đáng có về nghiệp vụ4. Bên cạnh đó, tinh thần trách nhiệm, trình
độ chuyên môn nghiệp vụ của một bộ phận cán bộ công chức Toà án chưa đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình hiện nay, một số cán bộ còn chưa vững vàng về
bản lĩnh chính trị nghề nghiệp, còn thiếu ý thức rèn luyện tư cách, phẩm chất đạo đức,
vi phạm đạo đức, nguyên tắc nghề nghiệp dẫn tới hiệu quả công tác chưa cao. Trình độ
ngoại ngữ, tin học, kiến thức pháp luật về dân sự trong nước cũng như quốc tế của đội
ngũ Thẩm phán nhìn chung còn hạn chế.
c. Về hoạt động hỗ trợ Toà án giải quyết các vụ án dân sự của các cơ quan tổ

chức liên quan…
Trong những năm qua, Nhà nước đã rất quan tâm đến tổ chức và hoạt động bổ trợ tư
pháp, như sự ra đời của Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTCVKSNDTC-TANDTC hướng dẫn một số quy định về trợ giúp pháp lý trong hoạt động
tố tụng. Tuy nhiên, cho đến nay tổ chức và hoạt động bổ trợ tư pháp vẫn còn một số
tồn tại nhất định. Ví dụ, hiện nay quan hệ tranh chấp đất đai xảy ra phổ biến, tính chấy
ngày càng phức tạp đòi hỏi phải có sự cung cấp thông tin từ cơ quan chức năng trong
việc xác minh nguồn gốc đấy, quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất…nhưng khi có công văn yêu cầu cung cấp thông tin, các cơ quan chức năng
thường chậm trễ trong việc thực hiện yêu cầu gây tâm lý e ngại cho Thẩm phán mỗi
khi cần xác minh thông tin. Khi toà án triệu tập tham gia tố tụng, không ít các cá nhân,
tổ chức này không chấp hành…gây khó khăn cho công tác chuẩn bị xét xử của toà án.
Hiện nay, việc giải quyết các tranh chấp dân sự vẫn dường như được coi chỉ thuộc về
cơ quan tư pháp còn các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức xã hội..đứng ngoài hoạt
động này.
d. Một số nguyên nhân khác.

3
4

Báo cáo tổng kết 5 năm của ngành Toà án.
Tài liệu Hội nghị triển khai công tác năm 2008 của ngành Toà án nhân dân, Hà Nội.

10


Một số nguyên nhân khác có thể kể đến như về cơ sở vật chất, phương tiện đảm
bảo hoạt động tố tụng…Một số Toà án vẫn phải thuê hoặc mượn trụ sở làm việc như
TAND tỉnh Lai Châu, Hậu Giang. Tình trạng thiếu máy vi tính, máy phô tô, máy
fax…còn nhiều
2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác chuẩn bị xét xử sơ thẩm

vụ án dân sự
a) Hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng dân sự về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự
+ Bổ sung điều luật về phiên họp sơ bộ
Trong Chương XIII, phần thứ hai quy định về hòa giải và chuẩn bị xét xử sơ
thẩm bổ sung điều luật mới: “ Điều...Phiên họp sơ bộ. Thẩm phán tổ chức phiên họp
sơ bộ. Thành phần phiên họp gồm Thẩm phán chủ trì, các đương sự, tại phiên họp
Thẩm phán thông báo quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm, chốt lại các yêu cầu của
đương sự, chốt lại các chứng cứ do các bên cung cấp. Trong phiên họp các đương sự
có quyền phát biểu, trao đổi các ý kiến sẽ tranh luận tại phiên tòa” để Thẩm phán dự
liệu được các khả năng thực tế có thể xảy ra tại phiên tòa.
+ Bổ sung điều luật về trách nhiệm thông báo tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ
án.
Cần quy định Tòa án có trách nhiệm phải thông báo cho các bên đương sự các
tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để các đương sự biết để có thể yêu cầu được sao
chụp, nghiên cứu chuẩn bị cho tranh tụng tại phiên tòa.
+ Bổ sung điều luật về thời điểm cụ thể giao nộp chứng cứ của các đương sự.
Một số Tòa án đề xuất bổ sung quy định về thời gian giao nộp chứng cứ do Thẩm phán
được phân công ấn định nhưng không được vượt quá thời gian ra Quyết định đưa vụ án
ra xét xử ở cấp sơ thẩm, trừ trường hợp có trở ngại khách quan mà không thể giao nộp
chứng cứ đúng thời hạn. Chúng ta cũng có thể sửa đổi theo hướng, “đương sự có trách
nhiệm giao nộp chứng cứ đến thời điểm kết thúc thủ tục hỏi tại phiên tòa sơ thẩm, nếu
các bên từ chối hoặc không cho tiếp cận thông tin cần thiết không có lý do chính đáng
thì phải chịu hậu quả của việc vi phạm cung cấp chứng cứ.Nếu đương sự vi phạm cung
cấp chứng cứ cho TA ở cấp sơ thẩm để xuất trình ở cấp phúc thẩm thì chỉ được chấp
nhận nếu chứng minh được hoàn toàn không biết có chứng cứ đó trong giai đoạn sơ
thẩm”.
+ Bổ sung quy định về chế tài cụ thể để áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức
cố tình không cung cấp tài liệu, chứng cứ hoặc kéo dài thời gian thực hiện yêu cầu khi
đương sự cản trở việc xét xử.

+ Đối với quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử

11


Sửa đổi lại thời hạn chuẩn bị xét xử của các vụ án thương mại, lao động bằng
với các vụ án dân sự và có giải pháp gia hạn “mềm” hơn, không nên khống chế số lần
gia hạn và tổng số thời gian được gia hạn, với mỗi lần ký quyết định gia hạn, Chánh án
Tòa án đang thụ lý giải quyết vụ án đó phải làm rõ lý do chậm trễ, đâu là lý do khách
quan, đâu là lý do chủ quan và yêu cầu Thẩm phán đưa ra các giải pháp khắc phục.
b.Một số kiến nghị khác.
+ Cần tiếp tục nâng câo trình độ chuyên môn của các bộ ngành tòa án và viện kiểm sát.
Đặc biệt là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của thẩm phán vì thẩm phán là người đóng
vai trò quan trọng trong hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Cần phải đẩy
mạnh việc đào tạo, đào tại lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho thẩm phán, cán bộ tư
pháp về mặt chính trị, pháp luật nghiệp vụ xét xử và các kiến thức bổ trợ khác như :
kinh tế, xã hội, ngoại ngữ, tin học…
+ Nhà nước cần có chính sách đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ cán bộ trong ngành tòa
án, viện kiểm sát nhằm hạn chế tình trạng tiêu cực, nâng cao chất lượng giải quyết vụ
án.
+ Tăng cường cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện làm việc cho các tòa án giúp cho
tòa án có những điều kiện tốt hơn trong công tác chuẩn bị xét xử.
+ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục phổ biến pháp luật nhằm nâng cao ý thức
pháp luật trong nhân dân, tạo điều kiện cho hoạt động chuẩn bị xét xửu của tòa án được
tiến hành thuận lợi hơn.
KẾT LUẬN
Cùng với nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng thì các tranh chấp dân sự phát sinh càng nhiều với tính chất đa dạng và phức tạp.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, cũng như tạo điều kiện ổn định phát
triển kinh tế, xã hội; các tranh chấp đó cần được giải quyết kịp thời, đúng đắn. Do đó,

việc sửa đổi, bổ sung BLTTDS và tiến hành các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm nói riêng là điều
cần thiết để đảm bảo lợi ích của mỗi cá nhân,bảo vệ lợi ích quốc gia trong quá trình hội
nhập, kế thừa các quy định của hệ thống pháp luật hiện hành và bảo đảm tính thống
nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, đầy đủ và hiệu quả của hệ thống pháp luật.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

12



×