Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

CƠ sở lý LUẬN về AN SINH xã hội đối với NGƯỜI CAO TUỔI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.67 KB, 61 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ AN SINH XÃ HỘI ĐỐI
VỚI NGƯỜI CAO TUỔI


Cơ sở lý luận
Trên thế giới
Tình hình nghiên cứu về người cao tuổi trên thế giới Tổ
chức Y tế thế giới (WHO) đã đưa ra cảnh báo cho biết, trong
giai đoạn từ năm 2000 đến 2050 trên quy mô toàn cầu, số
người già sẽ nhiều hơn số trẻ em dưới 14 tuổi. Già hoá dân số
sẽ trở thành một vấn đề lớn ở các nước đang phát triển, nơi
mà dân số sẽ bị già hoá nhanh chóng trong nửa đầu của thế kỷ
XXI. Các nước đang phát triển sẽ là nơi có tỉ lệ người cao tuổi
tăng cao nhất và nhanh nhất, theo dự báo số người cao tuổi ở
khu vực này sẽ tăng gấp 4 lần trong vòng 50 năm tới.
Tỷ lệ người cao tuổi theo dự báo sẽ tăng từ 8% lên 19%
vào năm 2025, trong khi đó tỷ lệ trẻ em sẽ giảm từ 33%
xuống 22%. Hơn một nửa dân số tuổi 80+ sống ở những nước
8ang phát triển, dự báo sẽ tăng lên 71% vào năm 2050. Năm
1950, toàn thế giới có 205 triệu người từ 60 tuổi trở lên. Đến
năm 2012, số người cao tuổi tăng lên đến gần 810 triệu người.
Dự tính con số này sẽ đạt 1 tỷ người trong vòng gần 10 năm
nữa và đến năm 2050 sẽ tăng gấp đôi là 2 tỷ người. Có sự
khác biệt lớn giữa các vùng. Ví dụ, năm 2012, Châu Phi có 6


% dân số tuổi từ 60 trở lên, trong khi con số này ở Châu Mỹ
La Tinh và vùng biển Caribe là 10%, ở Châu Á là 11%, Châu
Đại dương là 15%, Nam Mỹ là 19% và Châu Âu là 22%. Đến
năm 2050, dự báo tỷ trọng người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên ở
Châu Phi sẽ tăng lên chiếm 10% tổng dân số, so với 24% ở


Châu Á, 24% ở Châu Đại dương, 25% ở Châu Mỹ La Tinh và
vùng biển Caribe, 27% ở Nam Mỹ và 34% ở Châu Âu.
Tại Hoa Kỳ, phần lớn người cao tuổi đều muốn sống
độc lập đến chừng nào có thể, trong khi nhiều người chỉ yêu
cầu các dịch vụ tối thiểu để đảm bảo sự độc lập của mình thì
những người nhiều tuổi hơn khác lại phụ thuộc vào những
hàng hóa và dịch vụ đặc biệt cho phép họ tồn tại trong cộng
đồng.
Những dịch vụ này trợ giúp việc chăm sóc cá nhân, cung
cấp thuốc, các hoạy động thường ngày và các hoạt động duy
trì sức khỏe. Ngoài ra, các dịch vụ khác được cung cấp cho
người cao tuổi để duy trì hoặc quay trở về cuộc sống độc lập
như các bữa ăn, trông coi nhà cửa, giúp đỡ vệ sinh cá nhân và
đi lại.


Khu vực châu Á, Tại Trung Quốc, hệ thống phúc lợi xã
hội được thiết lập bởi chính phủ, cung cấp các quỹ nhằm đảm
bảo cuộc sống cho những người cao tuổi, trẻ em mồ côi cả
cha lẫn mệ và những người có hoàn cảnh túng quẫn. Để đảm
bảo quyền lợi cho những nhóm đối tượng đặc biệt này, chính
phủ đã ban hành luật về quyền và lợi ích của người cao tuổi.
Bộ luật quy định rằng tại các thành phố, người cao tuổi góa
không có con cái, không có sự giúp đỡ và sống cô đơn sẽ
được giúp đỡ và sinh sống trong những ngôi nhà tập trung đặc
biệt. Tại Thái Lan, là một nước đã bước vào giai đoạn già hóa
với tỷ lệ người cao tuổi chiếm 13% , chính phủ Thái Lan đã
có những chính sách quan tâm đến người cao tuổi khá tốt như:
Tất cả người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên đều được nhận khoản
trợ cấp hàng tháng là 16USD và mức tuổi càng lớn sẽ nhận

được trợ cấp cao hơn.
Bên cạnh đó còn có các quỹ tiết kiệm của người cao tuổi
để hỗ trợ người cao tuổi tham gia sản xuất, tham gia các
phong trào xã hội và có quỹ chăm sóc sức khỏe người cao
tuổi của Bộ Y tế Thái Lan nhằm đảm bảo cung cấp những
quyền lợi cần thiết cho người cao tuổi. Tại Hồng Kông, các
dịch vụ phúc lợi cung cấp cho người cao tuổi ở Hồng Kông


đều được điều hành bởi các tổ chức phi chính Phủ với sự tài
trợ phần lớn từ chính phủ. Chính phủ điều hành một kế hoạch
an sinh xã hội, cung cấp khoản trợ cấp cho những người từ 65
tuổi trở lên và sự giúp đỡi cộng đồng cho những người cao
tuổi thuộc diện nghèo. Trong một xã hội già hóa, tỷ lệ người
cao tuổi tăng nhanh là một thách thức lớn đối với hệ thống
bảo trợ xã hội/an sinh xã hội.
Theo Hiệp hội An sinh Xã hội Quốc tế (ISAA), hơn một
nửa nguồn lực dành cho các chương trình an sinh xã hội được
phân bổ cho phụ cấp hưu trí. Số người về hưu và thời gian
hưởng lương hưu tăng lên, đòi hỏi phải hình thành một
thống lươnghưu dài hạn đủ sống, đang trở thành một sức ép
đối với cả các nước phát triển và đang phát triển. Quá trình
già hóa dân số này sẽ dẫn đến một số tác động như: Tiền trợ
cấp hưu trí và thunhập từ lương hưu sẽ phải chi trả một
khoảng thời gian dài của cuộc sống; Chi phí chăm sóc sức
khỏe sẽ tăng lên; Các mối quan hệ tồn tại giữa các thế hệ sẽ
có thêm nhiều khía cạnh mới.Với các nước phát triển, già hóa
dân số diễn ra từ từ, nhưng các nước này cũng đã vấp phải
những thách thức nảy sinh từ mối quan hệ giữa quy mô dân số
già ngày càng tăng, quy mô dân số lao động giảm dần tạo



thêm áp lực cho quốc gia và người lao động khi phải cân đối
nguồn lực cho tiết kiệm bảo hiểm tuổi già thông qua hệ thống
an sinh xã hội. Các nước đang phát triển cùng phải đương đầu
với hai thách thức: Đầu tư cho phát triển và thích ứng với già
hoá dân số.
Ở các quốc gia phát triển, mối quan tâm hàng đầu về sức
khoẻ là phòng ngừa và điều trị các bệnh không lây nhiễm, mà
chủ yếu mà các bệnh mãn tính (như tim mạch, ung thư, tiểu
đường, rối loạn chuyển hoá, Alzheimer.. trong đó các bệnh
mãn tính trở thành nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và
giảm chất lượng cuộc sống.). Trong khi các quốc gia đang
phát triển vừa phải đối mặt với các bệnh lây nhiễm, suy dinh
dưỡng và cả với sự gia tăng nhanh chóng của các bệnh không
lây truyền trong điều kiện hệ thống chăm sóc sức khoẻ còn
thiếu thốn.
Xoá đói nghèo đối với người cao tuổi là một thách thức
không nhỏ. Tại nhiều quốc gia, những người sống và làm việc
ở nông thôn thường có thu nhập thấp, ít người được hưởng
các chế độ bảo trợ và an sinh xã hội, nếu có thì thường ở mức
rất thấp. Người cao tuổi thường thuộc nhóm những


người nghèo nhất, nhất là phụ nữ cao tuổi. Người cao tuổi,
đặc biệt những người không gia đình là dễ bị tổn thương khi
gặp thiên tai và các tình huống khẩn cấp khác. Đây cũng là
thách thức đặc biệt đối với các nước đang phát triển với phần
lớn người cao tuổi sống tại khu vực nông thôn.
Thêm vào đó, sự gia tăng người cao tuổi cũng đặt ra các

thách thức như: bảo đảm môi trường sống thích hợp cho
người cao tuổi để giúp họ có thể tham gia đầy đủ vào cộng
đồng. Vấn đề thiết kế và xây dựng nhà ở và các công trình
công cộng thuận tiện với người cao tuổi, bảo đảm cho người
cao tuổi được hưởng lợi ích do sự phát triển kỹ thuật đem lại.
Những dịch vụ độc đáo phục vụ người già trên thế giới.
Để làm phong phú thêm đời sống tinh thần của người già, một
số nước đã có các dịch vụ phụ vụ lý thú.
-Hung-ga-ri – Mũ đi xe của người già: Ở Hung-ga-ri,
mỗi công dân khi bước sang tuổi già thường được cấp một
chiếc “mũ tuổi già”. Khi đi ra đường, đội mũ này lên đầu, tất
cả các phương tiện giao thông công cộng không được phép
thu vé.


Tây Ban Nha - “Nhà trẻ” của người già: Ở thủ đô Madrit
của Tây Ban Nha, người ta lập ra “nhà trẻ lứa tuổi thứ ba”
chuẩn bị cho người già tuổi từ 65 trở lên. Người già “nhập
nhà trẻ” này được chia thành lớp buổi sáng và lớp buổi chiều,
có người hàng ngày chuyên đưa đi, đón về. Buổi sáng
trước khi đi học, họ cùng ăn bữa cơm đoàn kết".
Thụy Sỹ - Trường đại học của người già: Đáp ứng yêu
cầu của người già, chính phủ Thụy Sỹ đã cho mở một trường
đại học của người già. Sinh viên của trường này, người trẻ
nhất là 60 tuổi, người già nhất là 80 tuổi. Trong trường đại
học này, học viên tự lựa chọn chương trình học, không
làm bài tập và càng không phải thi cử.
Nhật Bản - Công viên của người già: Ở Nhật, người già
ngày càng nhiều, trẻ em ngày càng ít đi. Do vậy, chính phủ
Nhật đã giành phần lớn các trò chơi trong công viên như: đu

quay, cầu bập bênh, cầu trượt... của trẻ em, nay sửa lại phục
vụ người già, tạo nhiều sân chơi cho người già. Nhật Bản Nhà tập thể màu xanh:Các xí nghiệp lớn của Nhật đã cố
gắng hết sức để xây dựng các nhà dưỡng lão theo kiểu "nhà
tập thể màu xanh" với các trang, thiết bị tốt nhất, hoàn hảo


nhất, chế độ quản lý tốt nhất để thu hút người già đến dưỡng
lão. Trước mắt, "nhà tập thể màu xanh" được chia thành 4 loại
: đô thị, vùng ngoại ô, điền viên, khu hưu nhàn, trong đó
loại hình đô thị được hoan nghênh nhiều nhất.
Rumani - Khách sạn cho người già: Ở vùng ngoại ô thủ
đô Bucaret của Rumani, có một “khách sạn người già” nhận
các cụ tuổi từ 70 trở lên vào dưỡng lão. Trước khi nhập
“khách sạn” này, khách phải trải qua một lần tắm bằng nước
tẩy rửa thảo dược đặc biệt, để khi ở khách sạn cảm thấy vui
vẻ, thoải mái dễ chịu.
- Tại Việt Nam
Đã có một số công trình nghiên cứu về việc thực hiện
các chính sách an sinh xã hội đối với người cao tuổi, nhưng
chưa có một nghiên cứu nào đi đến chi tiết cụ thể một vấn đề.
Chưa đi sâu vào vấn đề nghiên cứu chính như việc thực hiện
chính sách an sinh xã hội dành cho người cao tuổi mà mới chỉ
đưa ra các chính sách chung trên địa bàn.
Nghiên cứu về người cao tuổi không phải là một đề tài
mới lạ, trong nhiều năm qua đã có nhiều công trình nghiên


cứu khoa học, những đề tài bài viết và những chương trình dự
án có liên quan đến người cao tuổi.
-Theo Bùi Thế Cường trong cuốn sách “ Trong miền an

sinh xã hội –những nghiên cứu về người cao tuổi Việt Nam”
xuất bản năm 2005, nghiên cứu người cao tuổi trong nghiên
cứu xã hội ở Việt Nam bắt đầu từ những năm 1970, các nhà y
khoa là những người đầu tiên khai phá lĩnh vực nghiên cứu y
học về người cao tuổi. Năm 1970, thành lập chương trình
Nghiên cứu Y học Tuổi già và mười năm sau trở thành đơn vị
nghiên cứu Y học Tuổi già của Bộ Y tế.
Năm 1996 -1997 có hai cuộc điều tra được thực hiện tại
hai khu vực với 930 người từ 60 tuổi trở lên ở Hà Nội và 4
tỉnh lân cận vào năm 1996 (Bùi Thế Cường,1996) và ở miền
Nam với 840 người cao tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh cùng
6 tỉnh thành lân cận năm 1997. Cuộc điều tra thu thập
các thông tin về tuổi, giới tính, nghề nghiệp, cách sắp xếp
cuộc sống hộ gia đình...
- Từ năm 2000 trở đi cũng có nhiều nghiên cứu, bài viết
về người cao tuổi được tiến hành, có thể kể đến công trình
nghiên cứu: Năm 2001 Tổ chức


Hỗ trợ quốc tế người cao tuổi (HAI) đã có cuộc nghiên
cứu về “Hoàn cảnh của người cao tuổi nghèo Việt Nam” tại 5
điểm là khu ổ chuột TP Hồ Chí Minh, một làng người
H’mong tại tỉnh Lào Cai, một làng người Kh’me ở tỉnh Sóc
Trăng, một làng người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận và một làng
người Kinh ở tỉnh Phú Yên. Nghiên cứu trình bày về những
thông tin về hoàn cảnh của người cao tuổi nghèo, về những
đóng góp chưa được biết đến của họ và những mối quan tâm
cũng như kinh nghiệm về nghèo khổ và bị phân biệt của họ.
Nghiên cứu sử dụng phương pháp có sự tham gia để khuyến
khích người dân nông thôn nghèo, học vấn thấp có thể trao

đổi cởi mở bằng ngôn ngữ và nhận thức của chính họ.
Năm 2004 TW Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tiến
hành điều tra ở 7 tỉnh thành trên các vùng miền của cả nước
với 557 phụ nữ từ 50 tuổi trở lên được phỏng vấn về các
thông tin liên quan đến nhu cầu của phụ nữ cao tuổi và nhận
thức của các cấp Hội phụ nữ về các vấn đề liên quan đến NCT
trong cộng đồng. Cuộc nghiên cứu về thực trạng bạo lực gia
đình tiến hành tại 3 tỉnh Quảng Trị, Phú Yên và Đắk Lắk của
Viện nghiên cứu Người cao tuổi do Tiến sĩ Nguyễn Thế Huệ
chủ biên. Điều tra năm 2007 của Ủy ban Quốc gia Khảo sát


đời sống người cao tuổi tại 72 xã thuộc 8 tỉnh, thành phố
với 2.878 người cao tuổi, các thông tin thu thập về tình hình
sức khỏe, đời sống vật chất, việc làm, phát huy vai trò người
cao tuổi tại địa phương.
Trong cuốn " Người cao tuổi và các mô hình chăm sóc
người cao tuổi ở Việt Nam" một công trình nghiên cứu phối
hợp giữa Ủy ban dân số, Gia đình và Trẻ em với Viện nghiên
cứu Truyền thống và phát triển năm 2008 – 2009. Đây là tập
hợp nghiên cứu được thực hiện trên 3 thành phố Hà Nội, Đà
Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh, với các nhóm đối tượng
như: nhóm người cung cấp dịch vụ chăm sóc người cao tuổi,
người sử dụng dịch vụ chăm sóc người cao tuổi, cán bộ địa
phương và cộng đồng. Bên cạnh đó Viện Nghiên cứu Truyền
thống và Phát triển còn tiếp tục triển khai nghiên cứu sâu hơn
thông qua quá trình khảo sát các mô hình chăm sóc người cao
tuổi tại Huế và Hà Nội, trong đó đặc biệt đã tổ chức nhiều
cuộc gặp gỡ, trao đổi và tọa đàm với đại diện các nhóm xã hội
khác nhau, nhằm hoàn thành tốt nhất cho cuộc nghiên cứu.

Theo các tác giả của công trình nghiên cứu, người cao tuổi
không còn là một vấn đề mới, tuy nhiên trong bối cảnh toàn
cầu hóa và mở rộng giao lưu văn hóa thì quan tâm và nghiên


cứu người cao tuổi là một nhu cầu không thể thiếu. Đặc biệt
trong những năm gần đây nhiều loại hình Dịch vụ chăm sóc
người cao tuổi được hình thành và hoạt động, đặc biệt là các
mô hình tư nhân, liên kết...đang phát triển khá mạnh tuy nhiên
còn chưa có đầu tư hoặc chưa có sự quan tâm của các cấp.
Trong Báo cáo tổng quan về chính sách chăm sóc người
già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam (2009) cho
thấy: Nhu cầu chăm sóc y tế và xã hội của người cao tuổi Việt
Nam là rất lớn trong khi những điều kiện tự thân của người
cao tuổi Việt Nam có những đặc trưng rất hạn chế. Ví dụ như:
Tỷ lệ người cao tuổi sống độc thân tương đối cao ở cả 3
miền Bắc, Trung, Nam - 14,2% dẫn đến hạn chế cả về hỗ trợ
kinh tế, tinh thần từ phía gia đình, người thân và không có
người trợ giúp trong sinh hoạt hàng ngày. Về tình trạng kinh
tế, thu nhập của người cao tuổi còn rất thấp, hầu như không
có nguồn tiết kiệm tích lũy từ lúc còn trẻ khỏe hơn. Tình hình
đặc biệt khó khăn ở các vùng nông thôn và miền núi.
Gần đây nhất năm 2011, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam phối hợp cùng Trung ương Hội Người cao tuổi
Việt Nam, Viện nghiên cứu Y


– Xã hội học và Công ty Nghiên cứu và Tư vấn Đông
Dương tổ chức “Điều tra quốc gia về người cao tuổi Việt
Nam” (VNAS), đây là một phần của dự án “Tăng cường các

quyền của người cao tuổi thiệt thòi tại Việt Nam” được
triển khai bởi Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Kết quả Điều
tra quốc gia về người cao tuổi Việt Nam lần đầu tiên được
công bố là một cơ sở quan trọng cho các hoạt động nghiên
cứu và vận động chính sách đối với người cao tuổi Việt Nam.
VNAS thu thập số liệu từ tháng 10 - 12/2011 tại 12 tỉnh, thành
phố đại điện cho 6 vùng sinh thái của Việt Nam (bao gồm
Thái Nguyên, Hưng Yên, Thanh Hóa, Hà Nội, Nam Định,
Huế, Đắk Lắk, Đồng Nai, Sóc Trăng, Tiền Giang và TP. Hồ
Chí Minh). Hơn 4.000 người đại diện cho nhóm dân số
cận cao tuổi và cao tuổi (từ 50 tuổi trở lên) đã được phỏng
vấn trong cuộc điều tra này. Số liệu điều tra mô tả các đặc
điểm kinh tế, xã hội, tình hình sức khỏe, xu hướng bệnh tật,
đời sống vật chất, tinh thần, nhu cầu chăm sóc và được
chăm sóc cũng như việc tiếp cận với các chế độ an sinh xã hội
và dịch vụ y tế của người cao tuổi Việt Nam.
Người cao tuổi được gia đình và xã hội tôn trọng và có
đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất


nước. Tuy nhiên, các thống kê và nghiên cứu gần đây cho
thấy người cao tuổi vẫn thuộc nhóm dân số dễ bị tổn thương
và nghèo nhất. Việc xây dựng hệ thống số dữ liệu, số liệu có
tính đại diện quốc gia hết sức quan trọng đối với việc nghiên
cứu sâu tình hình đời sống vật chất, tinh thần và sức khỏe của
người cao tuổi để từ đó đề xuất và thực hiện các chính sách
thích hợp với quá trình già hóa dân số và cải thiện cuộc sống
cho người cao tuổi.
Tóm lại: Tuy đã có nghiên cứu về người cao tuổi nhưng
vẫn còn khiêm tốn và hạn hẹp nhất là trong giai đoạn Việt

Nam sắp bước vào thời kỳ dân số gìa, vì vậy việc trợ giúp xã
hội cho người cao tuổi cần được chú trọng. Luận văn nghiên
cứu vấn đề trợ giúp cho người cao tuổi tại cộng đồng sẽ bổ
sung thêm vào những nghiên cứu về người cao tuổi thêm
phong phú hơn.
- Những vấn đề chung về an sinh xã hội
- Khái niệm an sinh xã hội
Trong thực tiễn, do sự đa dạng về nội dung, phương thức
và góc độ tiếp cận nên hiện nay còn có nhiều quan điểm khác
nhau về ASXH.


Theo Ngân hàng Thế giới (WB): ASXH là những biện
pháp công cộng nhằm giúp cho các cá nhân, hộ gia đình và
cộng đồng đương đầu và kiềm chế được nguy cơ tác động đến
thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thương và những bấp bênh
thu nhập.
Theo quan niệm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO):
ASXH là hình thức bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành
viên của mình thông qua một số biện pháp được áp dụng rộng
rãi để đương đầu với những khó khăn, các cú sốc về kinh tế
và xã hội làm mất hoặc suy giảm nghiêm trọng thu nhập do
ốm đau, thai sản, thương tật do lao động, mất sức lao động
hoặc tử vong, cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia
đình nạn nhân có trẻ em.
Hiệp hội An sinh quốc tế (ISSA) coi ASXH là thành tố
của hệ thống chính sách công liên quan đến sự bảo đảm an
toàn cho tất cả các thành viên xã hội chứ không chỉ có công
nhân. Những vấn đề mà ISSA quan tâm nhiều trong hệ thống
ASXH là chăm sóc sức khoẻ thông qua bảo hiểm y tế; hệ

thống BHXH, chăm sóc tuổi già; phòng chống tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp; trợ giúp xã hội.


Ở Việt Nam, mặc dù ASXH là một lĩnh vực còn nhiều
mới mẻ nhưng cũng đã dành được sự quan tâm của nhiều học
giả và các nhà quản lý nghiên cứu về vấn đề này.
Theo GS Hoàng Chí Bảo thì: ASXH là sự an toàn của
cuộc sống con người, từ cá nhân đến cộng đồng, tạo tiền đề
và động lực cho phát triển con người và xã hội. ASXH là
những đảm bảo cho con người tồn tại (sống) như một con
người và phát triển các sức mạnh bản chất người, tức là nhân
tính trong hoạt động, trong đời sống hiện thực của nó như
một chủ thể mang nhân cách
Theo PGS.TS Nguyễn Hải Hữu thì "ASXH là một hệ
thống các cơ chế, chính sách, biện pháp của Nhà nước và xã
hội nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã hội đối phó với
các rủi ro, các cú sốc về kinh tế - xã hội làm cho họ có nguy
cơ suy giảm, mất nguồn thu nhập do ốm đau, thai sản, tai
nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả không còn sức lao động hoặc
vì những nguyên nhân khác quan rơi vào hoàn cảnh nghèo
khổ và cung cấp các dịch vụ sức khoẻ cho cộng đồng, thông
qua hệ thống mạng lưới về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và
trợ giúp xã hội


GS.TS Mai Ngọc Cường lại cho rằng, để thấy hết được
bản chất, chúng ta phải tiếp cận ASXH theo cả nghĩa rộng và
nghĩa hẹp của khái niệm này.
+ Theo nghĩa rộng: ASXH là sự đảm bảo thực hiện các

quyền để con người được an bình, đảm bảo an ninh, an toàn
trong xã hội
+ Theo nghĩa hẹp: ASXH là sự đảm bảo thu nhập và một
số điều kiện thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng
đồng khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do họ bị giảm hoặc
mất khả năng lao động hoặc mất việc làm; cho những người
già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người yếu
thế, người bị thiên tai địch hoạ
"Chiến lược ASXH giai đoạn 2011 – 2020”ghi nhận:
“An sinh xã hội là sự bảo đảm mà xã hội cung cấp cho mọi
thành viên trong xã hội thông qua việc thực thi hệ thống các
cơ chế, chính sách và biện pháp can thiệp trước các nguy cơ,
rủi ro có thể dẫn đến suy giảm hoặc mất đi nguồn sinh kế”
Trong bài "Đảm bảo ngày càng tốt hơn ASXH và phúc
lợi xã hội là một nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011 – 2020” Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng


cho rằng "ASXH và PLXH là hệ thống các chính sách và giải
pháp nhằm vừa bảo vệ mức sống tối thiểu của người dân
trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội
và môi trường; vừa góp phần không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân"
Trên cơ sở phân tích các quan điểm về ASXH đã có, tôi
cho rằng: An sinh xã hôi là những can thiệp của Nhà nước
và xã hội bằng các biện pháp kinh tế để hạn chế, phòng
ngừa và khắc phục rủi ro cho các thành viên trong cộng
đồng do bị mất hoặc giảm thu nhập bởi các nguyên nhân
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật,
tuổi già và chết; đồng thời, bảo đảm chăm sóc y tế và trợ

cấp cho các gia đình đông con.
Bản chất của ASXH là tạo ra lưới an toàn gồm nhiều
tầng, nhiều lớp cho tất cả các thành viên trong trường hợp bị
giảm, bị mất thu nhập hay khi gặp những rủi ro xã hội khác.
Chính sách ASXH là một chính sách xã hội cơ bản của Nhà
nước nhằm thực hiện chức năng phòng ngừa, hạn chế và
khắc phục rủi ro, bảo đảm an toàn thu nhập và cuộc sống cho


các thành viên trong xã hội do đó nó vừa có tính kinh tế, vừa
có tính xã hội và nhân đạo sâu sắc.

- Khái niệm người cao tuổi
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về người cao tuổi.
Theo quan điểm y học: Người cao tuổi là người ở giai
đoạn già hóa gắn liền với việc suy giảm các chức năng của cơ
thể Theo WHO: Người cao tuổi phải từ 70 tuổi trở lên. Một số
nước phát triển như Đức, Hoa Kỳ… lại quy định người cao
tuổi là những người từ 65 tuổi trở lên. Quy định ở mỗi nước
có sự khác biệt là do sự khác nhau về lứa tuổi có các biểu hiện
về già của người dân ở các nước đó khác nhau. Những nước
có hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe tốt thì tuổi thọ và sức
khỏe của người dân cũng được nâng cao. Do đó, các biểu hiện
của tuổi già thường đến muộn hơn. Vì vậy, quy định về tuổi
của các nước đó cũng khác nhau.
Về mặt pháp luật: Luật Người cao tuổi Việt Nam năm
2010 quy định: Người cao tuổi là “Tất cả các công dân Việt
Nam từ 60 tuổi trở lên”. Theo luật lao động: Người cao tuổi là



những người từ 60 tuổi trở lên (với nam), từ 55 tuổi trở lên
(với nữ) Tuy nhiên quan niệm này có thể thay đổi theo thời
gian khi điều kiện về kinh tế và tuổi thọ trung bình thay đổi.
- Một số khái niệm liên quan
Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một
phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất
thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động bệnh nghề
nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết , trên cơ sở
đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong
lĩnh vực chăm sóc sức khỏe không vì lợi ích lợi nhuận do nhà
nước tổ chức thực hiện và các đối tượng đóng góp theo quy
định của bảo hiểm y tế.
Trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ thêm của nhà nước dành
cho các nhóm đối tượng có hoàn cảnh khó khăn nhằm hướng
tới bảo đảm các nhu cầu tối thiểu giúp họ phát huy được khả
năng tự lo liệu cho cuộc sống của bản thân và gia đình họ.
- Vai trò của an sinh xã hội đối với người cao tuổi


Vai trò của an sinh xã hội đối với NCT là việc Nhà nước
thực hiện các biện pháp nhằm trợ giúp NCT không bị rơi vào
cảnh nghèo khổ, bần cùng trước những tác động xấu từ môi
trường bên ngoài hay bởi chính những biến đổi tiêu cực về
tình trạng sức khỏe của những đối tượng này.
An sinh xã hội đối với NCT là sự gắn bó chặt chẽ cả
hình thức đóng - hưởng và hình thức không dựa trên nguyên
tắc đóng góp. Đối với NCT thuộc lĩnh vực an sinh xã hội cho
khu vực phi chính thức (phi kết cấu), NCT là những người có
thu nhập thấp, không ổn định vì vậy tính bền vững và ổn định

về tài chính cho việc thực hiện an sinh xã hội là không cao.
An sinh xã hội đối với NCT có vai trò góp phần ổn định chính
trị; đồng thời góp phần thực hiện công bằng xã hội và bảo
đảm phát triển kinh tế - xã hội bền vững, cụ thể như sau:
Thứ nhất, khắc phục những khiếm khuyết xảy ra trong
thời kỳ khủng hoảng và tiêu điều của chu kỳ phát triển của
nền kinh tế thị trường; giúp Nhà nước thực hiện mục tiêu phát
triển kinh tế bền vững. Cụ thể là tỷ lệ người cao tuổi ngày
càng gia tăng tạo nên gánh nặng cho quỹ hưu trí


Khi dân số cao tuổi chiếm tỷ lệ cao trong tổng dân số
cũng đồng nghĩa với tỷ lệ tham gia lực lượng lao động có xu
hướng giảm đi và số người sau 60 tuổi sẽ tăng lên và sống lâu
hơn. Như vậy, số người làm ra của cải vật chất cho xã hội sẽ
có xu hướng giảm đi và số người thụ hưởng sẽ có xu hướng
gia tăng. Điều này ở một khía cạnh nào cũng tạo ra “gánh
nặng” cho quỹ hưu trí quốc gia khi phải chi trả lương hưu
nhiều hơn và dài thời gian hơn, trong khi đó số người đóng
góp có xu hướng giảm đi tương đối so với số người thụ hưởng
(do hệ quả của mức sinh thấp).
Thứ hai, ASXH sẽ góp phần giảm bớt gánh nặng chi phí
y tế dành cho người cao tuổi. Theo quy luật chung, tuổi càng
cao, sức khỏe càng giảm. Dù muốn hay không, con người vẫn
đối mặt với tình trạng bệnh tật, sức khỏe của mình khi tuổi
ngày càng cao trong vòng đời Sinh- Lão- Bệnh- Tử. Khi đã
ngoài 60 tuổi, quá trình đồng hóa giảm đi, quá trình dị hóa
tăng lên, quá trình lão hóa diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh,
đồng thời phát sinh những loại bệnh tật đặc trưng của tuổi
già. Mặc dù, nhờ những thành tựu trong phát triển kinh tế

cũng như trong tiến bộ của y học, nhưng cơ cấu bệnh tật của
dân số nước ta nói chung và của người cao tuổi nói riêng đang


chuyển dần từ mô hình bệnh tật của những nước đang phát
triển sang của nước phát triển. Cơ cấu bệnh tật hiện nay của
nước ta chuyển từ không nhiễm trùng, không lây nhiễm sang
các bệnh chủ yếu như cao huyết áp, đột quỵ, tiểu đường, rối
loạn chuyển hóa…
Như vậy, cùng với tuổi tác, cơ cấu chi tiêu của người cao
tuổi đã thay đổi nhiều, chi phí cho khám, chữa bệnh có xu
hướng tăng lên. Người già lại hay bị những loại bệnh đòi hỏi
chi phí y tế cao như huyết áp, đột quỵ, tim mạch…
Thứ ba, Góp phần đảm bảo tỷ lệ hưởng BHXH hưu trí
của những người cao tuổi ở nước ta được ổn định (đặc biệt là
khu vực nông thôn). Đối với một số nước có xuất phát điểm
thấp như Việt Nam, cho đến nay, về cơ bản nước ta vẫn là
nước nông nghiệp với trên 70% số dân và cũng khoảng 70%
số lao động đang sống ở và lao động ở nông thôn, trong đó
khoảng 50% làm các nghề nông nghiệp. Trong khi đó số lao
động tham gia hệ thống BHXH chỉ chiếm khoảng 10% -20%
tổng lực lượng lao động và chủ yếu ở khu vực thành thị. Như
vậy, đa số người lao động nông thôn khi trở thành người cao
tuổi (60 tuổi trở lên) sẽ không được hưởng lương hưu từ hệ


thống BHXH. Để tiếp tục cuộc sống, những người cao tuổi
này buộc phải tự lao động kiếm sống hoặc nhờ sự hỗ trợ của
con cháu, hoặc nhờ sự trợ giúp của cộng đồng.
Thứ tư, khắc phục hậu quả của cuộc chiến tranh kéo dài

với rất nhiều thế hệ người lính phải sống và chiến đấu ở
những vùng ác liệt, nhiều nơi bị nhiễm chất độc da cam…
Đến nay, đa phần họ đã thuộc nhóm người cao tuổi. Ngoài
những loại bệnh của người già, không ít trong số họ mắc
những bệnh đặc trưng của chiến tranh, trong khi đó, đa phần
trong cố họ sau chiến tranh về quê nhà sinh sống, họ không có
lương hưu. Điều này giúp ổn định cuộc sống của NCT , đòi
hỏi cần có chính sách ASXH đặc thù cho nhóm người này.
Thứ năm, tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa cũng đòi hỏi bảo đảm an sinh xã hội cho NCT; góp
phần hoàn thiện công cụ quản lý kinh tế - xã hội của Nhà
nước. Có thể nói NCT ở Việt Nam “ già khi chưa giàu”
Cũng là đặc thù của nền kinh tế Việt Nam khi thu nhập
của người lao động thấp, thu nhập chỉ đủ trang trải (thậm chí
không đủ) cho những chi tiêu trước mắt, không có và không
thể có cho tích tũy trong tương lai. Điều này là nguy cơ


×