Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Bảo vệ quyền của người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự thực tiễn tại thành phối hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.39 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI QUỐC DÂN

b¶o vÖ quyÒn cña ngêi cha thµnh niªn ph¹m
téi trong giai ®o¹n ®iÒu tra vô ¸n h×nh sù thùc tiÔn t¹i thµnh phè h¶i phßng
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ

HÀ NỘI – 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Kính đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Bùi Quốc Dân



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
LỜI CAM ĐOAN.........................................................................2
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội........................................................................2
Kính đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận
văn...........................................................................................2
Tôi xin chân thành cảm ơn!......................................................2
NGƯỜI CAM ĐOAN...................................................................2
Bùi Quốc Dân............................................................................2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCA

Bộ Công an

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS


Bộ luât tố tụng hình sự

ĐTTT

Điều tra thân thiện

NCTN

Người chưa thành niên

NXB

Nhà xuất bản

PLHS

Pháp luật hình sự

PLTTHS

Pháp luật tố tụng hình sự


TANDTC

Tòa án nhân dân Tối cao

VKSNDTC


Viện kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng
Bảng 2.1:

Tên bảng
Bảng thống kê số lượng bị can là người chưa thành

Trang
Error:

niên trong tổng số bị can bị khởi tố điều tra

Referen
ce
source
not

Bảng 2.2: Bảng cơ cấu loại tội phạm do người chưa thành niên
thực hiện

found
Error:
Referen
ce
source
not


Bảng 2.3:

Bảng số liệu về người chưa thành niên bị khởi tố đã bỏ

found
Error:

học và lang thang trong tổng số người chưa thành niên

Referen

bị khởi tố

ce
source
not
found


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là một trong những vấn đề thiêng liêng, cơ bản và
luôn luôn là khát vọng của toàn thể nhân loại. Quyền con người từ khi được
sinh ra và được bảo đảm thực hiện như một lẽ tự nhiên. Cho nên, nó không
chỉ là vấn đề của một quốc gia, một dân tộc mà là trách nhiệm của cả nhân
loại trong việc bảo vệ quyền thiêng liêng ấy.
Ở Việt Nam, Tuyên ngôn độc lập năm 1945 do Chủ tịch Hồ Chí minh
đọc tại Quảng trường Ba Đình có đoạn: “Tất cả mọi người đều sinh ra có
quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu

cầu hạnh phúc”. Trên tinh thần đó các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và
Hiến pháp 2013 ở những mức độ khác nhau đó ghi nhận và cam kết tôn trọng,
bảo vệ quyền con người.
Quyền con người đòi hỏi được bảo vệ không chỉ khi họ chấp hành tốt
pháp luật, khi họ thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhà nước, xã hội mà
ngay cả khi họ vi phạm pháp luật, hay phạm tội phải chịu những biện pháp
cưỡng chế của cơ quan bảo vệ pháp luật thì những quyền ấy vẫn cần phải
được bảo vệ. Đó là bản chất tốt đẹp của Nhà nước pháp quyền với hệ thống
pháp luật vì con người, con người là trung tâm của xã hội.
Quyền con người luôn là lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp nên bảo đảm
thực hiện nó không phải chỉ dừng lại ở việc ghi nhận quyền con người mà cần
phải thực thi nhiều biện pháp đồng bộ, được mọi cấp, mọi ngành, mọi người
tham gia. Trong đó, hoạt động điều tra tội phạm của cơ quan điều tra đóng vai
trò hết sức quan trọng. Bởi vì, hoạt động điều tra là giai đoạn đầu của quá
trình tố tụng hình sự, nhiệm vụ là thu thập tài liệu về tình tiết ngoại phạm và

1


hành vi phạm tội của con người, tác động trực tiếp đến bảo vệ quyền con
người đối với bên bị hại và một bên là người nghi vấn thực hiện tội phạm - là
những người mà quyền con người của họ dễ có nguy cơ bị xâm hại.
Người chưa thành niên phạm tội là một hiện tượng thực tế, tồn tại trong
tất cả các xã hội, tình trạng người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam diễn
biến rất phức tạp, tăng cả về số vụ án và số bị can là người chưa thành niên.
Do chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm, sinh lý, họ bị hạn chế
về trình độ nhận thức cũng như về kinh nghiệm sống, thiếu những điều kiện
về bản lĩnh tự lập, khả năng tự kiềm chế chưa cao nên họ dễ bị kích động, dễ
bị lôi kéo vào hoạt động tội phạm. Chính vì vậy, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về vấn đề giải quyết tội phạm về người chưa thành niên không phải

chỉ giải quyết vụ án, trừng trị tội phạm mà mục đích để giáo dục người phạm
tội, ngăn ngừa tội phạm không để hành vi phạm tội tiếp tục xảy ra. Quán triệt
tinh thần đó, Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 đó dành nguyên một
chương riêng biệt (Chương XXXII) quy định về thủ tục tố tụng đối với người
chưa thành niên.
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng áp dụng trong quá trình điều, tra truy tố,
xét xử đối với người chưa thành niên phạm tội. Song, thực tế các hoạt động
điều tra vẫn còn những hạn chế, còn vướng mắc, bất cập. Bên cạnh đó đội ngũ
cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu, trình độ nghiệp vụ và sự hiểu biết về
khoa học giáo dục đối với người chưa thành niên còn yếu, các điều kiện về
kinh tế, văn hóa, cơ sở vật chất cũng còn những khó khăn nhất định trong quá
trình thực thi pháp luật bảo vệ quyền của người chưa thành niên.
Như vậy, thực tiễn đặt ra cho cơ quan điều tra ngoài việc đấu tranh hiệu
quả với tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị xâm hại thì
đồng thời phải có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can là
người chưa thành niên trong các vụ án hình sự. Chính vì vậy trên cả hai

2


phương diện lý luận và thực tiễn tôi chọn đề tài “Bảo vệ quyền của người
chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - thực
tiễn tại thành phố Hải Phòng” cho luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong hoạt động điều tra vụ án hình sự, việc điều tra đối với những vụ
án mà người bị tạm giữ, bị can là người chưa thành niên là một trong những
nội dung quan trọng. Bởi vì, ngoài việc áp dụng các biện pháp điều tra làm rõ
nội dung vụ án, các tình tiết liên quan, truy tố bị can trước pháp luật. Cơ quan
điều tra cũng phải thực hiện việc giáo dục họ để nhận thức, sửa chữa lỗi lầm,
phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần, tạo điều kiện giúp họ sớm hòa

nhập cuộc sống bình thường.
Trước khi chọn đề tài “Bảo vệ quyền của người chưa thành niên phạm
tội trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - thực tiễn tại thành phố Hải
Phòng” cho luận văn thạc sĩ của mình, tác giả đã tham khảo một số nghiên
cứu về lĩnh vực tư pháp đối với người chưa thành niên như: Nguyễn Trần
Bích Phượng "Thủ tục tố tụng về những vụ án mà bị can, bị cáo là người
chưa thành niên và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội", Luận văn cử
nhân Luật, Trường Đại học Luật Hà Nội; Phạm Thị Khánh Toàn - "Thủ tục tố
tụng về những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên - một số vấn
đề lý luận và thực tiễn", Luận văn cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2003; Đỗ Thị Phượng "Thủ tục tố tụng đối với bị can, bị cáo là người
chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam", Luận án tiến sĩ
Luật học, Khoa Luật Hà Nội, ĐHQG Hà nội, 2008; Nguyễn Thị Thanh“Bảo
vệ quyền của người chưa thành niên trong tư pháp hình sự Việt Nam”, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia hà Nội.
Tuy nhiên, các nghiên cứu nêu trên chủ yếu đề cập đến thủ tục tố tụng
hình sự trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với vụ án mà bị can, bị cáo

3


là người chưa thành niên. Trong luận văn này, tác giả nghiên cứu sâu về sự tác
động của các quy định thủ tục tố tụng đó, vai trò của cơ quan điều tra và các
yếu tố khác tác động đến đến quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị
can là người chưa thành niên. Từ đó, khẳng định sự cần thiết bảo đảm quyền
con người của bị can là người chưa thành niên trong hoạt động điều tra.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn và lý luận, đánh giá thực trạng của quá
trình điều tra vụ án mà người bị tạm giữ, bị can là người chưa thành niên, luận

văn góp phần làm sáng tỏ sự tác động các quy định của pháp luật tố tụng hình và
các yếu tố khác trong việc đảm bảo quyền con người của bị can là người chưa
thành niên trong hoạt động điều tra vụ án hình sự. Qua đó khẳng định sự cần
thiết bảo đảm quyền con người của bị can là người chưa thành niên trong hoạt
động điều tra và đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu đánh giá cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và thực tiễn
hoạt động điều tra các vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên.
Trong đó tập trung nghiên cứu các vấn đề: khái quát về người chưa thành
niên; đặc điểm tâm lý lứa tuổi của người chưa thành niên; những quy định của
pháp luật nói chung về người chưa thành niên; những quy định của luật tố
tụng hình sự trong vụ án mà người bị tạm giữ, bị can là người chưa thành
niên; thực trạng áp dụng các thủ tụng tố tụng và các yếu tố khác tác động đến
quyền của bị can là người chưa thành niên trong hoạt động điều tra. Thông
qua đó, luận văn đưa ra những giải pháp, kiến nghị để đảm bảo quyền của bị
can là người chưa thành niên hiệu quả nhất nhằm giáo dục, cải tạo họ thành
người có ích cho xã hội.

4


3.3. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu: Các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến
việc bảo vệ quyền của bị can là người chưa thành niên trong hoạt động điều
tra giai đoạn hiện nay như: thủ tục tố tụng tố tụng đối với người chưa thành
niên phạm tội; vai trò của cơ quan điều tra, điều tra viên; yếu tố kinh tế…
Nghiên cứu thực tiễn hoạt động điều tra đối với bị can là người chưa thành
niên của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải Phòng trong những
năm gần đây.
3.4. Phạm vi nghiên cứu

Từ mục đích nêu trên, luận văn xác định phạm vi nghiên cứu là các quan
điểm, học thuyết, qui định của pháp luật quốc tế và Việt Nam về quyền con
người và bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên trong TTHS đặc
biệt là trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Luận văn cũng giới hạn phạm vi
khảo sát thực tiễn bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên trong
TTHS tại địa bàn thành phố Hải Phòng những năm gần đây (từ 2009 đến 2013).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt Nam
về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: Khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các
phương pháp: Hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, thống kê, so sánh pháp
luật… để giải quyết các nhiệm vụ đề tài đặt ra.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Nội dung của luận văn được trình bày một cách có hệ thống các quy
định pháp luật về việc bảo vệ quyền của người chưa thành niên, quy định tố
tụng hình sự và thực tiễn hoạt động điều tra vụ án mà người bị tạm giữ, bị can

5


là người chưa thành niên. Ngoài việc nghiên cứu các yếu tố pháp lý, Luận văn
cũng nghiên cứu các yếu tố khác có tác động đến việc bảo vệ quyền của người
bị tạm giữ, bị can là người chưa thành niên trong hoạt động điều tra các vụ án
hình sự, đề xuất những phương hướng, biện pháp để khắc phục hạn chế, nâng
cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật hình sự về bảo vệ quyền cho
người bị tạm giữ, bị can là người chưa thành niên
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Kết quả nghiên cứu và những giải pháp được đề xuất trong luận văn có

ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc bảo vệ quyền trẻ em nói chung, của
người bị tạm giữ, bị can là chưa thành niên trong vụ án hình sự nói riêng.
Thông qua hệ thống các giải pháp, tác giả mong muốn đóng góp một phần ý
kiến vào sự phát triển của kho tàng lý luận tư pháp hình sự về bảo vệ quyền
cho người chưa thành niên trong tư pháp hình sự Việt Nam.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác
nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học tư pháp hình
sự nói riêng cũng như trong thực tiễn điều tra vụ án hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn có kết cấu chặt chẽ, khoa học, đúng quy chuẩn. Ngoài phần mở
đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 03 chương, cụ thể:
Mở đầu
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền của người chưa
thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Chương 2: Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền của người chưa thành
niên phạm tội và thực tiễn áp dụng tại Hải Phòng.
Chương 3: Các giải pháp tăng cường bảo vệ quyền của người chưa
thành niên phạm tội.
Kết luận

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Người chưa thành niên phạm tội và thủ tục giải quyết vụ án đối
với người chưa thành niên.
1.1.1. Người chưa thành niên phạm tội

1.1.1.1. Người chưa thành niên
Người chưa thành niên là thuật ngữ phổ biến được sử dụng trong đời
sống cũng như trong các ngành khoa học nghiên cứu. Dưới nhiều góc độ
nghiên cứu cũng như mục đích nghiên cứu khác nhau mà ở mỗi ngành khoa
học lại có cách hiểu riêng về thuật ngữ này. Theo Từ điển Tiếng Việt: “Vị
thành niên là người chưa đến tuổi được pháp luật công nhận là công dân với
đầy đủ các quyền và nghĩa vụ hay nói cách khác là người chưa đủ 18 tuổi”.
Định nghĩa này phù hợp với tinh thần của Công ước của Liên Hợp Quốc về
quyền trẻ em thông qua ngày 20/11/1989: “Trong phạm vi của Công ước này,
trẻ em có nghĩa là những người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp
dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [4, Điều 1, tr.1]. Theo
cách hiểu thông thường, từ “trẻ em” nghĩa là người chưa thành niên, hay vị
thành niên. Thế nhưng trong Công ước này trẻ em lại bao gồm tất cả những
người chưa phải người lớn. Công ước nhấn mạnh rằng tất cả những ai dưới 18
tuổi thì được hưởng mọi quyền lợi đã được ghi nhận trong Công ước.
Tuy nhiên, những quy định khác nhau về khái niệm người chưa thành
niên lại nằm trong các văn bản pháp luật truyền thống của các quốc gia trên
thế giới. Sở dĩ có sự quy định khác nhau như vậy là do xuất phát từ truyền
thống lịch sử văn hóa cũng như các quan niệm về đạo đức, phong tục tập quán

7


của các quốc gia khác nhau. Mặt khác, còn do điều kiện kinh tế - xã hội, sự
phát triển về sinh học của con người, đặc biệt là chính sách pháp luật và yêu
cầu của thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của mỗi quốc gia
cũng có sự khác nhau.
Trong phạm vi một quốc gia, thì tùy vào từng ngành khoa học mà
người ta cũng có khái niệm khác nhau về người chưa thành niên. Ở Việt Nam,
Điều 1 Luật giáo dục, chăm sóc và bảo vệ trẻ em Việt Nam quy định rõ: “Trẻ

em quy định trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” [23]. Bộ luật
dân sự năm 2005 cũng có quy định tương tự: “Người chưa đủ 18 tuổi là
người chưa thành niên” [28, Điều 18]. Như vậy, theo nghĩa chung nhất thì
người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi.
Ở độ tuổi này, người chưa thành niên có những đặc điểm tâm sinh lý
đặc trưng và chính vì thế mà bất cứ ngành luật nào cũng dành những quy định
đặc biệt để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho họ.
Bất kể một công dân nào sinh ra cũng có sẵn một cơ sở vật chất giống
nhau đó là bộ não. Đây là điều kiện cần, nhưng chưa đủ. Trong qua trình lớn
lên, trưởng thành, bộ não của con người tiếp nhận, chọn lọc những kỹ năng
sống, tri thức để phát triển qua gia đình, nhà trường, xã hội xung quanh. Đúng
như F. Ăngghen đã từng nói: Ý thức từ ban đầu đã là sản phẩm của xã hội và
vẫn là sản phẩm của xã hội chừng nào xã hội còn tồn tại và chỉ trong tự ý thức
con người mới tách mình độc lập với thế giới xung quanh, xác định vị trí của
mình trong những quan hệ tự nhiên và xã hội. Đây là điều kiện đủ để một
người đạt đến ngưỡng gọi là “trưởng thành” hay “đã thành niên”. Dưới
ngưỡng này đồng nghĩa với việc chưa phát triển đầy đủ, khả năng thích ứng
với xã hội còn kém và rất dễ bị thương tổn tâm lý, nếu không khéo léo “chạy
chữa” thì người đó sẽ không thể trở thành một người trưởng thành thật sự.
Người chưa thành niên chính là những người đang ở vị thế như vậy.

8


1.1.1.2. Người chưa thành niên phạm tội
Như đã phân tích ở trên, năng lực trách nhiệm hình sự chỉ hình thành
khi con người đạt đến một độ tuổi nhất định và năng lực đó sẽ được hoàn
thiện ở một độ tuổi tiếp theo. Người chưa thành niên, hay vị thành niên hoặc
có nơi coi là trẻ em về thể chất và tâm sinh lý đã có sự phát triển đáng kể, có
khả năng hiểu biết nhất định để có những xử sự phù hợp với quy định của

pháp luật. Theo nguyên tắc công bằng của pháp luật, họ phải chịu trách nhiệm
về hành vi do chính mình thực hiện.
“Người chưa thành niên phạm tội” là thuật ngữ sử dụng trong khoa học
PLHS, PLTTHS và các khoa học gần gũi khác. Mặc dù BLTTHS và BLHS
đều có dành một chương riêng để quy định về người chưa thành niên phạm
tội, nhưng lại đều không có khái niệm lập pháp chính thức thế nào là người
chưa thành niên phạm tội. BLHS 1985 cũng như BLHS 1999 khi nói tới
người chưa thành niên phạm tội chỉ đưa ra một khái niệm gián tiếp thông qua
việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 12 BLHS năm 1999 thì người từ đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu
trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, còn người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi thì chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố
ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. BLHS năm 1999 cũng quy định:
“Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự theo những quy định của chương này” [25, Điều 68].
Với quy định trong các điều khoản trên có thể hiểu người chưa thành
niên phạm tội bao gồm những người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi.
Nhưng cũng cần phải lưu ý rằng: Người chưa thành niên trong pháp luật hình
sự Việt Nam phải được nhìn nhận chính xác từ hai góc độ, không nên đồng
nhất thuật ngữ “người chưa thành niên” trong pháp luật hình sự với thuật ngữ
“người chưa thành niên phạm tội”. Ở góc độ thứ nhất, người chưa thành niên

9


là người bị hại, người xúi giục, “người chưa thành niên” sẽ bao gồm tất cả
những người ở độ tuổi dưới 18 tuổi. Nhìn từ góc độ thứ hai, “người chưa
thành niên” bằng năng lực, nhận thức của mình thực hiện hành vi bị pháp luật
cấm, tức là người chưa thành niên phạm tội. Tại thời điểm họ thực hiện hành
vi phạm tội, pháp luật quy định họ phải đang ở độ tuổi 14 tuổi đến dưới 18

tuổi mà không ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (tình
trạng bị mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hoạt động của
mình do bị mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác).
Một câu hỏi mà bất cứ một người nào mới tiếp xúc với pháp luật hình
sự cũng sẽ đặt ra trong trường hợp này là: tại sao pháp luật hình sự lại quy
định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là 14 tuổi? Ở một số quốc gia trên thế
giới quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự rất khác nhau; ví dụ: Singapo:
7 tuổi; Anh: 10 tuổi; Canada: 12 tuổi; Nhật Bản, Nga: 14 tuổi; Thụy Điển: 15
tuổi; Cuba: 16 tuổi… Sở dĩ, pháp luật hình sự của các nước quy định khác
nhau như vậy là do phụ thuộc vào điều kiện phát triển của từng nước.
Ở nước ta, pháp luật hình sự quy định 14 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hình sự là phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Trong độ
tuổi này, người chưa thành niên đã bắt đầu phát triển nhanh về tâm sinh lý. Họ
đã tự ý thức được những hành vi của mình, tự ý thức được đâu là đúng, đâu là
sai, ý thức được phần nào những việc gì là đúng pháp luật, việc gì là sai trái,
bị pháp luật cấm. Vì lẽ đó, họ cũng đã có sự cân nhắc, dù cẩn thận hay không
trước khi thực hiện hành vi của mình. Từ đó, họ có nghĩa vụ phải chịu trách
nhiệm về chính hành vi do mình thực hiện ấy.
Như vậy, khái niệm về người chưa thành niên phạm tội do BLHS quy
định có ý nghĩa pháp lý sâu sắc. Đó là cơ sở xác định tính chất tội phạm đối
với những hành vi do người chưa thành niên thực hiện và tạo điều kiện cho
việc áp dụng hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội

10


của hành vi trên cơ sở những đặc điểm tâm sinh lý vào thời điểm họ phạm tội.
Không những thế, khái niệm trên còn mang ý nghĩa chính trị - xã hội bởi nó
phù hợp với nội dung điều ước quốc tế, tiến bộ của nhân loại mà chúng ta đã
gia nhập vừa phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội, sự phát triển về thể chất,

tinh thần con người Việt Nam và kinh nghiệm đấu tranh phòng chống tội
phạm ở nước ta.
Thuật ngữ “người chưa thành niên phạm tội” vốn đã phức tạp lại càng
phức tạp thêm vì vấn đề này không chỉ có ý nghĩa về phương diện đạo đức,
pháp lý mà còn có ý nghĩa về phương diện thực tế hoặc thống kê. Trong thực
tế, còn tồn tại nhiều vướng mắc gây tranh cãi khi xác định một cá nhân có phải
là người chưa thành niên phạm tội hay không. Trước hết, phải kể đến khó khăn
vướng mắc trong việc xác định độ tuổi của một người khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội trong những trường hợp không rõ ràng về ngày, tháng,
năm sinh. Thứ hai là khó khăn trong việc xác định hành vi nguy hiểm cho xã
hội mà người chưa thành niên thực hiện có phải là tội phạm hay không phải tội
phạm vì rất khó phân biệt tội phạm với các loại vi phạm khác. Chẳng hạn, hành
vi trộm cắp một chiếc xe đạp của người khác chỉ trở thành tội phạm khi xác
định chính xác giá trị của chiếc xe từ hai triệu đồng trở lên, nếu không, hành vi
đó chỉ là một vi phạm hành chính. Cuối cùng là khó khăn, vướng mắc trong
việc xác định một cách chính xác, phù hợp với thực tế tổng số vụ và người
chưa thành niên phạm tội hàng năm. Con số người chưa thành niên phạm tội
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trước hết là mức độ kiểm soát tội phạm, hiệu quả
của công tác phát hiện, xử lý tội phạm. Các tội phạm do người chưa thành niên
thực hiện được phát hiện chỉ là một phần mà chúng ta biết được trong số rất
nhiều vụ phạm pháp hình sự đã và đang xảy ra. Mặt khác, các vụ phạm tội
được ghi nhận vào sổ thống kê lại chưa bằng một nửa số vụ người chưa thành
niên phạm tội bị phát hiện. Mặc dù các con số thống kê hình sự về số lượng các

11


v ỏn v s lng ngi cha thnh niờn ch l phn ti phm rừ trong tng th
cỏc ti phm do ngi cha thnh niờn thc hin. Tuy vy, chỳng ta vn cú th
s dng con s ny lm c s cho vic nghiờn cu, ỏnh giỏ, phõn tớch tỡnh

hỡnh ti phm do ngi cha thnh niờn thc hin.
Da vo nhng phõn tớch nờu trờn, cú th hiu: Ngi cha thnh niờn
phm ti l ngi t 14 tui n di 18 tui, cú nng lc trỏch nhim
hỡnh s cha y do s hn ch bi cỏc c im v tõm sinh lý v ó cú
li (c ý hoc vụ ý) trong vic thc hin hnh vi nguy him cho xó hi m
BLHS quy nh l ti phm.
1.1.2. Th tc gii quyt v ỏn i vi ngi cha thnh niờn
1.1.2.1. Ngi cha thnh niờn trong t tng hỡnh s
Ngi cha thnh niờn phm ti l khỏi nim ca lut hỡnh s v
khụng ng ngha vi khỏi nim ngi cha thnh niờn trong T tng hỡnh
s, tuy nhiờn, hai khỏi nim ny cú mi quan h cht ch vi nhau. Nu nh
khỏi nim ngi cha thnh niờn phm ti ch ngi cha thnh niờn ó
b tũa ỏn kt ti bng bn ỏn cú hiu lc phỏp lut thỡ khỏi nim ngi cha
thnh niờn trong TTHS ch ngi cha thnh niờn, m hnh vi ca h cú du
hiu ti phm ang trong quỏ trỡnh gii quyt v ỏn nhng giai on TTHS
khỏc nhau, ú l ngi b bt, b tm gi, b can, b cỏo. Đây là khái niệm
đặc thù của pháp luật tố tụng hình sự v do ú, lut TTHS qui
nh th tc gii quyờt v ỏn i vi ngi cha thnh niờn ch khụng phi l
th tc gii quyt v ỏn i vi ngi cha thnh niờn phm ti. Theo qui
nh ca Lut TTHS Vit Nam thỡ th tc gii quyt v ỏn i vi ngi cha
thnh niờn c ỏp dng cho cỏc i tng sau: (a) Ngời bị bắt bao
gồm: ngời bị bắt trong trờng hợp khẩn cấp, phạm tội quả
tang, ngời bị bắt theo quyết định truy nã; (b) Ngời bị tạm
giữ: là ngời bị bắt trong trờng hợp khẩn cấp, phạm tội quả

12


tang, ngời bị bắt theo quyết định truy nã hoặc ngời phạm
tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ;

(c) Bị can là ngời đã bị khởi tố về hình sự; (d) Bị cáo là ngời
bị toà án quyết định đa ra xét x.
Ngời bị bắt, ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo là ngời cha
thành niên thỏa mãn những quy định pháp lý về ngời bị
bắt, ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhng họ đang ở độ
tuổi từ đủ 14 tuổi đến cha đủ 18 tuổi. Vì vậy, những thủ
tục đối với ngời bị bắt, ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo là ngời cha thành niên phải đợc tiến hành theo thủ tục đặc biệt
đợc quy định tại chơng XXXII BLTTHS năm 2003. Do đó, có
thể hiểu: ngời bị bắt, ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo là ngời
cha thành niên nghĩa là ngời đang ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi
đến dới 18 tuổi ở thời điểm các cơ quan có thẩm quyền
tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự đối với họ.
Nh vậy, khái niệm ngời cha thành niên phạm tội và khái
niệm ngời bị bắt, ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo là ngời cha
thành niên có những điểm khác nhau xuất phát từ thời điểm
phát sinh quan hệ pháp luật mà trong đó ngời cha thành niên
là chủ thể. Quy định đối với ngời cha thành niên phạm tội
trong BLHS chỉ áp dụng đối với đối tợng là ngời cha thành
niên ở thời điểm họ thực hiện hành vi phạm tội; còn ngời bị
bắt, ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo là ngời cha thành niên bị
coi là những ngời bị tình nghi trong quá trình tố tụng giải
quyết vụ án. Những quy định áp dụng đối với họ chỉ đợc
thực hiện vào thời điểm họ bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị
khởi tố, truy tố, xét xử và phải vào thời điểm mà họ là ngời

13


cha thành niên.
1.1.2.2. Th tc gii quyt v ỏn l ngi cha thnh niờn

Theo Từ điển Tiếng Việt thì Thủ tục đợc hiểu là
những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định, để
tiến hành một công việc có tính chất chính thức (nói tổng
quát). Tại thời điểm các quy định tố tụng hình sự đợc áp
dụng đối với ngời bị bắt, ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ngời bị kết án là ngời cha thành niên, họ đang ở độ tuổi từ 14
tuổi đến dới 18 tuổi. Mặc dù Chơng XXXII BLTTHS năm 2003
có tên gọi là Thủ tục đối với ngời cha thành niên nhng trong
quy định về phạm vi áp dụng thủ tục này tại Điều 301 nhà
làm luật Việt Nam không hề ghi nhận khái niệm pháp lý thủ
tục đối với ngời cha thành niên là gì?
BLTTHS nm 2003 quy định: Thủ tục tố tụng đối với ngời
bị bắt, ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo là ngời cha thành
niên đợc áp dụng theo quy định của Chơng này, đồng thời
theo những quy định khác của Bộ luật này không trái với
những quy định của Chơng này [27, Điều 301]. Nghĩa là,
khi điều tra, truy tố, xét xử đối với ngời bị bắt, ngời bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là ngời cha thành niên không chỉ phải
thực hiện theo quy định chung về thủ tục tố tụng mà còn
phải thực hiện theo quy định của Chơng XXXII BLTTHS. Tất
cả những thủ tục đặc biệt này đều nhằm mục đích bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng của một ngời cha thành niên.
Trong trờng hợp một vụ án bắt đầu bằng thủ tục đặc
biệt đối với ngời cha thành niên phạm tội nhng đến giai đoạn
xét xử chẳng hạn, ngời cha thành niên đã đủ tuổi thì nên

14


xử lý nh thế nào tiếp theo? Tiếp tục áp dụng thủ tục tố tụng
đặc biệt đối với ngời cha thành niên hay áp dụng thủ tục tố

tụng thông thờng? Theo quan điểm của chúng tôi thì vẫn
nên áp dụng thống nhất thủ tục tố tụng đặc biệt bởi vì nh
vậy sẽ không gây ra sự rắc rối mất thời gian do phải có
những thủ tục chuyển từ thủ tục đặc biệt sang thủ tục
thông thờng, nh vậy sẽ đảm bảo giải quyết vụ án đợc đúng
đắn, khách quan, nhanh chóng, đồng thời cũng bảo vệ đợc
quyền lợi chính đáng của bị can, bị cáo.
Nh vậy, Thủ tục đối với ngời cha thành niên theo pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam là tổng hợp các quy định đặc biệt
thể hiện nguyên tắc nhân đạo của chính sách của Nhà nớc
trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với
những vụ án mà ngời bị bắt, ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo
hoặc bị kết án là ngời cha thành niên từ đủ 14 tuổi đến dới
18 tuổi nhằm giải quyết một cách khách quan và đúng pháp
luật, đồng thời bảo vệ một cách vững chắc các quyền lợi hợp
pháp của họ trong các hoạt động tố tụng hình sự.
1.2. Phỏp lut quc t v quyn ca ngi cha thnh niờn trong
quỏ trỡnh gii quyt v ỏn hỡnh s
1.2.1. Quyn con ngi trong lnh vc t tng hỡnh s
Quyn con ngi trong TTHS l tp hp cỏc quyn thuc nhúm quyn
dõn s, chớnh tr nhm mc ớch khng nh danh d, nhõn phm ca con
ngi trong mi hon cnh, bo v cỏc cỏ nhõn khi s tựy tin v s lm
quyn ca cỏc c quan v nhõn viờn nh nc trong cỏc hot ng TTHS.
Theo cỏc vn bn phỏp lut, quyn con ngi thuc hai lnh vc sau: 1. Cỏc
quyn an ton thõn th, danh d, nhõn phm ca cỏ nhõn khi h tham gia t

15


tụng với tư cách người bị tình nghi phạm tội, người bị kết án phải chấp hành

hình phạt hoặc người có tư cách khác khi tham gia tố tụng; 2. Quyền được xét
xử công bằng bởi một Tòa án độc lập… Các quyền này được ghi nhận trong
công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966) (ICCPR- Việt Nam
là thành viên từ năm 1982), trong các bình luận chung của cơ quan giám sát
Công ước này, cũng như trong một số hướng dẫn, nguyên tắc đó được cộng
đồng quốc tế thừa nhận liên quan.
Thứ nhất: Quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm của cá nh©n
trong TTHS.
Đây là quyền của người bị tình nghi phạm tội bị áp dụng những biện
pháp ngăn chặn như: bắt, tạm giữ, tạm giam; người bị kết án phải chấp hành
hình phạt tù trong các trại cải tạo và cũng được mở rộng đến những đối tượng
bị tạm giữ hành chính. Mặc dù là những người này ít nhiều đã gây nguy hại
cho xã hội hoặc bị tình nghi có hành vi gây nguy hại cho xã hội và hạn chế tự
do nhưng quyền của họ vẫn được ghi nhận và bảo đảm thi hành bằng biện
pháp pháp luật. Quyền của những người này chiếm một vị trí quan trọng trong
luật nhân quyền quốc tế và luật nhân quyền quốc gia. Các quyền cơ bản của
người bị tước tự do được bảo vệ tại Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948),
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966) (ICCPR) và nhiều
văn kiện khác như "Tập hợp các nguyên tắc bảo vệ tất cả những người bị
giam hay cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào" được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua bằng Nghị quyết 43/173 ngày 9/12/1988 (bao gồm 39 nguyên
tắc cụ thể); "Các quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên
bị tước tự do" được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng Nghị quyết
45/113 ngày 14/12/1990… Về cơ bản, những người bị tước tự do được bảo
đảm các quyền sau đây: a) Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc
trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục; b) Quyền được bảo vệ để khỏi

16



bị bắt, giam giữ tùy tiện; c) Quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân
phẩm của những người bị tước tự do; d) Quyền thông tin, liên lạc với bên
ngoài; e) Quyền có cơ chế khiếu nại, tố cáo hữu hiệu; g) Quyền đối với người
chưa thành niên.
Thứ hai, quyền được xét xử công bằng;
"Quyền được xét xử công bằng" là một quyền cơ bản và có tính phổ
quát cao, tồn tại trong cả các vụ án hình sự và phi hình sự. Pháp luật nhiều
quốc gia quy định quyền này với quan niệm rằng nó là quyền thiết yếu trong
mọi quốc gia pháp trị. Việc đối xử với một người khi họ bị buộc tội phản ánh
một Nhà nước tôn trọng nhân quyền đến mức nào, bởi vậy, quyền được xét xử
công bằng đó được coi là một hòn đá tảng của các xã hội dân chủ. Giống như
đặc tính của mọi nhân quyền là phụ thuộc lẫn nhau, quyền được xét xử công
bằng với các quyền khác có mối quan hệ hai chiều. Một phiên tòa công bằng
là yếu tố thiết yếu để bảo đảm các quyền cơ bản khác của con người như
quyền sống, quyền được an toàn về thân thể, tự do ngôn luận… Ngược lại,
trong một x· hội không dân chủ, các quyền cơ bản của con người không được
tôn trọng thì khó cã thể có chuyện mọi người đều được xét xử công bằng.
Quan hệ chặt chẽ giữa quyền được xét xử công bằng với pháp trị và dân chủ
cùng đó được khẳng định chính thức trong Tuyên ngôn Dakar về quyền được
xét xử công bằng tại Châu Phi. Từ các văn bản pháp luật đó nên “quyền được
xét xử công bằng” được hiểu như sau: Quyền được xét xử công bằng là quyền
cơ bản của người bị buộc tội trong vụ án hình sự và của các bên trong vụ việc
phi hình sự trước cơ quan tư pháp (Công an, Công tố và Tòa án), được pháp
luật Quốc gia và Quốc tế ghi nhận và bảo vệ, bao gồm nhiều quyền, cụ thể:
được bảo đảm quyền bào chữa, được xét xử nhanh chóng, công khai bởi tòa
án độc lập, không thiên vị… nhằm bảo đảm cho việc xét xử được công bằng,
cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân.

17



Quyền được xét xử công bằng bao gồm những quyền cụ thể sau:
a) Quyền binh đẳng trước tòa án và được xét xử bởi tòa án độc lập,
không thiên vị, công khai; b) Quyền bào chữa; c) Quyền được xét xử theo thủ
tục riêng của người chưa thành niên; d) Quyền kháng cáo; e) Quyền được bồi
thường khi bị kết án oan; g) Quyền không bị xét xử hai lần về cùng một tội
danh; h) Không bị truy cứu hình sự với lý do không thực hiện được nghĩa vụ
hợp đồng; i) Không bị coi là có tội nếu hành vi không cấu thành tội phạm theo
pháp luật vào thời điểm thực hiện hành vi; k) Không áp dụng hồi tố cũng
được nghiên cứu khi đề cập đến quyền được xét xử công bằng.
Trên đây là những nội dung cơ bản của quyền con người trong TTHS
được ghi nhận trong các văn bản pháp luật Quốc tế và pháp luật Quốc gia.
Từ những phân tích trên, quyền con người trong TTHS có thể được
hiểu là tổng hợp các quyền thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị nhằm mục
đích khẳng định việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tôn trọng danh sự, nhân
phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh cũng như bảo đảm việc xét xử công
bằng bởi một tòa án độc lập, khách quan đối với những người yếu thế (người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án và những người tham gia tố tụng
khác) khỏi sự tùy tiện và sự lạm quyền của các cơ quan và nhân viên Nhà
nước trong các hoạt động TTHS.
1.2.2. Các quyền riêng biệt đối với người chưa thành niên trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự
Nội dung các quy định nêu trong các Công ước, quy tắc có tính đến sự
đa dạng và cơ cấu pháp luật của các quốc gia, phản ánh mục đích và tinh thần
của tư pháp người chưa thành niên, đề ra những nguyên tắc mong muốn và
thông lệ đối với việc quản lý người chưa thành niên phạm tội; đồng thời đảm
bảo rằng, trong quá trình thực thi và áp dụng pháp luật thì quyền của người
chưa thành niên, kể cả trong trường hợp họ là đối tượng thực hiện hành vi

18



nguy hiểm cho xã hội không bị vi phạm.
Để thực hiện được mong muốn và tinh thần nêu trên, Công ước và một
số quy tắc, hướng dẫn khác đó thể hiện khá đầy đủ và tập trung các quyền cụ
thể của người chưa thành niên phạm tội cũng như những lưu ý đối với việc
xây dựng hệ thống pháp luật và việc áp dụng pháp luật nhằm bảo đảm quyền
con người, quyền trẻ em của người chưa thành niên khi các em phạm tội.
Điều 40 của Công ước yêu cầu các Quốc gia thành viên phải thúc đẩy
việc thành lập một hệ thống tư pháp người chưa thành niên riêng và đặc biệt
là ban hành các đạo luật quy định trình tự, thủ tục, các cơ quan và thể chế áp
dụng riêng cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật hình sự. Công ước
đưa ra các quy định đảm bảo tối thiểu cho người chưa thành niên (các quy
định đảm bảo tranh tụng) vào thời điểm bị bắt giữ, xét xử và kết án. Công ước
yêu cầu các quốc gia thành viên quy định độ tuổi tối thiểu chịu trách nhiệm
hình sự, và các biện pháp xử lý người chưa thành niên vi phạm pháp luật hình
sự mà không phải áp dụng thủ tục tố tụng (xử lý chuyển hướng, thay thế). Các
quốc gia thành viên cũng cần có nhiều biện pháp xử lý khác nhau đối với
người chưa thành niên nhằm đảm bảo các em được xử lý một cách phù hợp
với sự phát triển ở độ tuổi này.
Bên cạnh đó, Điều 37 của Công ước quy định người chưa thành niên
phải được bảo vệ tránh khỏi bị tra tấn, phân biệt đối xử hoặc trừng phạt tồi tệ,
vô nhân đạo cũng như những hành vi làm mất phẩm giá. Người chưa thành
niên chỉ bị bắt, bị giam giữ và áp dụng hình phạt khi không thể áp dụng các
biện pháp thay thế. Trong trường hợp bị giam giữ, các em phải được đối xử
nhân đạo và việc giam giữ theo chế độ riêng phù hợp với sự phát triển của lứa
tuổi về cả tâm và sinh lý.
Công ước có nêu ra một nguyên tắc chung định hướng hành động có
liên quan tới người chưa thành niên phạm tội như sau:


19


Mọi trẻ bị cáo buộc, buộc tội hoặc bị coi là vi phạm luật hình
sự đều có quyền được đối xử phù hợp với sự phát triển ý thức về
nhân phẩm và phẩm chất của trẻ. Sự phát triển ý thức đó giúp tăng
thêm ý thức tôn trọng các quyền con người và quyền tự do cơ bản
của người khác; giúp xem xét khía cạnh lứa tuổi của trẻ và mong
muốn của chúng về sự tái hoà nhập cộng đồng [3, Điều 40].
Nguyên tắc chung này cần được coi là kim chỉ nam cho việc tiến hành
xây dựng, áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên phạm tội. Quyền
lợi cơ bản nhất của người chưa thành niên phải trở thành một yếu tố quan
trọng trong các quyết định tố tụng đối với họ.
Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng pháp
luật với người chưa thành niên năm 1985 (gọi tắt là Quy tắc Bắc Kinh) đề ra
các tiêu chuẩn tối thiểu, toàn diện về việc áp dụng pháp luật với người chưa
thành niên. Các quy tắc này hướng dẫn các quốc gia thành viên khi xây dựng
các hệ thống tư pháp riêng cho người chưa thành niên theo nghĩa vụ được quy
định tại Điều 40 của Công ước về quyền trẻ em. Nội dung của điều này là cơ
sở để các quốc gia thành viên xây dựng và ban hành các luật, quy tắc, thể chế
để áp dụng riêng đối với người chưa thành niên phạm tội, và bảo vệ các quyền
cơ bản của họ.
Quy tắc Bắc Kinh một lần nữa nhấn mạnh việc xây dựng hệ thống các
quy định áp dụng đối với người chưa thành niên cần chú trọng đến quyền, lợi
ích của người chưa thành niên, đồng thời đảm bảo mọi quyết định xử lý người
chưa thành niên phải phù hợp với hoàn cảnh và tương xứng với tính chất, mức
độ của hành vi phạm tội mà các em đó thực hiện.
Hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người
chưa thành niên năm 1990 (gọi tắt là Hướng dẫn Riát) đưa ra cách tiếp cận
phòng ngừa tội phạm tích cực, toàn diện và đặt người chưa thành niên là trung


20


×