Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tày ở tuyên quang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (953.86 KB, 132 trang )

I HC QUC GIA H NI
TRNG I HC KHOA HC X HI V NHN VN
--------------------------------------

HONG TH KIM OANH

GIữ GìN Và PHáT HUY BảN SắC VĂN HóA DÂN TộC TàY
ở TUYÊN QUANG HIệN NAY

LUN VN THC S
Chuyờn ngnh: Trit hc

H Ni - 2014


I HC QUC GIA H NI
TRNG I HC KHOA HC X HI V NHN VN
--------------------------------------

HONG TH KIM OANH

GIữ GìN Và PHáT HUY BảN SắC VĂN HóA DÂN TộC TàY
ở TUYÊN QUANG HIệN NAY

Lun vn Thc s chuyờn ngnh Trit hc
Mó s: 60.22.03.01

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS. V Vn Viờn

H Ni - 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Vũ Văn Viên, có kế thừa một số kết quả nghiên cứu
đã được công bố. Các số liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực, đảm bảo
tính khách quan và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách
nhiệm trước hội đồng khoa học về luận văn của mình.

Hà Nội, Ngày … tháng … năm 2014
Tác giả

Hoàng Thị Kim Oanh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ GIỮ GÌN VÀ
PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC TÀY Ở TUYÊN QUANG .... 6
1.1. Cơ sở lý luận của vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc Tày ở Tuyên Quang ............................................................................ 6
1.1.1. Khái niệm văn hoá và bản sắc văn hoá ........................................... 6
1.1.2. Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và quan điểm chỉ đạo
trực tiếp của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang về giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc ...................................................................................... 12
1.1.3.Vai trò của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Tày ở
Tuyên Quang hiện nay ........................................................................... 19
1.2. Cơ sở thực tiễn của vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc Tày ở Tuyên Quang ................................................................... 23
1.2.1 Tuyên quang là địa bàn có bản sắc văn hoá các dân tộc độc đáo

trong đó có dân tộc Tày ......................................................................... 23
1.2.2 Tác động của kinh tế thị trường đối với công tác giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc Tày ở Tuyên Quang hiện nay........................... 29
Chương 2: BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC TÀY Ở TUYÊN QUANG .... 33
2.1 Vài nét về dân tộc Tày ở Tuyên Quang............................................ 33
2.1.1 Dân số, nguồn gốc ........................................................................ 33
2.1.2 Tình hình kinh tế........................................................................... 33
2.1.3 Quan hệ xã hội ............................................................................. 35
2.2 Bản sắc văn hoá dân tộc Tày ở Tuyên Quang ................................. 40
2.2.1 Văn hóa vật chất ........................................................................... 40
2.2.2 Văn hoá tinh thần .......................................................................... 47
2.2.2.1 Một số tục lệ trong chu kì đời người ....................................... 47


Chương 3: GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC TÀY
Ở TUYÊN QUANG HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ........... 80
3.1 Thực trạng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Tày ở
Tuyên Quang hiện nay ............................................................................ 80
3.1.1 Thực tế triển khai công tác giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc Tày ở Tuyên Quang ......................................................................... 80
3.1.2 Thực trạng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc tại cộng
đồng người Tày ..................................................................................... 84
3.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc việc gìn giữ và phát huy bản sắc
văn hoá của người Tày ở Tuyên Quang hiện nay................................. 98
3.2.1 Những yếu tố khách quan ............................................................ 98
3.2.2. Các yếu tố chủ quan ................................................................... 103
3.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc Tày ở Tuyên Quang ................................................................. 105
3.3.1 Một số phương hướng nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
của người Tày ở Tuyên Quang hiện nay .............................................. 105

3.3.2 Một số giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy tốt hơn nữa bản sắc
văn hoá người Tày ở Tuyên Quang hiện nay ....................................... 107
KẾT LUẬN ............................................................................................... 121
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 124


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc. Mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa
đặc thù. Sự đan xen bản sắc văn hóa của các dân tộc tạo nên tính đa dạng của
văn hóa Việt Nam. Trong quá trình phát triển các dân tộc đã hình thành nên
những bản sắc văn hóa đặc trưng, đồng thời chính bản sắc văn hóa đó trở
thành “nguồn sống”, động lực cho các dân tộc tồn tại và phát triển. “ Một dân
tộc thiếu văn hóa chưa phải là một dân tộc thực sự hình thành, một nền văn
hóa không có bản sắc dân tộc thì nền văn hóa ấy không có sức sống thực sự
của nó” [21;14]
Khẳng định vai trò, giá trị của văn hóa tại Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X, Đảng ta khẳng định: văn hóa là nền tảng, là động lực cho sự phát
triển xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, bản sắc văn hóa dân tộc, một mặt,
có điều kiện được bổ sung, làm giàu lên và được khẳng định. Nhưng mặt khác
bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc lại cũng có thể bị phai nhạt, lãng
quên, mai một, thậm chí có thể bị chối bỏ. Để bản sắc văn hóa dân tộc thực sự
trở thành sức mạnh nội sinh cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc, việc
nghiên cứu, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc là một việc
làm cần thiết, thường xuyên và lâu dài. Người Tày- một dân tộc có số dân
đông nhất trong 53 dân tộc thiếu số ở nước ta, ở tỉnh Tuyên Quang dân tộc
Tày có số dân đứng thứ 2 trong số 22 dân tộc sống nhiều ở khu vực miền núi
phía Bắc đặc biệt là Đông Bắc trong đó có Tuyên Quang. Như mọi dân tộc
khác người Tày đã sớm hình thành một nền văn hóa rất riêng và đặc sắc. Nền
văn hóa ấy không những chỉ ảnh hưởng sâu xa đến từng cá nhân trong cộng

đồng người Tày mà còn góp phần làm phong phú thêm những giá trị cho nền
văn hóa đa dân tộc ở Việt Nam. Trong những năm gần đây sự quan tâm của
Đảng và nhà nước trong việc đầu tư, phát triển bình đẳng về kinh tế, chính trị,
xã hội giữa các vùng miền nói chung và tỉnh Tuyên Quang nói riêng đã tạo
điều kiện cho các dân tộc ít người phát triển. Tuy nhiên cũng còn tồn tại một
1


số vấn đề trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội đã ít nhiều ảnh hưởng tiêu
cực đến quá trình giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Nhiều bản sắc
văn hóa truyền thống của người Tày bị mai một do ảnh hưởng của kinh tế thị
trường. Một dân tộc không thể tồn tại và phát triển nếu đánh mất nền văn hóa
của mình. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Tày là việc làm mang
tính thời sự, cấp bách hiện nay. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Tày cũng là làm rõ thêm sự phong phú, đa dạng của văn hóa Việt Nam.
Bởi vậy, chúng tôi chọn đề tài : “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc Tày ở Tuyên Quang hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ,
chuyên ngành Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu
Các vấn đề về văn hóa, bản sắc văn hóa cũng như văn hóa các dân tộc
đã được nghiên cứu nhiều, dưới những phạm vi và góc độ khác nhau.
Nghiên cứu văn hóa dưới góc độ triết học có các công trình:
Vũ Đức Khiển, “ Văn hóa với tư cách là một khái niệm triết học và vấn
đề xác định bản sắc văn hóa dân tộc”, Tạp chí Triết học (số 4/2000)
Lương Việt Hải, “ Văn hóa, triết lý và triết học”, Tạp chí Triết học (số 10/2008)
Nguyễn Huy Hoàng, Triết học- văn hóa giá trị và con người, Viện Văn
hóa & Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà nội, 2003
Lê Ngọc Trà, Văn hóa Việt Nam đặc trưng và tiếp cận, ( Nxb Giáo dục
Hà Nội, 2003
Phan Ngọc, Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb VHTT, Hà

Nội, 2003…
Trong đó các tác giả đã chỉ ra được mối quan hệ giữa văn hóa với triết
lý, triết học. Nghiên cứu văn hóa với tư cách là trình độ phát triển bản chất
người, khẳng định vai trò của văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.
Nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc* và quá trình xây dựng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc các nhà nghiên cứu đã công bố những
công trình nghiên cứu như:
2


Đỗ Huy- Trường Lưu, “Bản sắc dân tộc của văn hóa” (Viện văn hóa, 1994)
Huy Cận, “Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc, Nxb CTQG, Hà nội 1994)
Lê Ngọc Thắng- Lâm Bá Nam, Bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam,
( Nxb VHDT, 1993)
Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TPHCM…
Các công trình đã chỉ ra những nét đặc trưng của dân tộc, tính thống
nhất trong đa dạng của nền văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên các công trình chủ
yếu vẫn triển khai dưới góc độ văn hóa học.
Nghiên cứu văn hóa dân tộc Tày và văn hoá dân tộc Tày ở Tuyên
Quang đã có các công trình:
Ts. La Công Ý, Đến với người Tày và văn hóa Tày, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2012.
Nịnh Văn Độ, Nguyễn Phi Khanh, Hoàng thế Hùng, Văn hóa truyền thống
các dân tộc Tày, Dao, Sán dìu ở Tuyên Quang, Nxb Văn hóa dân tộc, 2003.
Ban dân tộc Tuyên Quang, Các dân tộc thiếu số ở Tuyên Quang, xuất
bản 1972.
Lục Văn Pảo ( sưu tầm và dịch), Lượn cọi, Nxb Văn hóa dân tộc
Bốn mươi năm các dân tộc Hà Tuyên- Nhiều tác giả, Tỉnh uỷ tỉnh Hà
Tuyên xuất bản, 1985
Văn hoá truyền thống các dân tộc Tày, Nùng- Nhiều tác giả. NXB văn

hoá dân tộc, 1996
Từ điển thành ngữ, tục ngữ dân tộc Tày- Hoàng Quyết, Triều Ân. NXB
Văn hoá dân tộc, 1994
Hoa văn trên sản phẩm dệt của người Tày ở Cao Bằng và Bắc CạnThạc sĩ Ma Ngọc Dung, 1997…
Nhìn chung: các công trình, tác phẩm đều đã đi vào khai thác những
đặc điểm chung về văn hóa, bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số, văn hóa
của dân tộc ở nước ta và người Tày ở Tuyên Quang, tuy nhiên, những nghiên
cứu này chỉ mới đề cập đến việc tìm hiểu những giá trị văn hóa, phong tục tập
3


quán của người Tày nhằm giới thiệu về người Tày, những cái hay, cái đẹp của
văn hóa dân tộc Tày. Các công trình này vẫn chưa đề cập đến một các sâu sắc
và rõ ràng, nhất là chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống dưới góc
độ triết học việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Tày trong giai
đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Đây cũng là vấn đề trọng tâm
mà luận văn muốn hướng tới nghiên cứu và tìm hiểu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu bản sắc văn hóa người Tày, thực trạng giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa người Tày ở Tuyên Quang hiện nay và đưa ra các
giải pháp góp phần giữ gìn và phát huy tốt hơn nữa bản sắc văn hóa ấy trong
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên, Luận văn hướng vào giải quyết các
nhiệm vụ cụ thể sau:
Một là, phân tích các nét văn hóa của người Tày và chỉ ra bản sắc văn
hóa đặc trưng của người Tày.
Hai là, khảo sát thực trạng việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc Tày ở Tuyên Quang hiện nay và chỉ ra các nguyên nhân của thực trạng đó.

Ba là, đề xuất các giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
người Tày ở Tuyên Quang trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu từ góc độ triết học bản sắc văn hóa dân tộc Tày ở
tỉnh Tuyên Quang.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những nét văn hóa đặc trưng cơ bản tạo nên bản
sắc văn hóa độc đáo của người Tày nói chung và ở tỉnh Tuyên Quang nói
riêng nhằm gìn giữ và phát huy nó trong giai đoạn hiện nay
4


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin; Tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc; đường lối, chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước; đồng thời, luận văn cũng tham khảo các công trình nghiên cứu có
liên quan đến đề tài.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp: phân tích, so sánh, tổng
hợp; trừu tượng hóa; kết hợp lịch sử và logic. Ngoài ra còn sử dụng phương
pháp nghiên cứu liên nghành triết học- văn hóa, thống kê số liệu nhằm đạt
được mục đích mà đề tài đặt ra
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn phân tích từ góc độ triết học bản sắc văn hóa của người Tày; đánh
giá thực trạng giữ gìn và phát huy bản săc văn hóa ấy và đưa ra các giải pháp
nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Tày ở Tuyên Quang hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần khẳng định các giá trị văn hóa của người Tày trong

cộng đồng các dân tộc Việt Nam; Xác định các giải pháp giữ gìn và phát huy
tốt hơn bản sắc văn hóa dân tộc Tày nói chung và Tuyên Quang nói riêng.
Do vậy luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu giảng dạy các môn học văn hóa hoc, dân tộc học, văn học địa phương,
triết học văn hóa
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương với 7 tiết.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ GIỮ GÌN
VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC TÀY
Ở TUYÊN QUANG
1.1. Cơ sở lý luận của vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc Tày ở Tuyên Quang
1.1.1. Khái niệm văn hoá và bản sắc văn hoá
1.1.1.1 Văn hóa
Khái niệm văn hóa được hiểu rất khác nhau. Văn hóa của loài người đã
có từ rất lâu rồi, nhưng mãi đến thế kỉ XVI II thuật ngữ văn hóa như một khái
niệm khoa học mới được hình thành. Đến nay có khoảng 400 định nghĩa khác
nhau về văn hóa. Tình hình đó phản ánh bản thân nội hàm khái niệm văn hóa
rất rộng, mỗi khoa học lại tiếp cận văn hóa từ những đặc trưng khác nhau. Ở
đây để phục vụ mục đích luận văn chúng tôi nói đến văn hóa theo cách tiếp
cận triết học Mác.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin không đưa ra định nghĩa
văn hóa hay một tác phẩm kinh điển nào bàn riêng về văn hóa. Mác đã nhiều
lần so sánh sự khác biệt giữa con người với con vật từ việc ăn thỏa mãn cái
đói đến hoạt động “ nhào nặn vật chất” để chỉ ra văn hóa chỉ có ở con người.

Trên lập trường duy vật biện chứng, triết học Mác đã xem văn hóa như là sản
phẩm hoạt động của con người, là cái mang đặc trưng cho tính người. Mác
thừa nhận: con người là một bộ phận của giới tự nhiên. Nhờ lao động, con
người thoát thai khỏi thế giới động vật để trở thành “ thực thể song trùng”
thống nhất giữa “ thực thể tự nhiên” và “ thực thể xã hội”. Trong lao động,
con người đã xác lập mối quan hệ bền chặt giữa con người với tự nhiên, con
người với con người. Đây là hoạt động có tính cộng đồng của các cá thể,
thông qua đó bản chất người được hình thành và hoàn thiện.

6


Hồ Chí Minh – danh nhân văn hóa thế giới- trong bài viết “ mục đọc
sách” đã nói về giá trị, ý nghĩa của đời sống văn hóa: “ Ý nghĩa của văn hóa:
vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hang ngày về mặc, ăn,ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh ho ạt cùng biểu hiện
của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu của đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [ 21; 431].
Từ quan điểm này chúng ta có thể thấy văn hóa là toàn bộ những gì do
con người tạo ra.
Văn hóa vật chất bao gồm các đồ vật, công nghệ và cả một bộ phận
nghệ thuật.
Văn hóa tinh thần bao gồm ngôn ngữ, các kiến thức, kĩ năng, giá trị, tín
ngưỡng và phong tục tập quán.
Có thể nói, về bản chất văn hóa thể hiện trình độ phát triển của con
người. Văn hóa chính là dấu ấn cộng đồng được ghi lại, được lưu truyền vào
những phong tục tập quán, nghi lễ, tôn giáo, cách ứng xử, các mối quan hệ và

cả ở những công trình hay các sản phẩm vật chất, cũng như các tác phẩm
nghệ thuật do chính con người ở cộng đồng hay dân tộc đó sáng tạo ra trong
những giai đoạn lịch sử khác nhau.
Trong diễn văn khai mạc lễ phát động “ thập niên quốc tế phát triển
văn hóa” tại Pháp (21/01/1998) Tổng thư kí UNESCO định nghĩa:
“Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt
của đời sống (của mỗi cá nhân hay cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng
như trong hiện tại, qua hàng bao thế kỉ, nó cấu thành nên một hệ thống các giá
trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng
định bản sắc riêng của mình” [49; 16]. UNESCO đã thừa nhận văn hóa là cội
nguồn trực tiếp của sự phát triển xã hội, có vai trò điều tiết xã hội. Nó không
7


những là yếu tố nội sinh của sự phát triển, mà còn là mục tiêu và động lực của sự
phát triển xã hội. Văn hóa giúp cho con người tự hoàn thiện, nó quyết định tính
cách riêng của một xã hội, làm cho dân tộc này khác dân tộc khác.
Ở Việt Nam, văn hóa của dân tộc thường được hiểu theo hai nghĩa, hai
cấp độ khác nhau: Ở phạm vi hẹp, văn hóa của dân tộc đồng nghĩa với văn
hóa của một tộc người, văn hóa dân tộc hoặc văn hóa tộc người là một phạm
vi của văn hóa nói chung. Phạm vi rộng, văn hóa dân tộc là văn hóa chung
của cả cộng đồng người sống trong cùng một quốc gia.
Văn hóa tộc người là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần, cũng
như những quan hệ xã hội được sáng tạo trong điều kiện môi trường sinh tụ
của một tộc người, phản ánh những nhận thức, tâm lý, tình cảm, tập quán
riêng biệt được hình thành trong lịch sử của tộc người đó. Ở các quốc gia đa
dân tộc, văn hóa các tộc người đan xen, hấp thụ lẫn nhau nên nét chung của
văn hóa quốc gia, của cả cộng đồng dân tộc, và mỗi nền văn hóa đều có
những giá trị riêng của nó.
Giá trị văn hóa “ là cái dùng để căn cứ vào đó mà xem xét, đánh giá, so

sánh nền văn hóa của dân tộc này với nền văn hóa của dân tộc khác , là cái để
xá định bản sắc văn hóa của một dân tộc, những nét đặc thù về truyền thống,
phong tục tập quán, lối sống của một dân tộc trên nền tảng các giá trị chân,
thiện, ích, mỹ” [38; 19].
Bản chất đặc trưng của giá trị văn hóa là chiều cạnh trí tuệ, năng lực
sáng tạo, khát vọng nhân văn biểu hiện ở hoạt động sống của mỗi cá nhân,
cộng đồng, dân tộc. Mục đích của giá trị văn hóa nhằm hướng tới các giá trị
nhân bản, hướng tới sự hoàn thiện của mỗi cá nhân và cộng đồng dân tộc.
Mặc dù, tiêu chuẩn của các giá trị văn hóa của các cộng đồng, dân tộc là
không như nhau. Giá trị văn hóa còn mang tính khách quan, không phụ thuộc
vào bất cứ cái gì bên ngoài áp đặt để trở thành văn hóa của một cộng đồng,
một dân tộc. Không thể căn cứ vào văn hóa của một dân tộc nào để làm tiêu
chí xem xét, đánh giá nền văn hóa của các dân tộc còn lại là cao hay thấp,
8


phát triển hay không… điều đó sẽ rơi vào bệnh chủ quan, tạo nên sự nô dịch
hay sự áp đạt về văn hóa. Điều này rất có ý nghĩa khi nghiên cứu văn hóa tộc
người trong văn hóa chung của nhân loại, của khu vực hay trong một nước.
Có thể nói, giá trị văn hóa của một cộng đồng, dân tộc như là “ mật mã
di truyền giá trị xã hội” của tất cả các thành viên sống trong cộng đồng, dân
tộc đó, được tích lũy lắng đọng trong quá trình hoạt động của mình. Chính
quá trình đó đã hình thành nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc họ. Quan hệ
văn hóa với dân tộc là quan hệ quyết định nhất của một nền văn hóa cũng là
của một dân tộc bởi vì : “ nói đến văn hóa là nói đến dân tộc, một dân tộc
đánh mất đi truyền thống văn hóa và bản sắc văn hóa, dân tộc ấy đã đánh mất
chính mình” [51; 31].
1.1.1.2 Bản sắc văn hóa
Lịch sử phát triển văn hóa nhân loại cho thấy, nền văn hóa của tất cả
các dân tộc đều có xu hướng bản sắc văn hóa. Các nếp cảm, nếp nghĩ, tâm lý

cộng đồng, quan hệ giao tiếp, điều kiện tự nhiên và ngôn ngữ dân tộc… luôn
luôn tương tác thành diện mạo văn hóa của mỗi dân tộc. Các đặc điểm về
truyền thống đạo đức, các quy chuẩn thẩm mỹ làm thành những nét đặc thù
trong văn hóa của mỗi dân tộc. Chính vì vậy, mỗi nền văn hóa bao giờ cũng
tàng chứa những tố chất đặc sắc, tạo nên nét riêng của mình đó là bản sắc. Cái
bản sắc đó được kết tinh từ tâm hồn, khí phách hàng ngàn đời của dân tộc, nó
là căn cước để nhận dạng nó trong hàng trăm ngàn nền văn hóa, là bộ gien để
di truyền bản sắc truyền thống của mình cho các thế hệ mai sau. Bản sắc văn
hóa là cái bảo đảm cho thế ổn định và trường tồn của một nền văn hóa.
Như vậy có thể hiểu bản sắc văn hóa là cái cốt lõi, nội dung, bản chất
của một nền văn hóa riêng vốn có của một nền văn hóa của một dân tộc.
Những nét riêng ấy thường được biểu hiện qua các giá trị văn hóa vật chất và
tinh thần, vật thể và phi vật thể. Các giá trị văn hóa này ra đời gắn với chính
điều kiện môi sinh mà dân tộc ấy thích nghi và phát triển qua các giai đoạn
khác nhau của một dân tộc. Những giá trị văn hóa ấy, cho dù có trải qua
9


những thăng trầm biến cố của lịch sử nó cũng không những không mất đi, mà
cùng với thời gian, nó còn tiếp nhận những cái hay, cái đẹp, cái phù hợp của
văn hóa các dân tộc khác làm phong phú, đặc sắc hơn cho dân tộc mình, làm
cho nó luôn là nó chứ không phải cái khác.
Bản sắc văn hóa là một sức mạnh, là sức mạnh nội tại của dân tộc. Nó
là hạt nhân bền vững nhất trong toàn bộ tinh thần sang tạo truyền từ đời này
sang đời khác.Bản săc văn hóa làm cho một dân tộc luôn là chính mình. Ở
đây nguyên lý phát triển vẫn là nguyên lý xuất phát, có ý nghĩa phương pháp
luận. Với nguyên lý này chúng ta có thể vạch ra cơ sở chung và sự thống nhất
đằng sau sự đa dạng trong sinh hoạt cộng đồng của con người. Theo đó văn
hóa được quan niệm là nội dung chung, là kết quả của sự phát triển lịch sử.
Bản sắc văn hóa là cái được thường xuyên duy trì, tái hiện, hoàn thiện trong

tiến trình lịch sử, mặc dù nó tồn tại dưới một hình thức đặc thù, đặc biệt ở mỗi
giai đoạn phát triển lịch sử cụ thể.
Bởi vậy, khi đề cập đến vấn đề bản sắc văn hóa của một dân tộc, một
quốc gia nào đó chúng ta cần phải nhận thấy nó ở sự thống nhất giữa cái đặc
thù và cái phổ biến, cái chung và sắc thái riêng trong tiến trình phát triển lịch
sử. Bản sắc văn hóa cũng là mối liên hệ thường xuyên, có định hướng của cái
riêng ( văn hóa dân tộc) và cái chung (văn hóa nhân loại). Mỗi dân tộc trong
quá trình giao lưu văn hóa sẽ cống hiến những gì là đặc sắc của mình vào kho
tang văn hóa chung. Đồng thời tiếp nhận có lựa chọn, nhào nặn thành giá trị
của mình, tạo ra sự khác biệt trong cái chung, hình thành nên bản sắc văn hóa
của một dân tộc. Bản sắc văn hóa của một dân tộc không phải là biểu hiện
nhất thời mà là kết quả của các mối liên hệ lâu dài, sâu sắc và bền vững trong
lịch sử và đời sống văn hóa dân tộc.
Văn hóa là cái đánh giá sự phát triển của con người với tư cách một
sinh vật xã hội. Theo đó “ bản sắc dân tộc của văn hóa” phải biểu thị những
nét đặc thù trong sự phát triển con người, của một dân tộc nào đó. Để xác
định được một “ bản sắc dân tộc của văn hóa” chúng ta phải chỉ ra được sự
10


phát triển của con người trong nền văn hóa ấy và những biểu hiện cụ thể của sự
phát triển ấy. Do vậy chỉ có những yếu tố đặc thù, giữ vai trò tích cực trong sự
phát triển con người thì mới tạo nên “ bản sắc dân tộc của một nền văn hóa”.
Một dân tộc có bản sắc đậm đà, giá trị truyền thống mạnh mẽ, sẽ không
bao giờ bị thôn tính, bị hòa tan hay xóa nhòa, dù nó có bị những lực lượng
xâm lược mạnh hơn nó về kinh tế hay quân sự. Với sức mạnh nội sinh đó, tiếp
thu các giá trị hợp lý từ bên ngoài, bổ sung cho những cái bên trong, cái mà
nó đang thiếu hụt, giá trị truyền thống sẽ là cơ sở vững chắc cho sự vận động
của xã hội, cho sự phát triển của đất nước và dân tộc.
Bản sắc dân tộc luôn gắn liền với văn hóa và thường được biểu hiện

thông qua văn hóa. Tuy nhiên “ bản sắc chính là văn hóa, nhưng không phải
yếu tố văn hóa nào cũng được coi là bản sắc. Người ta chỉ coi những yếu tố
văn hóa nào giúp phân biệt cộng đồng văn hóa này với cộng đồng văn hóa
khác là bản sắc” [ 52; 83].
“ Bản sắc văn hóa dân tộc” là tổng hòa những khuynh hướng cơ bản
trong sáng tạo văn hóa của một dân tộc, vốn được hình thành trong mối liên
hệ thường xuyên với điều kiện kinh tế, môi trường tự nhiên, các thể chế, các
hệ tư tưởng… trong quá trình vận động không ngừng của dân tộc ấy.
Nguồn gốc tạo thành bản sắc văn hóa có thể do nhiều yếu tố như: hoàn
ảnh địa lý, nguồn gốc chủng tộc, đặc trưng tâm lý, phương thức hoạt động
kinh tế. Vì thế, hiểu khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc phải hiểu như một
khái niệm mở và phát triển. Nó không chỉ là hình thúc mà còn là nội dung đời
sống cộng đồng, gắn với bản lĩnh các thế hệ, các dân tộc Việt Nam. Nghị
quyết hội nghị BCHTW khóa VIII của Đảng đã chỉ rõ: “ Bản sắc dân tộc bao
gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và
giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần
đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân- gia đình- làng xã- tổ quốc… Bản
sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét trong cả hình thức biểu hiện mang tính dân
tộc độc đáo” [13; 90].
11


Bản sắc văn hóa là các giá trị tiêu biểu, bền vững, phản ánh sức sống
của từng dân tộc, nó thể hiện tập trung ở truyền thống văn hóa. Truyền thống
văn hóa là các giá trị do lịch sử để lại được thế hệ sau tiếp nối, khai thác và
phát huy trong thời đại của họ để tạo nên dòng chảy liên tục của lịch sử văn
hóa các dân tộc. Khi đã được hình thành và trở thành truyền thống bản sắc
văn hóa mang tính bền vững và có chức năng định hướng, đánh giá, điều
chỉnh hành vi của cá nhân và của cộng đồng. Tuy nhiên, khái niệm bản sắc

văn hóa không phải là bất biến, cố định, hoặc khép kín mà nó luôn vận động
và mang tính lịch sử cụ thể. Bản sắc cũng vận động như bất cứ một hiện
tượng nào, nó không đứng im trong thời gian mà sẽ bổ sung những yếu tố nào
đó một cách rất tự nhiên. Do đó, ta bảo vệ bản sắc nhưng cũng không bảo thủ
với bản sắc. Trong quá trình này nó luôn đào thải những yếu tố bảo thủ, lạc
hậu để tạo lập những yếu tố mới để thích nghi với đòi hỏi của thời đại.
Truyền thống cũng không phải chỉ bao hàm các giá trị do dân tộc sang tạo
nên, mà còn bao hàm cả các giá trị từ bên ngoài được tiếp nhận một cách sang
tạo và đồng hóa nó, biến nó thành nguồn lực nội sinh của dân tộc.
Như vậy, có thể nói rằng bản sắc văn hóa là tổng thể những tính chất, tính
cách, đường nét, màu sắc, biểu hiện ở một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát
triển của dân tộc đó, giúp cho dân tộc đó giúp giữ vững được tính duy nhất, tính
thống nhất, tính nhất quán của mình trong lịch sử phát triển. Bản sắc dân tộc là
một động thái, một sức sống bên trong của một dân tộc, một quá trình thường
xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự tái tạo mình và từ sự tiếp nhận bởi chính mình.
Bởi thế, bản sắc là thẻ căn cước của mỗi nền văn hóa dân tộc, là những
đặc trưng cơ bản quy định diện mạo của nền văn hóa đó.
1.1.2. Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và quan điểm chỉ
đạo trực tiếp của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang về giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc
Về chủ trương đường lối của Đảng:
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đi qua chặng
đường gần 30 năm và thu được những thành quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
12


Cùng với những thành tựu quan trọng về kinh tế, an ninh-quốc phòng, đối
ngoại, vấn đề phát triển văn hoá-xã hội và xây dựng con người luôn được
Đảng coi trọng. Trước những khó khăn, thách thức, những biến động phức tạp
của tình hình thế giới và khu vực, Đảng luôn kiên định xây dựng và thực hiện

các chủ trương, chính sách đổi mới đúng đắn trên nhiều lĩnh vực trong đó có
lĩnh vực văn hoá nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.
Trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước từ năm 1986, những nhận
thức mới của về văn hoá có bước chuyển biến quan trọng. Nền văn hoá mà
Đảng ta xác định phải xâu dựng là nền văn hoá có đặc trưng dân tộc, hiện đại,
nhân văn. Một hệ thống lí luận văn hoá được hợp thành với lí luận chung trong
quá trình đổi mới tư duy của toàn xã hội.
Tháng 11 năm 1987, bộ chính trị ra Nghị quyết số 05 về văn hoá-văn
nghệ. Tháng 8 năm 1989, Ban bí thư Trung ương ra chỉ thị số 52-CT/TW về
công tác quản lý văn học- nghệ thuật, tháng 1 năm 1993, BCHTW ra nghị
quyết TW 4 về một số nhiệm vụ văn hoá-văn nghệ những năm trước mắt.
Tháng 7 năm 1998, hội nghị trung ương 5 khoá VIII ra nghị quyết về xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Toàn bộ tinh thần nghị quyết trung ương 5 khoá VIII về xây dựng và
phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc đã
làm sáng lên bức tranh của nền văn hoá Việt Nam trong tương lai. Đó là văn
hoá với vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực thúc đẩy
kinh tế- xã hội phát triển, gắn với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, gắn với những vấn đề nảy sinh trong xu thế toàn cầu hoá và nền kinh tế
thị trường. Đối với công tác văn hoá, Nghị quyết khẳng định: đây là vấn đề cực
quan trọng, cơ bản và chiến lược không chỉ đối với công tác lãnh đạo mà cả
công tác quản lý văn hoá, với mỗi cán bộ, đảng viên.
Có thể nói, Nghị quyết trung ương 5 khoá VIII đã thể hiện sự phát triển
cả nhận thức và tư duy lý luận về văn hoá, lãnh đạo văn hoá của Đảng. Đó
13


cũng chính là kết tinh của sự kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác- lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, về xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá,

về phương pháp lãnh đạo văn hoá, quản lý văn hoá, là sản phẩm từ tổng kết lý
luận và thực tiễn trong quá trình hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo văn
hoá của Đảng.
Trên cơ sở thực tiễn Nghị quyết trung ương 5 khoá VIII, Nghị quyết đại
hội IX tiếp tục nhấn mạnh vị trí của văn hoá tronng sự nghiệp phát triển của
dân tộc ta, khẳng định những quan điểm, tư tưởng nêu trong nghị quyết trung
ương 5 trong đời sống xã hội, trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Về ý nghĩa, nghị quyết đã
nhấn mạnh tầm cao, chiều sâu của sự phát triển của dân tộc, khẳng định và làm
rõ vị trí của văn hoá trong đời sống dân tộc, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị trung ương 10 Khoá IX kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết trung
ương 5 và ra kết luận tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát triển văn
hoá làm nền tảng tinh thần xã hội, gắn kết đồng bộ với phát triển kinh tế là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Đại hội X, Đảng ta tiếp tục phát triển
sâu rộng, nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, gắn kết chặt chẽ hơn với phát triển kinh tế- xã hội, làm cho văn hoá
thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng và hoàn thiện giá trị,
nhân cách con người Việt Nam. Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
trong thời kì công nghiệp hoá- hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi
dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý
tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá Việt Nam.
Đầu tư cho giữ gìn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến, di sản
văn hoá vật thể, phi vật thể. Kết hợp hài hoà giữa bảo tồn, phát huy với kế thừa
và phát triển, giữ gìn di tích với phát triển kinh tế du lịch, tinh thần tự nguyện,
tính tự quản của nhân dân trong xây dựng văn hoá. Đa dạng hoá các hoạt động
phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Gần đây nhất, ngày
6/9/2014 hội nghị trung ương Đảng lần IX khoá XI ra nghị quyết về “Xây dựng
14



con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” tiếp tục
khẳng định vai trò của văn hoá trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ
đất nước trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay.
Đảng cũng đưa ra định hướng đối với các chính sách văn hoá. Qúa trình
tiến hành sự nghiệp đổi mới, vấn đề định hướng phát triển đất nước là cực kỳ
quan trọng. Định hướng đúng để đạt mục tiêu mà cương lĩnh năm 1991 về xây
dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã đề ra, được Đại hội
VII của Đảng thông qua. Theo đó, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa để phấn đấu đến năm 2020 cơ bản nước ta trở thành nước công
nghiệp. Điều cốt lõi là chất lượng phát triển. Phát triển muốn đạt chất lượng
nhất định phải có nội dung văn hoá xã hội. Phát triển văn hoá- xã hội và xây
dựng con người luôn luôn gắn bó với định hướng chính trị, định hướng phát
triển đất nước. Và cũng như phát triển kinh tế, phát triển văn hoá cũng phải coi
trọng chất lượng, phải đúng hướng, Bác Hồ đã từng nói: những con người đó
phải được chăm lo cả về bản lĩnh chính trị tư tưởng, học vấn, sức khoẻ, trí tuệ,
tình cảm và đạo đức, đó chính là văn hoá. Nền văn hoá định hướng xã hội chủ
nghĩa thông qua các chính sách văn hoá mang tính nhân văn, vì con người, phát
huy tiềm năng, trí tuệ con người để đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp đổi
mới, của kinh tế tri thức trong xu thế hội nhập quốc tế.
Như vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đánh đuổi
ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Đảng ta luôn quan tâm đến vấn đề giữ
gìn và phát huy vốn văn hoá của dân tộc. Nghị quyết đại hội Đảng các kì VIII,
IX, X, XI, các kết luận, các chỉ thị của Hội nghị trung ương các khoá nêu trên
đều thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng ta trong nhìn nhận đánh giá, chỉ
đạo xây dựng và phát triển văn hoá, gắn chặt với chiến lược xây dựng đất nước
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo hướng đó văn hoá phải thực sự
trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển, đồng thời đòi hỏi một cơ chế
chính sách đảm bảo cho văn hoá và kinh tế cùng phát triển.

15



Việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc là một yêu cầu chính
trị tư tưởng của Đảng ta nhằm góp phần tạo nên sự ổn định và lành mạnh hoá
xã hội. Ở đâu không ổn định thì ở đó không phát triển. Một gia đình, tập thể,
cộng đồng và lớn hơn là toàn xã hội nếu có đời sống văn hoá phong phú, chất
lượng cao, bình đẳng… tức là có chính sách văn hoá nhân văn.
Xây dựng đời sống văn hoá được coi là bước đi ban đầu của sự nghiệp
xây dựng và phát triển văn hoá, là nhiệm vụ quan trọng của việc xây dựng môi
trường văn hoá lành mạnh. Đồng thời xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh
cũng chính là góp phần tạo ra môi trường chính trị-xã hội ổn định an toàn và
bền vững trên cơ sở đời sống kinh tế được đảm bảo. Trong công tác giừ gìn và
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc thì vấn đề giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá ở
từng dân tộc ở từng điạ phương là rất quan trọng. Làm được điều đó thì bản sắc
văn hoá các dân tộc thiểu số cũng như của toàn dân tộc mới được bản tồn và
phát triển bền vững.
Về quan điểm chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đối với công tác
văn hoá:
Thực hiện nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày
16/6/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật
trong thời kỳ mới; Kết luận Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa IX) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Đảng
bộ Tỉnh Tuyên Quang đã chỉ đạo tổ chức thực hiện như sau: Nghị quyết số
19-NQ/TU ngày 12/9/1998 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XII) thực
hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII); Chương trình hành động số 20CTr/TU ngày 18/10/2008 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XIV) về
thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị. Sau khi
tổ chức quán triệt, học tập Nghị quyết, chỉ đạo Ủy ban nhân dân các huyện,
thành phố; các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở xây dựng kế

hoạch, chương trình hành động cụ thể, phù hợp với điều kiện, tình hình thực
16


tế tại địa phương, cơ quan, đơn vị về thực hiện xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, góp phần làm cho văn hóa thực sự thấm sâu vào toàn bộ đời sống
xã hội, đồng thời tiếp tục giữ vững và phát huy truyền thống cách mạng, tình
yêu quê hương đất nước, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới và đường lối phát
triển đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.
Ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện và kế
hoạch cụ thể, như: Quyết định số 1070/QĐ-UB, ngày 1/9/2000 của Ủy ban nhân
dân tỉnh về việc thành lập Ban Chỉ đạo phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa"; Quyết định số 672/QĐ-UB, ngày 26/8/1998 của Ủy ban
nhân dân tỉnh về việc ban hành "Quy định về việc cưới, việc tang, lễ hội, các
hoạt động giao lưu tình cảm và bà i trừ mê tín dị đoan, hủ tục lạc hậu"; Hướng
dẫn số 404/HD-BCĐ, ngày 28/9/2006 của Ban Chỉ đạo phong trào "Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá"; Kế hoạch số 14/KH-UBND, ngày
5/9/2006 về thực hiện phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa" giai đoạn 2006- 2010; Quyết định số 32/2007/QĐ-UBND ngày 10/9/2007
của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển sự nghiệp văn
hóa - thông tin tỉnh Tuyên Quang đến năm 2010, định hướng phát triển đến năm
2020; Kế hoạch số 17/KH-UBND ngày 11/5/2011 "về việc kiểm kê di sản văn
hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang"... Trong đó, tập trung thực hiện
và nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa” gắn với các phong trào thi đua yêu nước; xây dựng các Đề án phát triển sự
nghiệp văn hóa, văn học, nghệ thuật, thông tin đại chúng; xây dựng các cơ chế
chính sách đảm bảo phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Mỗi nhiệm vụ ở từng nhóm vấn đề nêu trên được xác định rõ cơ quan
chủ trì, cơ quan phối hợp và thời gian thực hiện. Công tác kiểm tra, giám sát

các chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết được tổ chức thường xuyên,
hiệu quả với tổng số trên 50 cuộc kiểm tra tại 100% các huyện, thành phố,
đồng thời đưa ra giải pháp thiết thực, phù hợp với điều kiện thực tế theo từng

17


năm, từng giai đoạn cụ thể. Báo cáo đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Nghị
quyết Trung ương 5 (khóa VIII) và Nghị Quyết số 19 của Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh (khóa XII); tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 23 của Bộ
Chính trị; Tổ chức Hội nghị biểu dương "Gia đình văn hóa tiêu biểu xuất sắc
toàn tỉnh" (giai đoạn 2001- 2006); Hội nghị biểu dương "Thôn, bản, tổ dân
phố tiêu biểu xuất sắc toàn tỉnh" (giai đoạn 2005- 2008); Hội nghị tổng kết 10
năm thực hiện Chỉ thị số 27-CT/TW của Bộ Chính trị về Thực hiện nếp sống
văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện
Chỉ thị số 05-CT/TU của Ban Thư ờng vụ Tỉnh ủy về lãnh đạo, chỉ đạo Cuộc
vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư"; Hội
nghị tổng kết 10 năm thực hiện phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá" (giai đoạn 2000-2010).
Tại đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ 15, nhiệm kỳ 2010-2015, Đại
hội đã nhất trí phương hướng tổng quát phát triển văn hoá của tỉnh là: “Xây
dựng phát triển sự nghiệp văn hoá Tuyên Quang tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, trên cơ sở bảo tồn, phát huy, kế thừa các giá trị văn hoá truyền thống dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá tiên tiến. Chú trọng xây dựng và phát huy nhân
tố con người, nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân…”. Quyết
đinh 526/QĐ-UBND ngày 31/12/2012 của UBND tỉnh về việc phê duyệt Quy
hoạch phát triển văn hoá tỉnh Tuyên Quang đến năm 2020 nêu rõ mục tiêu:
“Xây dựng, phát triển nền văn hoá Tuyên Quang tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội và con người trong điều kiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, đẩy mạnh kinh tế quốc tế”. Đồng thời Đảng bộ tỉnh

còn tiếp tục làm tốt công tác quảng bá một số hoạt động văn hoá của các dân
tộc thiểu số đến bạn bè trong và ngoài nước, trong đó tập trung nghiên cứu,
chuẩn bị tốt cả về nội dung và hình thức Lễ hội Lồng Tồng của dân tộc Tày, lễ
hội đường phố trở thành thương hiệu của Tỉnh. Riêng với dân tộc Tày tiếp tục
hoàn thiện hồ sơ Lễ hội Lồng Tồng và nghi lễ Then trình Bộ văn hoá thể thao và
du lịch công nhận là di sản văn hoá cấp quốc gia. Sau đó sẽ trình UNESCO
18


công nhận là di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại. Tiếp tục triển khai xây
dựng Tượng đài Bác Hồ với nhân dân các dân tộc Tỉnh Tuyên Quang đảm bảo
đúng tiến độ, chất lượng tốt. Xúc tiến quy hoạch, xây dựng khu di tích lịch sử
Tân Trào, Đình Hồng Thái, Di tích lịch sử xã Kim Bình…đồng thời trùng tu, tôn
tạo các di tích lịch sử văn hoá khác. Khuyến khích học tập, nghiên cứu, sưu tầm,
bảo quản và giới thiệu di sản văn hoá các dân tộc.
Trên đây là quan điểm chỉ đạo cụ thể của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang
trong công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc nói chung, dân tộc
Tày nói riêng. Các cơ quan chức năng, các ban ngành, địa phương trong tỉnh
phải tuân theo sự chỉ đạo trên trong quá trình triển khai thực hiện.
1.1.3.Vai trò của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
Tày ở Tuyên Quang hiện nay
Bản sắc văn hoá của một dân tộc là di sản vô cùng quí giá, đó là tinh
hoa cốt lõi và là linh hồn của chính dân tộc đó. Tuy nhiên, những giá trị tạo
nên bản sắc đó không phải là bất biến. Khi điều kiện kinh tế xã hội thay đổi
thì cần phải có sự chọn lọc, bổ sung và đổi mới những giá trị đó cho phù hợp.
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Tày là bảo toàn tất cả
những đặc điểm tích cực làm cho các đặc điểm ấy tốt hơn, khắc phục, loại bỏ
những đặc điểm đã lạc hậu có ảnh hưởng tiêu cực, bổ sung những nhân tố mới
tích cực phù hợp với yêu cầu thời đại vào bản sắc văn hoá dân tộc Tày Tuyên
Quang. Vì vậy, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Tày, một dân tộc

có số dân đông thứ hai toàn tỉnh là một việc làm cần thiết đối với việc phát
triển kinh tế-xã hội, xây đựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
tại địa phương.Vai trò quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hoá các dân tộc ở Tuyên Quang được thể hiện như sau:
Thứ nhất, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Tày ở Tuyên Quang là để
củng cố và phát triển ý thức dân tộc, nâng cao tinh thần yêu nước, lòng tự
hào dân tộc.

19


Bản sắc văn hoá dân tộc Tày Tuyên Quang được hình thành bởi chính
những người con Tày trên cơ sở điều kiện, tự nhiên cụ thể trên mảnh đất
Tuyên Quang. Dân tộc Tày giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trước hết là để
khẳng định mình, khẳng định sự tồn tại của dân tộc mình bên cạnh các dân
tộc khác. Là thể hiện bản lĩnh dân tộc, nâng cao tinh thần yêu nước, lòng tự
hào dân tộc. Trong bối cảnh kinh tế thị trường, công nghiệp hoá, hiện đại hoá
cùng với quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đang ảnh
hưởng ngày càng mạnh mẽ đến đời sống các dân tộc trên đất nước trong đó
không ít nhân tố dân tộc bị phai nhạt dần. Thực trạng này dẫn đến tư tưởng
mơ hồ về ý thức dân tộc, làm giảm niềm tự hào về truyền thống lịch sử và
những tính cách tiêu biểu của dân tộc. Đây là một sự nguy hại đối với dân tộc
và là quá trình tự mình đánh mất chính mình. Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc
sẽ làm cho cộng đồng dân cư, nhất là thế hệ trẻ hiểu được lịch sử, truyền
thống dân tộc mình, từ đó khơi dậy niềm tự hào, nâng cao bản lĩnh sống, đứng
vững trước những cám dỗ, những tác động từ bên ngoài.
Thứ hai, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Tày ở Tuyên Quang là để phát
huy tốt hơn nguồn lực nội lực của đồng bào.
Mỗi dân tộc có bản sắc văn hoá riêng phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh
tế, xã hội của dân tộc đó. Bản sắc văn hoá vừa khắc hoạ chân dung dân tộc, vừa

tạo nên những nhân tố nội lực quan trọng thúc đẩy dân tộc phát triển. Giữ gìn
bản sắc văn hoá dân tộc Tày ở Tuyên Quang sẽ góp phần khẳng định nguồn lực
nội sinh, trên cơ sở đó tạo lập những bước đi phù hợp khai thác và phát huy hiệu
quả nguồn lực nội sinh đó. Không thể phủ nhận những ảnh hưởng tích cực to lớn
từ bên ngoài, nhưng để có một đường lối phát triển phù hợp thì phải xuất phát từ
nhân tố bên trong. Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Tày ở Tuyên Quang chính là
sự khai thác và phát huy sức mạnh nội sinh của họ.
Thứ ba, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Tày là góp phần tạo
nền tảng cho đồng bào hội nhập, hợp tác, phát triển bền vững.

20


×