Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh (Nghiên cứu một số đơn vị ở miền Đông Nam bộ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------

NGUYỄN THỌ YÊN

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
(NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐƠN VỊ Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ)

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------

NGUYỄN THỌ YÊN

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
(NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐƠN VỊ Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Linh Khiếu

Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Linh Khiếu. Các số liệu và
trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết qu nghiên cứu của luận văn không
trùng với các công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thọ Yên


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, cho phép tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn
Linh Khiếu, người thầy đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trực tiếp giảng dạy chúng tôi
trong suốt thời gian học tập. Đặc biệt là sự quan tâm giúp đỡ tận tình của quý Thầy,
Cô Khoa Khoa học Chính trị, Phòng Sau đại học Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội và Phòng Khoa học Công nghệ Trường Đại
học Sài Gòn.
Đồng thời, tôi cũng gửi lời cảm ơn đến các đơn vị quân đội thuộc miền
Đông Nam bộ đã giúp đỡ, cung cấp thông tin bổ ích để tôi hoàn thành luận văn. Đặc
biệt, sự quan tâm giúp đỡ của Đảng ủy, Ban Giám hiệu, lãnh đạo, chỉ huy Phòng
Chính trị thuộc Trường Đại học Trần Đại Nghĩa, đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt
quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!


Tác giả luận văn

Nguyễn Thọ Yên


DANH MỤC VIẾT TẮT
QĐND

Quân đội nhân dân

QĐNDVN

Quân đội nhân dân Việt Nam

GDĐĐ

Giáo dục đạo đức

LLVT

Lực lượng vũ trang

CNH, HĐH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CB,CS

Cán bộ, chiến sỹ


XHCN

Xã hội chủ nghĩa

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CNCS

Chủ nghĩa cộng sản

SSCĐ

Sẵn sàng chiến đấu

CTĐ,CTCT

Công tác đảng, công tác chính trị

KHCN

Khoa học công nghệ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ..................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 8

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 8
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ........................................................ 9
6. Đóng góp của luận văn ...................................................................................... 9
7. Kết cấu của luận văn .......................................................................................... 9
CHƢƠNG 1: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QĐNDVN ............................................. 10
1.1. Khái niệm về đạo đức ................................................................................... 10
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về phẩm chất đạo đức của ngƣời cán bộ
quân đội................................................................................................................. 15
1.2.1. Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân ............................................ 15
1.2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư ........................................................ 18
1.2.3. Đoàn kết; yêu thương nhau như anh em ruột thịt ........................................ 22
1.2.4. Tinh thần quốc tế trong sáng........................................................................ 24
1.2.5. Mưu trí, dũng cảm; kỷ luật tự giác, nghiêm minh ....................................... 25
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò đạo đức và giáo dục đạo đức
cho đội ngũ cán bộ quân đội ............................................................................... 29
1.3.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức .................................. 29
1.3.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức ...................................... 33
Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................................. 36
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY .......................... 38
2.1. Khái quát về đội ngũ cán bộ Quân đội nhân dân Việt Nam .................... 38
2.2. Nội dung, con đƣờng và biện pháp GDĐĐ cho đội ngũ cán bộ
QĐNDVN hiện nay .............................................................................................. 43
2.2.1. Về nội dung giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ QĐNDVN ................... 43
2.2.2. Về con đường và biện pháp cơ bản giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ
QĐNDVN hiện nay................................................................................................ 44


2.3. Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của công tác giáo dục

đạo đức cho đội ngũ cán bộ Quân đội nhân dân Việt Nam ............................. 48
2.3.1. Những thành tựu của công tác GDĐĐ cho đội ngũ cán bộ QĐNDVN ....... 48
2.3.2. Những hạn chế, yếu kém của công tác GDĐĐ cho đội ngũ cán bộ
QĐNDVN .............................................................................................................. 53
2.3.3. Nguyên nhân ................................................................................................ 55
Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................................. 60
CHƢƠNG 3: TÍNH TẤT YẾU, YÊU CẦU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CÔNG TÁC GDĐĐ
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QĐNDVN HIỆN NAY THEO TƢ TƢỞNG
HỒ CHÍ MINH .................................................................................................... 61
3.1. Giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ quân đội hiện nay theo tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh là một tất yếu, khách quan .......................................................... 61
3.2. Một số yêu cầu đối với giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ quân đội
hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh ................................................................. 69
3.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lƣợng công tác GDĐĐ
cho đội ngũ cán bộ quân đội hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh ................ 77
3.3.1. Giải pháp nâng cao nhận thức về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho
đội ngũ cán bộ quân đội ......................................................................................... 77
3.3.2. Xây dựng môi trường lành mạnh để làm cơ sở xây dựng đạo đức Hồ Chí
Minh cho đội ngũ cán bộ quân đội ........................................................................ 87
3.3.3. Đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục đạo đức cho
đội ngũ cán bộ quân đội theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh .............................. 90
3.3.4. Phát huy tốt vai trò của các tổ chức, các lực lượng để nâng cao chất lượng,
hiệu quả giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ quân đội theo tưởng tưởng
Hồ Chí Minh .......................................................................................................... 99
3.3.5. Nâng cao tính tích cực, chủ động, tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức
của mỗi cán bộ quân đội ........................................................................................ 104
Tiểu kết chƣơng 3 ................................................................................................. 109
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................ 112

PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với cách mạng Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “cán bộ là
cái gốc của mọi công việc” [45, tr.309], “Công việc thành công hoặc thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém” [45, tr.313]. Cái tốt hay kém của người cán bộ ở đây bao gồm
cả hai mặt đức và tài, trong đó Người xem đức là “gốc”, là thành tố quan trọng
quyết định đến chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của người cán bộ. Người nói:
“Cũng như sông thì phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn, cây
thì phải có gốc, cây không có gốc thì cây héo. Người cách mạng thì phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [45,
tr.292].
Chủ tịch Hồ Chí Minh, là người sáng lập, giáo dục, rèn luyện quân đội ta.
Trong suốt cuộc đời vĩ đại của mình, Người luôn quan tâm, chăm lo, giáo dục, rèn
luyện đội ngũ cán bộ quân đội, đặc biệt về phẩm chất đạo đức. Người dạy: “Một
người cán bộ tốt phải có đạo đức cách mạng. Quân sự giỏi, song nếu không có đạo
đức cách mạng thì khó thành công” [45, tr.259]. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã dành
nhiều công sức chăm lo lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng đạo đức cho đội
ngũ cán bộ quân đội và chính những yêu cầu đạo đức và tấm gương, đạo đức của
Người nay đã trở thành hệ chuẩn mực đạo đức cơ bản của con người Việt Nam mới
nói chung và đội ngũ cán bộ quân đội nói riêng...
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về vai trò của đạo đức trong
nhân cách con người, Bộ Quốc phòng - Quân đội nhân dân Việt Nam thường xuyên
chú trọng giáo dục đạo đức cho mỗi cán bộ, chiến sĩ. Coi giáo dục đạo đức cho quân
nhân nói chung và cán bộ nói riêng, là cơ sở tạo nên sức mạnh chiến đấu của đơn vị
của quân đội và sự phát triển nhân cách của quân nhân; giúp người quân nhân hòa
nhập với xã hội, cộng đồng, tạo động lực tinh thần, góp phần thúc đẩy tính tích cực
của quân nhân trong trong chấp hành pháp luật, kỷ luật và thực hiện nhiệm vụ theo

chức trách. Do vậy, 70 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Quân ủy Trung
ương, được nhân dân hết lòng yêu thương, nuôi dưỡng, đùm bọc, quân đội ta đã
1


không ngừng phát huy bản chất cách mạng tốt đẹp, xây đắp nên truyền thống vẻ
vang của một quân đội anh hùng; là lực lượng chính trị tin cậy, tuyệt đối trung
thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, xứng đáng với danh hiệu “Bộ đội Cụ Hồ”.
Tuy nhiên, công tác giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ trong quân đội vẫn
còn những hạn chế, khuyết điểm: nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục
chưa thực sự phù hợp, ở một số đơn vị việc giáo dục và rèn luyện đạo đức chưa
được quan tâm đúng mức, đôi khi còn bị buông lỏng, còn có biểu hiện tự phát, hình
thức,... Bởi vậy, hiện tượng giảm sút về đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ
quân đội đã gây ra các hậu quả tiêu cực làm ảnh hưởng đến chất lượng chính trị,
đến bản chất và truyền thống cách mạng của quân đội ta, đã thực sự là trở ngại của
công cuộc xây dựng quân đội trong thời kỳ mới.
Trong bối cảnh hiện nay để góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và
sức mạnh chiến đấu của quân đội, thực tế tình hình trên đặt ra yêu cầu cấp thiết phải
làm tốt công tác giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ quân đội. Từ đó, góp phần
vào thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng quân đội ta theo hướng cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.
Với lý do trên, tác giả chọn “Giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ quân
đội nhân dân Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng trong cán bộ,
đảng viên nói chung và thanh niên, cán bộ chủ trì trong quân đội nói riêng đã được
nhiều nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài quân đội đề cập ở những khía cạnh
và cấp độ khác nhau, có thể phân thành ba nhóm:
2.1. Các luận án
Hà Huy Thông (1995), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của người cán bộ

quân sự - lý luận và vận dụng, Luận án Tiến sĩ Khoa học triết học, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Đây là một công trình rất công phu của tác giả Hà Huy
Thông. Trong Luận án này, tác giả đã phân tích, khái quát, luận giải các quan điểm
của Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức đối với người cán bộ quân sự, về những

2


chuẩn mực đạo đức cơ bản, những yêu cầu đạo đức trong các mối quan hệ đặc trưng
của người cán bộ quân sự; nêu lên thực trạng tình hình đạo đức của đội ngũ cán bộ
quân sự và các giải pháp để xây dựng đạo đức Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ
quân sự.
Đặng Nam Điền (2004), Nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ
chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới, Luận án Tiến sĩ lịch sử,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Trong Luận án này, tác giả đã làm rõ
hơn những vấn đề lý luận chủ yếu về đạo đức và đạo đức cách mạng của người cán
bộ chính trị trong quân đội; phân tích đánh giá đúng thực trạng đạo đức cách mạng
và hoạt động nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ chính trị quân đội
nhân dân việt Nam giai đoạn 1992-2002. Tác giả đã rất thành công trong việc đề
xuất phương hướng, giải pháp để nâng cao đạo đức cách mạng của người cán bộ
chính trị trong quân đội thời kỳ mới (đến năm 2010).
Phạm Văn Vinh (2005), Nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ
chủ trì ở đơn vị cơ sở binh chủng hợp thành Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay,
Luận văn Tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị quân sự. Với đề tài này tác giả Phạm
Văn Vinh đã làm rõ về đạo đức cách mạng và đạo đức cách mạng của đội ngũ cán
bộ chủ trì ở đơn vị cơ sở Binh chủng hợp thành QĐNDN; tổng kết những kinh
nghiệm nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ chủ trì ở đơn vị cơ sở Binh
chủng hợp thành QĐNDN; dự báo xu hướng biến đổi các giá trị đạo đức cách
mạng, xác định phương hướng, giải pháp để nâng cao đạo đức cách mạng của đội
ngũ cán bộ chủ trì ở đơn vị cơ sở Binh chủng hợp thành QĐNDN.

2.2. Các Sách chuyên khảo
Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức cách mạng của người cán bộ quân đội, Nxb Quân đội nhân dân, do các tác
giả Đại tá TS Phạm Văn Nhuận (chủ biên), Đại tá TS Dương Văn Lượng, Thượng
tá Th.S Nguyễn Đức Thắng, Đại úy Nguyễn Hùng Sơn biên soạn. Trong cuốn sách
này các tác giả đã tập trung làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách
mạng của người cán bộ quân đội với những quan điểm cơ bản, những phẩm chất và

3


hình thức, biện pháp cơ bản nâng cao đạo đức cách mạng của người cán bộ quân
đội. Phân tích toàn diện các yếu tố tác động, khẳng định tính cấp thiết nâng cao đạo
đức cách mạng của người cán bộ quân đội hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất phương
hướng, nội dung nâng cao đạo đức cách mạng của người cán bộ quân đội hiện nay
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
TS Đào Duy Quát (2004), Về giáo dục đạo đức cách mạng trong cán bộ
đ ng viên hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia. Cuốn sách này là kết quả của Hội thảo
khoa học do Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương chủ trì. Cuốn sách tập trung làm
rõ: Một số vấn đề lý luận chung; thực trạng về đạo đức, lối sống và công tác giáo
dục đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên; phương hướng, giải pháp và những
kiến nghị về đổi mới công tác giáo dục đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên
thời gian tới. Đây thực sự là những tư liệu quý, nhằm góp phần vào việc nâng cao
chất lượng công tác xây dựng Đảng, nhất là nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức,
lối sống cho cán bộ, đảng viên.
Nguyễn Quang Phát (2006), Quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về đức - tài
trong xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội, Nxb Quân đội nhân dân. Cuốn sách là sự
chuyển tải nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đức, tài của người cán bộ cách mạng,
đề xuất các nội dung, giải pháp nâng cao đạo đức, phát triển tài năng của đội ngũ
cán bộ trong tình hình hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh; tập hợp những một số

tác phẩm, bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh bàn về đạo đức
và rèn luyện đạo đức cách mạng và trích văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo
đức cách mạng.
Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự (2007), Chuẩn mực đạo đức quân
nhân của Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, do các tác giả Đại
tá TS Phạm Văn Nhuận, Đại tá GS.TS Nguyễn Ngọc Phú biên soạn. Cuốn sách đưa
đến bạn đọc một số kiến thức chung về đạo đức, chuẩn mực đạo đức quân nhân;
quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về chuẩn mực nguyên tắc đạo đức và tư tưởng Hồ
Chí Minh về chuẩn mực đạo đức quân nhân của quân đội ta; nội dung một số đặc
điểm phát triển cùng với hệ giải pháp giáo dục, rèn luyện bộ đội theo chuẩn mực
đạo đức quân nhân của quân đội ta trong giai đoạn mới.
4


Tổng cục Chính trị (2009), Giáo trình lý luận giáo dục quân nhân. Giáo trình
lý luận giáo dục quân nhân là công trình khoa học của tập thể tác giả Khoa Sư phạm
quân sự, Học viện Chính trị do Đại tá TS Nguyễn Văn Phán, Đại tá TS Mai Văn
Hóa đồng chủ biên. Nội dung giáo trình bao gồm kiến thức lý thuyết và hướng dẫn
ứng dụng lý thuyết đó trong thực tiễn, giúp người học phát triển tư duy lý luận và
kỹ năng thực hành, góp phần hình thành, phát triển phẩm chất, nhân cách người
quân nhân cách mạng, đáp ứng yêu cầu xây dựng và chiến đấu của quân đội thời kỳ
mới. Giáo trình này dùng tài liệu học tập chính thức môn Giáo dục học quân sự
trong các học viện, nhà trường quân đội, đồng thời là tài liệu tham khảo của cán bộ,
sĩ quan với tư cách nhà giáo dục.
Hồ Chí Minh (2010), Về đạo đức cách mạng, Nxb CTQG, Hà Nội, do tập thể
tác giả PG.TS Lê Văn Yên, PGS.TS Vũ Quang Vinh, TS Nguyễn Duy Quang biên
soạn. Cuốn sách tập hợp những một số tác phẩm và bài viết của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về đạo đức cách mạng, thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí chống
bệnh quan liêu...
Vũ Văn Phúc, Ngô Văn Thạo (2011), Những gi i pháp và điều kiện thực

hiện phòng chống suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đ ng viên.
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách được biên soạn bởi một tập thể các nhà
nghiên cứu, lãnh đạo, quản lý dày dạn kinh nghiệm, do PGS.TS. Vũ Văn Phúc và
PGS.TS. Ngô Văn Thạo đồng chủ biên, cuốn sách làm sáng rõ cơ sở lý luận của
việc phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng
viên, nêu kinh nghiệm thực tiễn giải quyết vấn đề này của một số nước trên thế giới;
làm rõ thực trạng, nguyên nhân của công tác phòng, chống; dự báo những tác động
của tình hình quốc tế và trong nước đến tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của
cán bộ, đảng viên cũng như dự báo xu hướng diễn biến của tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống trong những năm tới; trên cơ sở đó, đề xuất các mục tiêu, giải pháp
mang tính toàn diện, đồng bộ, khả thi và điều kiện cần thiết để thực hiện hiệu quả
cuộc đấu tranh khó khăn, lâu dài này. Những giải pháp được các tác giả đưa ra là
những nhóm giải pháp trong các lĩnh vực, công tác khác nhau, như: giải pháp trong

5


công tác xây dựng Đảng, giải pháp trong lĩnh vực quản lý nhà nước, giải pháp nhằm
phát huy vai trò của nhân dân và xã hội, giải pháp nhằm hạn chế tác động từ bên
ngoài đến tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên.
2.3 Các bài báo đăng trên các tạp chí
- Nguyễn Văn Phúc (1999), Về một số gi i pháp xây dựng nhân cách đạo
đức hiện nay, Tạp chí Triết học, số 04, Tr. 5-7
Bài viết đề cập tới vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức, trước hết cần tính
đến những nhân tố cơ bản quy định sự hình thành và phát triển nhân cách đạo đức,
từ đó rút ra những giải pháp khả thi: Nhân tố quyết định nhân cách đạo đức ở tầng
sâu nhất là cơ sở lợi ích. Sự phát triển nhân cách đạo đức, xét đến cùng, phải thể
hiện trong những hành vi đạo đức thực tế. Giáo dục và giáo dục đạo đức là một
trong những phương thức, giải pháp quan trọng nhất, trực tiếp quyết định sự hình
thành, phát triển nhân cách đạo đức

- Hoàng Trung (2000), Vì sao Hồ Chí Minh lại đặc biệt chú trọng đến vấn đề
đạo đức, Tạp chí Triết học, số 04, Tr. 19-21
Trong bài viết này tác giả đề cập đến một số nguyên nhân Hồ Chí Minh quan
tâm đến vấn đề đạo đức. Tác giả khẳng định rằng Hồ Chí Minh thường xuyên dành
cho việc xây dựng rèn luyện đạo đức cách mạng - vị trí ưu tiên hàng đầu và bản
thân Người là tấm gương sáng nổi bật về đạo đức cách mạng
- Lê Văn Quang (2001), Đạo đức và văn minh - hành trang của Đ ng ta
bước vào thế kỷ XXI, Tạp chí Triết học, số 05, Tr. 12-15
Đạo đức và văn minh vừa là các thuộc tính cơ bản nhất của Đảng, vừa là nội
lực làm cho Đảng ngày càng vững mạnh. Bài viết nhấn mạnh đến hai vấn đề cơ bản
sau: Từng cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người có chức, có quyền phải trau
dồi đạo đức của người cộng sản. Toàn đảng nỗ lực phấn đấu nâng cao năng lực trí
tuệ để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một Đảng văn minh.
- Vũ Khiêu (2003), Sự suy thoái về đạo đức và gi i pháp của chúng ta, Tạp
chí Tâm lý học, số 9, tr. 9-14
6


Bài viết đưa ra giải pháp từ phía gia đình nhằm giảm sự suy thoái về đạo đức
trong xã hội hiện nay
- Vũ Duy Yên (2008), Nhận thức của công chức nhà nước về đạo đức và
chuẩn giá trị xã hội hiện nay, Tạp chí Tâm lý học, số 6, tr. 23-26
- Trần Thông (11/5/2011), Nâng cao hiệu qu công tác giáo dục đạo đức, lối
sống cho cán bộ, đ ng viên từ chi bộ, .
- Đặng Nam Điền (19/06/2011), Quan tâm giáo dục đạo đức, lối sống cho bộ
đội,
- Hoàng Chí Bảo (19/02/2012), Chống suy thoái - vấn đề trọng tâm, xuyên
suốt, cấp bách nhất,
- Nguyễn Đức Thắng (10/10/2012), Góp phần nhận diện suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống,

- Kim Oanh (25/02/2013), giáo dục đạo đức lối sống trong gia đình,

- Nguyễn Thanh Hải (30/6/2013), Phòng chống suy thoái đạo đức trong cán
bộ, đ ng viên theo Tư tưởng Hồ Chí Minh,
- Nguyễn Văn Vinh (8/7/2013), Bồi dưỡng và rèn luyện nghĩa vụ đạo đức
quân nhân cho sĩ quan trẻ, ...
Trên đây là những thành tựu rất quan trọng mà các nhà khoa học đã đạt được
trong lĩnh vực nghiên cứu về việc bồi dưỡng, phòng, chống suy thoái tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và quân nhân quân đội nhân dân Việt
Nam. Những thành tựu này là cơ sở quan trọng để tác giả tiếp tục nghiên cứu và lấy
đó làm những gợi ý quan trọng cho quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài của
mình.
2.4. Đánh giá tổng quan về các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
luận văn
Nhìn tổng quan lại, đề tài về đạo đức cách mạng, giáo dục đạo đức cách
mạng trong cán bộ, đảng viên nói chung và cán bộ trong quân đội nói riêng đã có rất
nhiều công trình, cuốn sách, bài báo được công bố rộng rãi. Có thể khẳng định, các

7


tác giả đã đạt được nhiều thành tựu rất đáng ghi nhận, nhiều gợi mở suy nghĩ mới
mẻ đã xuất hiện và nhiều giải pháp sâu sắc đã được đề xuất thời gian qua … Mặc dù
vậy, vẫn còn nhiều vấn đề chưa được nghiên cứu, hoặc chưa được nghiên cứu một
cách cụ thể, thấu đáo nhằm kịp thời đáp ứng những yêu cầu cấp bách đang đặt ra
của thực tiễn đời sống. Chẳng hạn đề tài: Giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ
quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp cận dưới góc
độ chính trị học cho đến nay chưa có công trình nào được công bố. Chính vì lẽ đó,
phù hợp với nhu cầu và nhiệm vụ công tác, tác giả chọn đề tài này làm đề tài nghiên
cứu của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng giáo dục đạo đức trong Quân đội nhân dân
Việt Nam, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
theo tư tưởng Hồ Chí Minh
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về đạo đức, vai trò của đạo đức và giáo dục
đạo đức cho đội ngũ cán bộ trong quân đội.
- Đánh giá đúng thực trạng công tác giáo dục đạo đức trong Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giáo
dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tƣợng nghiên cứu: Giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ quân đội
nhân dân Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu ở một số đơn vị miền Đông Nam bộ
- Thời gian: Thời kỳ 1986 - 2012

8


5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận của đề tài: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lê nin, tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước, Quân đội nhân dân Việt Nam về đạo đức và giáo
dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ quân đội trong giai đoạn hiện nay.
* Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên

cứu chính: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử với các
phương pháp cụ thể là: logic và lịch sử; phân tích và tổng hợp; trừu tượng và cụ thể;
đồng thời, còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu phối hợp của Chính trị học,
Xã hội học, Văn hóa học, Sử học…
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ một vấn đề về lý luận về đạo đức, giáo dục đạo
đức và giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Làm rõ thực trạng công tác giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ trong
Quân đội nhân dân Việt Nam thông qua nghiên cứu, khảo sát một số đơn vị quân
đội ở miền Đông Nam bộ.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
đạo đức cho đội ngũ cán bộ trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Tác giả hy vọng những luận chứng của mình về mặt lý luận và những giải
pháp đề xuất có thể vận dụng vào thực tiễn công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức để
không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ quân đội, đáp ứng
yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Đồng thời, luận văn này có thể làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy về
giáo dục học quân sự trong các học viện, nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn được kết cấu thành 3 chương 9 tiết.

9


CHƢƠNG 1
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về đạo đức
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức đã

xuất hiện rất sớm trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại.
Thuật ngữ “đạo đức” theo tiếng Latinh là mos (moris) - lề thói (moralis nghĩa
là liên quan với lề thói, đạo nghĩa. Còn luân lý được xem như đồng nghĩa với đạo
đức, có gốc tiếng Hy Lạp là ethicos - lề thói, tập tục. Ở phương Đông, các học
thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại xuất hiện sớm, được biểu hiện
trong quan niệm về đạo và đức của họ. Đạo có nghĩa là con đường, đường đi,
đường sống của con người trong xã hội. Đạo đức, lối sống theo Từ điển Tiếng Việt,
có thể hiểu tổng quát: là những chuẩn mực, nguyên tắc được xã hội thừa nhận, quy
định hành vi, quan hệ của con người đối với sự nghiệp, đối với nhau và đối với xã
hội, là sản phẩm quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với tập thể,
với cộng đồng xã hội.
Trong quá trình phát triển của đạo đức học, hiện nay có thể hiểu đạo đức một
cách khái quát như sau:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc, nguyên
tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho
phù hợp với lợi ích của con người và tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người
với con người, giữa cá nhân và xã hội.
Đạo đức là một phạm trù thuộc hình thái ý thức xã hội, ý thức đạo đức phản
ánh tồn tại xã hội và đời sống đạo đức xã hội. Theo đó, chế độ kinh tế - xã hội và
các quan hệ kinh tế - xã hội khách quan là nguồn gốc của những quan điểm đạo
đức, nói cách khác, với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức phản ánh
tồn tại xã hội và do tồn tại xã hội quyết định.
Chức năng cơ bản nhất của đạo đức là điều chỉnh hành vi của con người
bằng chuẩn mực và quy tắc theo yêu cầu của xã hội, nhằm đảm bảo lợi ích chung
10


của xã hội hay lợi ích cơ bản của giai cấp đề ra chuẩn mực và quy tắc đạo đức.
Chuẩn mực đạo đức là một loại chuẩn mực xã hội. Đó là quy tắc hành vi của con
người trong quan hệ với người khác, trong đời sống xã hội. Căn cứ vào những

chuẩn mực ấy, người ta đánh giá hành vi của mỗi người theo các quan niệm về thiện
và ác, về cái không được làm (vô đạo đức) và cái nghĩa vụ phải làm. Đời sống xã
hội có nhiều phương thức điều chỉnh hành vi con người, song điều chỉnh của đạo
đức luôn mang tính tự giác của cá nhân, từ sự thôi thúc, thức tỉnh của lương tâm và
bằng dư luận xã hội. Đây chính là một trong những đặc trưng cơ bản của đạo đức.
Trong xã hội có giai cấp, đạo đức có tính giai cấp sâu sắc. Đạo đức giai cấp
phản ánh và bảo vệ địa vị, lợi ích của từng giai cấp. Ph. Ăngghen chỉ rõ: “Và vì cho
tới nay xã hội đã vận động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức luôn
luôn là đạo đức của giai cấp, hoặc nó biện hộ cho sự thống trị và vì lợi ích của giai
cấp thống trị, hoặc khi giai cấp bị trị đã trở lên khá mạnh thì nó tiêu biểu cho sự nổi
dậy chống lại sự thống trị nói trên và tiêu biểu cho lợi ích tương lai của những
người bị áp bức” [20, tr.199,200].
Sự tác động của ý thức xã hội, trong đó đạo đức là một bộ phận quan trọng
thúc đẩy sự vận động của xã hội theo hai khuynh hướng hoặc kìm hãm hoặc thúc
đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Một xã hội có bản chất tốt đẹp là cơ sở để tạo ra
một nền đạo đức tiên tiến. Đồng thời nền đạo đức tiên tiến góp phần thúc đẩy xã
hội phát triển. Ngược lại, một xã hội do giai cấp lỗi thời, lạc hậu thống trị sẽ gây ra
sự suy đồi, làm băng hoại giá trị đạo đức xã hội và khi đó đạo đức của giai cấp
thống trị sẽ kìm hãm sự vận động, phát triển của xã hội. Như vậy, một hình thái
kinh tế - xã hội lỗi thời, lạc hậu, đòi hỏi phải được thay thế bởi hình thái kinh tế xã hội tiến bộ hơn, đạo đức tiên tiến cũng xuất hiện, phát triển ngay trong hình thái
kinh tế - xã hội lỗi thời, lạc hậu đó; nó đối lập với đạo đức của giai cấp thống trị lạc
hậu, thúc đẩy cuộc đấu tranh để ra đời hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn.
Lịch sử tư tưởng của nhân loại đã để lại không ít quan niệm về đạo đức,
nhưng nó bị chi phối bởi thế giới quan và lợi ích của giai cấp thống trị. Những học
thuyết đạo đức trước C.Mác, về cơ bản được xây dựng trên cơ sở đạo đức tôn giáo

11


hoặc đạo đức duy tâm, siêu hình. Khi bàn về đạo đức tôn giáo, V.I.Lênin đã chỉ ra

rằng: Đối với những ai suốt đời vẫn lao động và sống trong cảnh thiếu thốn, tôn
giáo dạy họ phải sống theo tinh thần cam chịu và nhẫn nhục trong cuộc sống dưới
trần gian, bằng cách làm cho họ hy vọng sẽ được đền đáp khi lên thiên đường. Còn
đối với những kẻ sống bằng lao động của người khác, tôn giáo dạy họ hãy làm điều
thiện ở thế gian, biện hộ một cách rất rẻ tiền cho toàn bộ cuộc đời bóc lột của
chúng, và bán rẻ cho chúng những tấm thẻ để lên thiên đường của những người
hạnh phúc [97, tr.170]. V.I.Lênin cũng phê phán mọi thứ đạo đức duy tâm, siêu
hình khác, Ông coi đó là thứ đạo đức phản động theo nghĩa là không còn khả năng
phản ánh xu thế của tiến bộ xã hội mà trái lại, cản trở sự phát triển lịch sử, đi ngược
lại lợi ích của nhân loại tiến bộ. "Tất cả những thứ đạo đức, xuất phát từ những
quan niệm ở ngoài nhân loại, ở ngoài các giai cấp, chúng ta đều bác bỏ. Chúng ta
nói rằng đấy chỉ là lừa bịp, dối trá, nhồi sọ công nhân và nông dân để mưu lợi ích
riêng cho bọn địa chủ và bọn tư bản" [99, tr.367].
Trong điều kiện lịch sử mới V.I.Lênin đã bảo vệ, bổ sung, phát triển và hoàn
thiện đạo đức học mácxít, nâng nó lên tầm cao mới, thiết thực phục vụ sự nghiệp
xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. V.I.Lênin đã xây dựng một kiểu đạo
đức mới, đạo đức của giai cấp công nhân và khẳng định “Chúng ta nói rằng, đạo
đức của chúng ta là hoàn toàn phụ thuộc vào lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp của
giai cấp vô sản. Đạo đức của chúng ta là những lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp
của giai cấp vô sản mà ra” “Cuộc đấu tranh giai cấp còn tiếp tục và nhiệm vụ của
chúng ta là làm cho tất cả mọi lợi ích phụ thuộc vào cuộc đấu tranh này. Và đạo đức
cộng sản của chúng ta phải phục tùng cuộc đấu tranh này. Chúng ta nói rằng, đạo
đức đó là những gì góp phần phát huy xã hội của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết
tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội
mới, của những người cộng sản” [99, tr.369].
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc ta. Người đã hiến
dâng trọn vẹn cuộc đời mình cho độc lập, tự do của Tổ quốc, ấm no, hạnh phúc của
nhân dân, là tấm gương suốt đời phấn đấu cho lý tưởng cộng sản, vì sự nghiệp giải

12



phóng giai cấp, giải phóng con người, giải phóng dân tộc. Công đức lớn lao của
Người là để lại cho Đảng ta, dân tộc ta một di sản văn hóa tinh thần vô cùng quý
giá. Trong đó, những tư tưởng về đạo đức có giá trị bền vững và sức mạnh diệu kỳ.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân
tộc Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng
nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển những
tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây, mà
Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động cách mạng.
Đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đạo đức hoàn toàn mới về chất, đó là
đạo đức của những con người được tự do, được giải phóng, khơi dậy những giá trị
cao đẹp của con người, hướng con người tới “chân”, “thiện”, “mỹ”. Hồ Chí Minh,
chỉ rõ đạo đức cách mạng, không phải là đạo đức thủ cựu “Nó là đạo đức mới, đạo
đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng,
của dân tộc, của loài người” [45, tr.292].
Đạo đức cách mạng hoàn toàn đối lập với đạo đức phong kiến, tư sản. So
sánh bản chất, mục đích đạo đức cũ do giai cấp bóc lột đặt ra với đạo đức mới, đạo
đức cách mạng, Hồ Chí Minh khái quát: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống
đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất,
đầu ngẩng lên trời” [47, tr.220]. Đạo đức cách mạng, bắt nguồn từ bản chất cách
mạng và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được thể hiện trong cuộc đấu tranh
xoá bỏ giai cấp bóc lột, chế độ bóc lột, xây dựng chế độ XHCN, xã hội tự do, bình
đẳng, bác ái. Đạo đức cách mạng, là sự thống nhất giữa đạo đức và chính trị nhằm
giải phóng con người, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại. Đạo đức cách
mạng, còn bắt nguồn từ bản chất ưu việt của chế độ XHCN, một chế độ xã hội mới,
tiến bộ, trong đó con người được tự do, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của đạo đức cách mạng trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển chế độ mới - chế độ XHCN. Sự nghiệp đó rất vẻ

vang nhưng cũng rất nặng nề, đầy khó khăn gian khổ, đòi hỏi phải có những người

13


thực sự cách mạng. Theo người, đạo đức cách mạng là "nền tảng", là" cái gốc", là
tiêu chuẩn đầu tiên của người cách mạng, đó là động lực thúc đẩy người cách mạng
hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới
có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân” [45, tr.292], “có đạo đức cách mạng thì khi gặp
khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước... Khi cần, thì sẵn
sàng hy sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc” [51, tr.602]; “khi gặp thuận
lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo
trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”;... không công thần, không quan liêu, không kiêu
ngạo, không hủ hóa” [51, tr.603].
Khi khẳng định đạo đức là "cái gốc" của người cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh không bao giờ tách rời giữa đạo đức và tài năng. Đạo đức cách mạng được
Người đạt trong mối quan hệ biện chứng với tài năng trong cả nhận thức và hoạt
động thực tiễn, tạo thành một thể thống nhất, một động lực bên trong thúc đẩy
người cách mạng phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ. Người chỉ rõ: "Có tài phải có đức.
Có tài không có đức, tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có đức mà không có tài như
ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai" [50, tr.345,346].
Như vậy yêu cầu khách quan của nhiệm vụ cách mạng đòi hỏi người cán bộ
cách mạng phải có đức đồng thời phải có tài, phải vừa "hồng" vừa "chuyên". Đó là
điều kiện cơ bản quyết định đảm bảo cho người cán bộ cách mạng thể hiện rõ vai
trò và hoàn thành chức năng xã hội của họ là người tổ chức và lãnh đạo nhân dân
làm cách mạng.
Trong quá trình trực tiếp tổ chức và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã dày công đào tạo các thế hệ cách mạng vừa "hồng”, vừa "chuyên", trở

thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ ba, khoá VIII đã nêu
ra những tiêu chuẩn chung nhất và cụ thể đối với từng loại cán bộ, đó chính là sự
vận dụng sáng tạo tư tưởng về sự thống nhất giữa đức và tài theo tư tưởng Hồ Chí
Minh trong điều kiện đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
14


1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về phẩm chất đạo đức của ngƣời cán
bộ quân đội
Cán bộ quân đội là cán bộ của Đảng hoạt động trong một lĩnh vực đặc thù là
lĩnh vực hoạt động quân sự và gắn với chiến tranh. Là những người trực tiếp tổ chức
chỉ huy hoặc làm công tác đảm bảo cho quân đội chiến đấu hoặc lao động sản xuất,
thực hiện công tác vận động quần chúng nhân dân. Tính chất hoạt động thường rất
khẩn trương quyết liệt, đòi hỏi người cán bộ phải dũng cảm, không sợ hy sinh, bình
tĩnh, vững vàng, hiểu rõ nhiệm vụ và xử lý đúng đắn, kịp thời, đảm bảo hoàn thành
thắng lợi mọi nhiệm vụ. Họ phải quyết đoán, dám chịu trách nhiệm và có trách
nhiệm rất cao trước sinh mạng của các cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền. Họ phải chăm
lo việc giáo dục, rèn luyện bộ đội, quan tâm tới đời sống vật chất, tinh thần của cán
bộ, chiến sĩ, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi cùng đồng đội... Chính vì thế
phẩm chất đạo đức của người cán bộ quân đội có vị trí vai trò rất quan trọng, vừa
thể hiện rõ đặc trưng “nghề nghiệp” của họ, vừa phản ánh những yêu cầu, những
tiêu chí chung về đức tài của người cán bộ cách mạng. Chính vì vậy, nắm vững và
nghiêm túc thực hiện các quan điểm của Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức cơ
bản của người cán bộ quân đội là cơ sở để người cán bộ quân đội rèn luyện ý chí và
năng lực hành động cách mạng, xứng đáng là lực lượng tin cậy, công cụ sắc bén của
Đảng, Nhà nước và là con, em yêu quý của nhân dân.
1.2.1. Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân
Trung, hiếu vốn là những phẩm chất quan trọng hàng đầu của đạo đức truyền
thống dân tộc Việt Nam và phương Đông. Từ quan niệm “Trung với vua, hiếu với

cha mẹ”, Hồ Chí Minh đã tiếp thu, kế thừa, bổ sung, phát triển những phẩm chất
đạo đức ấy với nhiều nội dung mang giá trị mới, tạo nên sự biến đổi về chất, hình
thành nên phẩm chất đạo đức mới.
Trước kia, “trung” là “Trung quân, ái quốc”, yêu cầu mọi thần dân phải trung
thành với vua, phải yêu nước, gắn chặt hai yêu cầu đó với nhau, có trung với vua
mới là yêu nước. Khắt khe hơn, Nho giáo còn yêu cầu “Trung thần bất sự nhị
quân”, người tôi chỉ phụng sự một triều đại quân vương, bất chấp chiều đại ấy, ông

15


vua ấy có xứng đáng với đất nước hay không. Còn “hiếu” là yêu cầu con, cháu phải
thực hiện nghĩa vụ đạo đức hiếu thảo, chu toàn với bố mẹ, ông bà; thể hiện lòng biết
ơn, tôn kính với những người đã có công sinh thành, nuôi dưỡng, dạy bảo mình nên
người...
Mặc dù sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho yêu nước, Hồ Chí Minh đã
nhận thấy những hạn chế căn bản của đạo đức phong kiến nói chung và quan niệm
trung - hiếu nói riêng. Người đưa vào nội dung mới, từ chỗ cá nhân với cá nhân
“vua - tôi, cha - con” có ý nghĩa hạn hẹp sang phản ánh mối quan hệ rộng lớn hơn,
khẳng định thái độ trách nhiệm chính trị và nghĩa vụ đạo đức của mỗi người dân đối
với đất nước, với hạnh phúc của nhân dân, đó là “trung với nước, hiếu với dân”. Nội
dung mới, chất lượng mới nhưng Hồ Chí Minh vẫn tiếp thu, kế thừa, phát triển
những tinh hoa của truyền thống. Người nói “Cái gì cũ mà xấu, thì ta bỏ... Cái gì cũ
mà tốt, thì ta phải phát triển thêm. Thí dụ: ta phải tương thân tương ái, tận trung với
nước, tận hiếu với dân hơn khi trước” [45, tr.113].
Trung với Đảng, cũng là trung thành với Tổ quốc, dân tộc, bởi Đảng là tổ
chức tiền phong của giai cấp, của dân tộc, lợi ích của Đảng thống nhất với lợi ích
của dân tộc, của đất nước. Một khi con đường cứu nước không có con đường nào
khác phải là con đường cách mạng vô sản, thì “Trung với nước” cũng là trung thành
với sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó các mục tiêu giải

phóng dân tộc, giải phóng con người gắn chặt với nhau. Chủ nghĩa yêu nước dưới
sự lãnh đạo của Đảng đã trở thành chủ nghĩa yêu nước XHCN. Chỉ có kiên định con
đường cách mạng XHCN mới có độc lập, tự do thực sự, mới không còn áp bức, bất
công xã hội, không còn lạc hậu, đói nghèo.
Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân là nghĩa vụ đạo đức cao quý
của mỗi người dân Việt Nam yêu nước. Nhưng trước hết là nghĩa vụ đạo đức của
mỗi đảng viên, cán bộ đối với Tổ quốc và nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nhân là
nhân dân”, “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân” [50, tr.453]; nước là của
dân, còn dân là chủ nhân của đất nước. Do vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi
ích của cách mạng, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, phải ra sức phấn đấu để

16


thực hiện, hoàn thành bằng được mọi nhiệm vụ mà Tổ quốc và nhân dân giao phó,
thì mới xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân
dân.
Hồ Chí Minh là lãnh tụ của Đảng, của dân tộc, Người cha thân yêu của các
lực lượng vũ trang nhân dân. Người đặc biệt quan tâm, chăm lo giáo dục, rèn luyện
đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng trong quân đội và Người căn dặn cán bộ, chiến
sĩ “Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại
mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng
bào” [44, tr.170]. Ngày 22/12/1964, nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập QĐNDVN
Bác nói: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì
độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn
nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” [54, tr.435]. Trung với nước, trung
với Đảng biểu hiện hiện ở tinh thần “quyết chiến quyết thắng”, “quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh”, ở lời thề “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt
qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Hồ Chí Minh có nhiều bài nói, bài viết sâu sắc để giáo dục cán bộ, chiến sĩ

quân đội tinh thần phục vụ nhân dân vô điều kiện. Người khẳng định, trong xã hội
mới địa vị cao nhất là nhân dân. Người coi nhân dân là cha mẹ của bộ đội. Nhân
dân được giác ngộ cách mạng, được tổ chức là nền tảng chính trị của quân đội, của
chế độ. Người nói “Nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội. Cán bộ phải dạy
cho đội viên biết kính trọng dân, thương yêu giúp đỡ dân”. Quân đội chiến đấu vì
nhân dân chứ không phải “cứu tinh” của nhân dân. Người nói: “Phải nhớ rằng dân
là chủ. Dân như nước, mình như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Phải làm
cho dân mến, khi sắp tới dân mong, khi đi dân tiếc, chớ vác mặt làm quan cách
mạng cho dân ghét, dân khinh, dân không ủng hộ” [44, tr.116]. “Mình đánh giặc là
vì dân. Nhưng mình không phải là cứu tinh của dân; mà mình có trách nhiệm phụng
sự nhân” [47, tr.76]. Hơn nữa, hiếu với dân còn bắt nguồn từ tư tưởng của Người về
xây dựng LLVT là “người trước, súng sau”, “Muốn có đội quân vũ trang, phải có
đội quân tuyên truyền vận động, đội quân chính trị trước đã, nên phải làm ngay, sao

17


cho đội quân chính trị ngày càng đông. Phải có quần chúng giác ngộ chính trị tự
nguyện vác súng thì mới thắng được” [1, tr.120].
Thực hiện lời dạy của Người, mối quan hệ quân dân không chỉ “nhất trí” hay
“một ý chí”, bộ đội không chỉ tuyên truyền vận động nhân dân ủng hộ, giúp đỡ
mình, chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đoàn kết
nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ mà chủ yếu là phải toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân
dân, chiến đấu quên mình để bảo vệ nhân dân, mang lại độc lập tự do cho nhân dân,
đồng thời phải thương yêu, kính dân, mang lại độc lập, tự do cho nhân dân, nâng
cao dân trí, cải thiện dân sinh, tạo nền tảng chính trị vững chắc cho chế độ, cho
quân đội, để thực hiện tốt lời thề danh dự của quân nhân “kính trọng dân, giúp đỡ
dân, bảo vệ dân, không lấy của dân, không dọa nạt dân, không quấy nhiễu dân”. Đó
là những nội dung cơ bản quyết định tính nhân dân trong bản chất giai cấp công
nhân của quân đội ta - một quân đội của dân, do dân, vì dân.

Trung với nước, Trung với Đảng, Hiếu với dân đã trở thành phẩm chất đạo
đức hàng đầu định hướng hoạt động cách mạng của mỗi cán bộ, chiến sỹ. Đó là cơ
sở tạo thành niềm tin vững chắc và sức mạnh to lớn để người cán bộ quân đội luôn
hoàn thành chức trách, nhiệm vụ Đảng, Nhà nước giao.
1.2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Đây là những phẩm chất đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách thường
xuyên nhất vì nó gắn với hoạt động hàng ngày của mọi người. Hồ Chí Minh đã phủ
định biện chứng những khái niệm cần kiệm liêm chính, chí công vô tư của đạo đức
phương Đông và đạo đức truyền thống Việt Nam, đưa cần, kiệm, liêm, chính trở
thành nội dung căn bản của đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc
nhở mọi người tích cực trau dồi đức tính “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”;
không được bỏ sót một đức tính nào, cũng như trời có bốn mùa, đất có bốn phương
vậy. Người nhấn mạnh: “Thiếu một mùa, thì không thành trời. Thiếu một phương,
thì không thành đất. Thiếu một đức, thì không thành người” [46, tr.117].
Mỗi chữ cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư đã được Hồ Chí Minh giải
thích rất rõ, rất cụ thể, dễ hiểu đối với mọi người:

18


×