Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của Đảng ta vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.26 KB, 15 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

Chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo
tư tưởng Hồ Chí Minh là những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là các luận điểm về bản chất, mục tiêu
và động lực của chủ nghĩa xã hội; về tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ; về
đặc điểm, nhiệm vụ lịch sử, nội dung, các hình thức, bước đi và biện pháp tiến hành
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tư tưởng đó trở thành tài sản vô
giá, cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho việc kiên trì, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa của Đảng ta, đồng thời gợi mở nhiều vấn đề về xác định hình thức, biện pháp
và bước đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với những đặc điểm dân tộc và xu thế vận
động của thời đại ngày nay.
Trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI (12-1986) là kết quả của sự tổng kết những vấn đề lý luận và thực
tiễn trong phong trào cách mạng của nước ta sau năm 1975. Trong những năm đát
nước đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân thực hiện
Cương lĩnh, đường lối xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
và đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, tạo ra thế và lực mới
cho con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thời
cơ, vận hội, nước ta đang phải đối đầu với hàng loạt thách thức, khó khăn cả trên
bình diện quốc tế, cũng như từ các điều kiện thực tế trong nước tạo nên. Trong bối
cảnh đó, việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và
xây dựng chủ nghĩa xã hội là rất cần thiết. Vì vậy, em đã chọn vấn đề: “Tư tưởng
Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của Đảng ta vào công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay” để viết bài thu hoạch của mình.

PHẦN NỘI DUNG
1

1




1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
1.1. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển tất yếu của lịch sử loài người. Đến
với ánh sáng Cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh không chỉ tìm thấy con
đường cứu nước đúng đắn, mà còn tìm thấy phương hướng đi tới của cuộc cách
mạng sau khi đã giành được độc lập dân tộc, đó chính là mục tiêu độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH; giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng
xã hội, giải phóng con người. Hồ Chí Minh khẳng định: “Con đường tiến tới
CNXH của các dân tộc là con đường chung của thời đại, của lịch sử, không ai ngăn
cản nổi”. Do đó, nước ta cũng tất yếu đi lên CNXH. Khẳng định tính tất yếu đi lên
CNXH của cách mạng Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ những
luận chứng sau:
- Dựa vào học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, Người khẳng định, sự ra đời
của CNXH là một tất yếu, nguyên nhân sâu xa là sự phát triển của sức sản xuất xã
hội (lực lượng sản xuất - LLSX). Sự ra đời của CNXH là do nhu cầu giải phóng
con người một cách triệt để theo 3 trình độ từ thấp đến cao: giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng từng cá nhân để hình thành những nhân cách phát triển
toàn diện. Sự ra đời của CNXH là một tất yếu đạo đức xã hội. Người lý giải theo
quy luật đấu tranh giữa thiện - ác, tốt - xấu và quy luật chung là cái thiện, cái tốt
nhất định sẽ chiến thắng cái ác, cái xấu.
Trong Thưởng thức chính trị, Người viết: Chủ nghĩa cộng sản (CNCS) ra đời
thì lúc đó mọi người đều sống có đạo đức. Sự ra đời của CNXH là một tất yếu của
văn minh nhân loại.
- Việc khẳng định Việt Nam tất yếu đi lên CNXH trong tư tưởng Hồ Chí
Minh không chỉ dựa trên cơ sở tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn bằng việc
tiếp cận, so sánh thực tiễn các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại với Cách mạng
XHCN Tháng Mười Nga năm 1917. Ở tác phẩm “Đường cách mệnh” (1927),
2


2


Người đã chỉ ra bản chất các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại như: Cách mạng
Mỹ 1776, Cách mạng Pháp 1789... là những cuộc các mạng không triệt để, không
thể đem lại quyền lợi cho nhân dân lao động. “Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công
đã hơn 150 năm nay nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh
lần thứ hai”. Hồ Chí Minh nhận thấy Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga là cuộc
cách mạng khác hẳn về bản chất so với cách mạng tư sản. Người đánh giá: “Trong
thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa
là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”.
- Thực tế các dân tộc châu Á có những đặc điểm khác châu Âu, Hồ Chí
Minh đặt câu hỏi: “Chế độ cộng sản có áp dụng được ở châu Á nói chung và ở
Đông Dương nói riêng không? Đây là vấn đề mà chúng ta đang quan tâm hiện
nay”.
1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của chủ
nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh có quan điểm tổng quát khi coi CNCS, CNXH như là một chế
độ xã hội bao gồm các mặt rất phong phú, hoàn chỉnh, trong đó con người được
phát triển toàn diện, tự do. Trong một xã hội như thế, mọi thiết chế, cơ cấu xã hội
đều nhằm tới mục tiêu giải phóng con người.
Hồ Chí Minh diễn đạt quan niệm của mình về CNXH ở Việt Nam trên một
số mặt nào đó của nó, như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…Với cách diễn đạt
như thế của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, chúng ta không nên tuyệt đối hóa
từng mặt, hoặc tách riêng rẽ từng mặt của nó mà cần đặt trong một tổng thể chung.
Chẳng hạn, khi nói chuyện tại Lớp hướng dẫn giáo viên cấp 2, cấp 3 và Hội nghị sư
phạm, tháng 7/1956, Hồ Chí Minh cho rằng: “CNXH là lấy nhà máy, xe lửa, ngân
hàng v.v. làm của chung. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm
thì không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con”. Khi nhấn

mạnh mặt kinh tế, Hồ Chí Minh nêu chế độ sở hữu công cộng của CNXH và phân
3

3


phối theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin là làm theo năng lực, hưởng theo
lao động, có phúc lợi xã hội. Về mặt chính trị, Hồ Chí Minh nêu chế độ dân chủ,
mọi người được phát triển toàn diện với tinh thần làm chủ.
Hồ Chí Minh nêu CNXH ở Việt Nam trong ý thức, động lực của toàn dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Xây dựng một xã hội như thế là
trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi, động lực của toàn dân tộc. Cho nên, với động
lực xây dựng CNXH ở Việt Nam, sức mạnh tổng hợp được sử dụng và phát huy, đó
là sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.
Hồ Chí Minh xác định những đặc trưng chủ yếu của CNXH, gắn với điều
kiện thực tế của Việt Nam cũng trên cơ sở của lý luận Mác-Lênin, nghĩa là trên
những mặt về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Còn về cụ thể, chúng ta thấy Hồ
Chí Minh nhấn mạnh chủ yếu trên những điểm sau đây:
- Đó là một chế độ chính trị do nhân dân là chủ và làm chủ
Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ, nhân dân lao động là chủ và
nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối
đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công-nông-lao động trí óc, do Đảng
Cộng sản lãnh đạo.
Mọi quyền lực trong xã hội đều tập trung trong tay nhân dân. Nhân dân đoàn
kết thành một khối thống nhất để làm chủ nước nhà. Nhân dân là người quyết định
vận mệnh cũng như sự phát triển của đất nước dưới chế độ XHCN. Hồ Chí Minh
coi nhân dân có vị trí tối thượng trong mọi cấu tạo quyền lực. CNXH chính là sự
nghiệp của chính bản thân nhân dân, dựa vào sức mạnh của toàn dân để đưa lại
quyền lợi cho nhân dân.
- CNXH là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao, gắn liền với sự

phát triển của khoa học-kỹ thuật;

4

4


Đó là xã hội có một nền kinh tế phát triển dựa trên cơ sở năng suất lao động
xã hội cao, sức sản xuất luôn luôn phát triển với nền tảng phát triển khoa học - kỹ
thuật, ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học - kỹ thuật của nhân loại.
- Chủ nghĩa xã hội là chế độ không còn người bóc lột người
Đây là một vấn đề được hiểu như là một chế độ hoàn chỉnh, đạt đến độ chín
muồi. Trong CNXH không còn bóc lột, áp bức bất công, thực hiện chế độ sở hữu
xã hội về tư liệu sản xuất và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Đó là
một xã hội được xây dựng trên nguyên tắc công bằng, hợp lý.
- CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức
Đó là một xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình
đẳng, không còn áp bức, bóc lột, bất công, không còn sự đối lập giữa lao động chân
tay và lao động trí óc, giữa thành thị và nông thôn, con ngời được giải phóng, có
điều kiện phát triển toàn diện, có sự hài hòa trong phát triển của xã hội và tự nhiên.
- Các dân tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng và cùng giúp nhau cùng tiến bộ
- CNXH có quan hệ hòa bình, hữu nghị, hợp tác với nhân dân lao động các
nước trên thế giới.
Các đặc trưng nêu trên là hình thức thể hiện một hệ thống giá trị vừa kế thừa
các di sản của quá khứ, vừa được sáng tạo mới trong quá trình xây dựng CNXH.
CNXH là hiện thân đỉnh cao của tiến trình tiến hóa lịch sử nhân loại. Hồ Chí Minh
quan niệm CNXH là sự tổng hợp quyện chặt ngay trong cấu trúc nội tại của nó, một
hệ thống giá trị làm nền tảng điều chỉnh các quan hệ xã hội, đó là độc lập, tự do,
bình đẳng, công bằng, dân chủ, bảo đảm quyền con người, bác ái, đoàn kết, hữu
nghị… Trong đó có những giá trị tạo tiền đề, có giá trị hạt nhân. Tất cả những giá

trị cơ bản này là mục tiêu chủ yếu của CNXH. Một khi tất cả các giá trị đó đạt được
thì loài người sẽ vươn tới lý tưởng cao nhất CNXH, đó là “liên hợp tự do của
những người lao động” mà C. Mác, Ph.Ăngghen đã dự báo. Ở đó, cá tính của con
người được phát triển đầy đủ, năng lực con người được phát huy cao nhất, giá trị
5

5


con người được thực hiện toàn diện. Nhưng theo Hồ Chí Minh, đó là một quá trình
phấn đấu khó khăn, gian khổ, lâu dài, dần dần và không thể nôn nóng.
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của CNXH
- Mục tiêu của CNXH: Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của CNXH và mục
tiêu phấn đấu của Người là một, đó là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho
nhân dân; đó là là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Từ cách đặt vấn đề này, theo Hồ Chí Minh, hiểu mục tiêu của CNXH, nghĩa
là nắm bắt nội dung cốt lõi con đường lựa chọn và bản chất thực tế xã hội mà
chúng ta phấn đấu xây dựng. Tiếp cận CNXH về phương diện mục tiêu là một nét
thường gặp, thể hiện phong cách và năng lực tư duy lý luận khái quát của Hồ Chí
Minh. Hồ Chí Minh có nhiều cách đề cập mục tiêu của CNXH. Có khi Người trả
lời một cách trực tiếp: “Mục đích của CNXH là gì? Nói một cách đơn giản và dễ
hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước
hết là nhân dân lao động”. Hoặc “mục đích của CNXH là không ngừng nâng cao
mức sống của nhân dân”. Có khi Người nói một cách gián tiếp, không nhắc đến
CNXH, nhưng xét về bản chất, đó cũng chính là mục tiêu của CNXH theo quan
niệm của Người. Kết thúc bản Di chúc, Hồ Chí Minh viết: Điều mong muốn cuối
cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng
một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.

Hồ Chí Minh quan niệm mục tiêu cao nhất của CNXH là nâng cao đời sống
nhân dân. Đó là sự tin tưởng cao độ vào lý tưởng vì dân. Theo Người, muốn nâng
cao đời sống nhân dân, phải tiến lên CNXH. Mục tiêu nâng cao đời sống toàn dân
đó là tiêu chí tổng quát để khẳng định và kiểm nghiệm tính chất XHCN của các lý
luận CNXH và chính sách thực tiễn.

6

6


Như vậy, Hồ Chí Minh đã xác định các mục tiêu cụ thể của CNXH trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Mục tiêu chính trị: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời kỳ quá độ lên
CNXH, chế độ chính trị phải là do nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước là của
dân, do dân và vì dân. Nhà nước có hai chức năng: Dân chủ với nhân dân, chuyên
chính với kẻ thù của nhân dân. Hai chức năng đó không tách rời nhau, mà luôn
luôn đi đôi với nhau. Một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải phát huy quyền dân
chủ và sinh hoạt chính trị của nhân dân; mặt khác lại yêu cầu phải chuyên chính với
thiểu số phản động chống lại lợi ích của nhân dân, chống lại chế độ XHCN.
+ Mục tiêu kinh tế: Theo Hồ Chí Minh, chế độ chính trị của CNXH chỉ được
bảo đảm và đứng vững trên cơ sở một nền kinh tế vững mạnh. Nền kinh tế mà
chúng ta xây dựng là nền kinh tế XHCN với công - nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến, cách bóc lột theo CNTB được bỏ dần, đời sống vật chất của nhân
dân ngày càng được cải thiện.
+ Mục tiêu văn hóa - xã hội: Theo Hồ Chí Minh, văn hóa là một mục tiêu cơ
bản của cách mạng XHCN. Văn hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã
hội, đó là xóa nạn mù chữ, xây dựng, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, xây
dựng phát triển văn hóa nghệ thuật, thực hiện nếp sống mới, thực hành vệ sinh
phòng bệnh, giải trí lành mạnh, bài trừ mê tín dị đoan, khắc phục phong tục tập
quán lạc hậu…

Về bản chất của nền văn hóa XHCN Việt Nam, Người khẳng định: “Phải
XHCN về nội dung”; để có một nền văn hóa như thế ta phải phát huy vốn cũ quý
báu của dân tộc, đồng thời học tập văn hóa tiên tiến của thế giới. Phương châm xây
dựng nền văn hóa mới là: “Dân tộc, khoa học, đại chúng”.
Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng XHCN là đào tạo
con người. Bởi lẽ, mục tiêu cao nhất, động lực quyết định nhất công cuộc xây dựng
chính là con người. Trong lý luận xây dựng con người XHCN, Hồ Chí Minh quan
7

7


tâm trước hết mặt tư tưởng. Người cho rằng: “Muốn có con người XHCN, phải có
tư tưởng XHCN”, tư tưởng XHCN ở mỗi con người là kết quả của việc học tập,
vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, nâng cao lòng yêu nước, yêu CNXH.
Người cũng rất quan tâm đến mặt tài năng, luôn tạo điều kiện để mỗi người rèn
luyện tài năng, đem tài năng cống hiến cho xã hội. Tuy vậy, Hồ Chí Minh luôn gắn
tài năng với đạo đức. Theo Người, “có tài mà không có đức là hỏng”; dĩ nhiên, đức
phải đi đôi với tài, nếu không có tài thì không thể làm việc được. Cũng như vậy,
Người luôn gắn phẩm chất chính trị với trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ
trong đó “chính trị là tinh thần, chuyên môn là thể xác”.
- Các động lực của CNXH: Để thực hiện những mục tiêu đó, cần phát hiện
những động lực và những điều kiện bảo đảm cho động lực đó thực sự trở thành sức
mạnh thúc đẩy công cuộc xây dựng CNXH, nhất là những động lực bên trong,
nguồn nội lực của CNXH.
Theo Hồ Chí Minh, những động lực đó biểu hiện ở các phương diện: Vật chất
và tinh thần; nội sinh và ngoại sinh. Người khẳng định, động lực quan trọng và quyết
định nhất là con người, là nhân dân lao động, nòng cốt là công - nông - trí thức. Hồ
Chí Minh thường xuyên quan tâm đến lợi ích chính đáng, thiết thân của họ; đồng
thời chăm lo bồi dưỡng sức dân. Đó là lợi ích của nhân dân và từng cá nhân.

Nhà nước đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân dới sự lãnh đạo của
Đảng, thực hiện chức năng quản lý xã hội, đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội đến thắng lợi. Người đặc biệt quan tâm đến hiệu lực của tổ chức, bộ máy, tính
nghiêm minh của kỷ luật, pháp luật, sự trong sạch, liêm khiết của đội ngũ cán bộ,
công chức các cấp từ Trung ương tới địa phương.
Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh
doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu
có, gắn liền kinh tế với kỹ thuật, kinh tế với xã hội.

8

8


Cùng với động lực kinh tế, Hồ Chí Minh cũng quan tâm tới văn hóa, khoa
học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh nhận thấy sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết
định đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Đây là hạt nhân trong hệ động lực
của chủ nghĩa xã hội.
Ngoài các động lực bên trong, theo Hồ Chí Minh, phải kết hợp được với sức
mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước phải gắn liền với
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, phải sử dụng tốt những thành quả khoa
học - kỹ thuật thế giới …
Nét độc đáo trong phong cách tư duy biện chứng Hồ Chí Minh là ở chỗ bên
cạnh chỉ ra các nguồn động lực phát triển của CNXH, Người còn lưu ý, cảnh báo
và ngăn ngừa các yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn năng lượng vốn có của CNXH,
làm cho CNXH trở nên trì trệ, xơ cứng, không có sức hấp dẫn, đó là tham ô, lãng
phí, quan liêu...mà Người gọi đó là “giặc nội xâm”.
Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định rất rõ nội lực là quyết định
nhất, ngoại lực là rất quan trọng. Chính vì thế, Người hay nêu cao tinh thần độc lập,

tự chủ, tự lực cánh sinh là chính, nhưng luôn luôn chú trọng tranh thủ sự giúp đỡ,
hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế tạo thành sức
mạnh tổng hợp để xây dựng thành công CNXH trên cơ sở bảo đảm các quyền dân
tộc cơ bản của Việt Nam, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, chung
sống hòa bình và phát triển.
2. Sự vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH của Đảng
ta vào công cuộc xây dựng CNXH hiện nay
Hơn 89 năm qua, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng CNXH, con
đuờng đi lên CNXH mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, lãnh đạo nhân dân ta
giành đuợc những thắng lợi hết sức to lớn. Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và
con đường và con đường đi lên CNXH đã trở thành tư tưởng chỉ đạo, là “sợi chỉ
9

9


đỏ” xuyên suốt trong đường lối của Đảng, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
Ngày nay, tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, thay đổi khó lường. Hòa
bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn. Nhưng xung đột vũ trang, tranh chấp
lãnh thổ, khủng bố quốc tế, xung đột dân tộc, tôn giáo... đang diễn ra ở nhiều nơi.
Cách mạng khoa học công nghệ và toàn cầu hóa tạo cơ hội cho các nuớc phát triển,
nhưng cạnh tranh, tranh giành thị truờng, các nguồn nguyên liệu, năng lượng,
nguồn lực khoa học công nghệ giữa các quốc gia, các tập đoàn kinh tế diễn ra quyết
liệt, đặt các quốc gia, nhất là các nước đang và kém phát triển trước những thách
thức gay gắt. Ở trong nước, bên cạnh thững những thành tựu có ý nghĩa lịch sử mà
Đảng và nhân dân ta đã giành được trong sự nghiệp đổi mới, làm tăng thế và lực,
uy tín quốc tế của đất nước, chúng ta cũng đang đứng trước những khó khăn, thách
thức to lớn. Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp. Cơ cấu kinh
tế chuyển dịch chậm. Các cân đối kinh tế lớn, ổn định kinh tế vĩ mô chưa thật vững

chắc. Một số lĩnh vực xã hội còn những mặt yếu kém như giáo dục, đào tạo, khám
chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân, quản lý các hoạt động văn hóa, bảo đảm
trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông; tệ tham nhũng, lãng phí chậm được khắc
phục, gây bức xúc trong nhân dân. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị chống phá
ta hết sức quyết liệt, bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Thêm vào đó, mặt trái
của cơ chế thị truờng tác động làm suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống của không
ít cán bộ, đảng viên... làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân với Đảng, chế độ.
Trong bối cảnh đó, Đảng ta, nhân dân ta khẳng định kiên định và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc gắn liền CNXH, mục tiêu đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn và được
lịch sử phát triển của dân tộc ta chứng minh: chỉ có con đường XHCN mới bảo đảm
cho dân tộc ta có nền độc lập thật sự, đất nước ta phát triển ổn định, phồn vinh,
nhân dân ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đó là con đường đúng đắn, phù hợp
với quy luật phát triển của thời đại.
10

1
0


Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH, trong hoàn cảnh mới,
Đảng ta tiếp tục tìm tòi, ngày càng làm sáng tỏ hơn về CNXH và con đường đi lên
CNXH ở nước ta. Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng, được khẳng định trong
Cương lĩnh và văn kiện các kỳ đại hội của Đảng, là xã hội dân giàu, nuớc mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất
chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con nguời có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, do Đảng cộng sản lãnh đạo; có

quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Đảng ta luôn xác định xây dựng CNXH ở nước ta là một quá trình cải biến
cách mạng sâu sắc, triệt để, một cuộc đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới để
tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, nhất
định phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, nhiều bước phát triển, không thể đơn
giản, chủ quan, nóng vội.
Để thực hiện thành công mục tiêu xã hội XHCN, kế thừa và phát triển các
quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đề ra các phương hướng và
nhiệm vụ cơ bản sau:
Thứ nhất, phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ trung tâm để từng buớc
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH; không ngừng nâng cao năng suất lao
động xã hội, chất lượng, hiệu quả, khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế và cải
thiện đời sống nhân dân. Trong đó, phát triển mạnh các ngành, các sản phẩm kinh
tế có giá trị gia tăng dựa nhiều vào tri thức; phát triển công nghiệp và xây dựng
theo hướng hiện đại, nhất là những ngành có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến
lược đối với sự phát triển nhanh, bền vững; nâng cao tính độc lập tự chủ của nền
11

1
1


kinh tế, có khả năng tham gia có hiệu quả vào dây chuyền sản xuất và mạng lưới
phân phối toàn cầu. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn; phát triển nông - lâm - ngư nghiệp một cách toàn diện, hiệu quả, bền vững
gắn với giải quyết đồng bộ các vấn đề của nông dân, nông thôn. Phát triển nhanh
các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại, du lịch,
các dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
giao thông, điện, nuớc, các công trình xử lý chất thải, bảo vệ môi trường, đáp ứng

yêu cầu phát triển của đất nước. Phát triển kinh tế - xã hội hài hòa giữa các vùng
đồng bằng, trung du và miền núi, ven biển, đảo và hải đảo, thành thị và nông thôn.
Thứ hai, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong
đó, cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi
nguồn lực nhằm phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế. Phát triển các hình thức sở
hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế đều được coi trọng, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành
mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể, ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo. Nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước để giữ vững ổn định kinh tế vĩ
mô; tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường, định hướng phát
triển, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế.
Thứ ba, chăm lo phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành
nền tảng, giữ vai trò chỉ đạo trong đời sống tinh thần, xã hội. Kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức,
12

1
2


thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Đấu tranh chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ,
trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Thứ tư, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn

dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng,
an ninh; xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu,
có sức chiến đấu cao; xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh bảo đảm cho
các lực lượng vũ trang được trang bị ngày càng hiện đại; để bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, an ninh
quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và
hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta.
Thứ năm, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,
hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự phát
triển đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
nâng cao vị thế của đất nước; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Thứ sáu, xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện và phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở tất cả
các cấp, trên tất cả các lĩnh vực; bảo đảm tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân,
mọi chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước
đều vì lợi ích của nhân dân; mọi cán bộ, công chức đều là công bộc của nhân dân.
Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hòa
bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
13

1
3



bằng, dân chủ, văn minh để tập hợp, đoàn kết các giai cấp, tầng lớp nhân dân, đồng
bào các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Thứ bảy, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; bảo đảm Nhà nước thực sự là của nhân
dân, Nhà nước làm tốt chức năng quản lý kinh tế và đời sống xã hội; giữ nghiêm
trật tự, kỷ cương xã hội; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc
và nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa
các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; có đội
ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực cao; có cơ chế kiểm soát, ngăn
ngừa, trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền
dân chủ của nhân dân.
Thứ tám, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức; kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng;
thật sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc; có năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu cao, thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ,
năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng, bảo
đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt đảng. Thường xuyên tự phê bình và
phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động
chia rẽ, bè phái. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức, năng lực, có sức chiến đấu cao. Đảng hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật, liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của
nhân dân.

KẾT LUẬN

14

1

4


Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh và cách tiếp cận trong tư tưởng của Người
về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam vẫn đang soi sáng sự nghiệp đổi mới của
đất nước ta. Đổi mới theo định hướng XHCN, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh trong bối cảnh toàn cầu hóa là một thử thách đối
với lý tưởng XHCN và tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam.
Đất nước ta đã trãi qua hơn 30 năm đổi mới, nhưng văn kiện các kỳ đại hội
của Đảng gần đây đã chỉ ra những hiện tượng sa sút về lý tưởng XHCN và sự giảm
sút niềm tin vào con đường đi tới CNXH ở nước ta. Hơn lúc nào hết, trong tình
hình hiện nay, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam có
một ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Nó làm tăng thêm niềm tin vào lý
tưởng XHCN ở mỗi người; giúp mỗi người đang băn khoăn, do dự tìm thấy con
đường đi sáng tỏ. Lý luận về CNXH và tư tưởng về con đường đi lên CNXH ở
Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Mình mãi mãi là một di sản tinh thần lạc quan, giàu
sức sống, là chân lý ngời sáng đưa đất nước vượt qua muôn vàn thử thách vững
bước tiến lên.

15

1
5



×