Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Bản sắc văn hóa việt nam trong bối cảnh toàn cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (771.64 KB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

PHÙNG THU THỦY

BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
TOÀN CẦU HÓA

LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01

HÀ NỘI, 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

PHÙNG THU THỦY

BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
TOÀN CẦU HÓA

LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Đặng Thị Lan


HÀ NỘI, 2014


Lời cảm ơn
Luận văn hoàn thành là kết quả của ba năm nghiên cứu và học tập tại
Khoa Triết học trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Trong quá
trình hoàn thiện luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy
cô giáo, các anh chị khóa trước và các bạn trong lớp. Vì vậy, tôi xin chân
thành cảm ơn các thầy cô giáo của Khoa Triết học cùng toàn thể các học viên
trong tập thể lớp Cao học Triết K19. Đặc biệt, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc
đến PGS. TS. Đặng Thị Lan – người định hướng khoa học, hướng dẫn tận
tình, luôn động viên, giúp đỡ hết mực, đã giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song luận văn không tránh khỏi những
thiếu sót và hạn chế nhất định. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của
các thầy cô để luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

Hà Nội ngày 24 tháng 8 năm 2014

Phùng Thu Thủy


Bảng chữ viết tắt

Nxb:

Nhà xuất bản

CNH, HĐH:


Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

UNDP (United Nations Development Programme): Chương trình Phát
triển Liên Hợp Quốc.
ASEAN (Association of Southeast Asian Nations): Hiệp hội các Quốc
gia Đông Nam Á.
APEC (Asia-Pacific Economic Cooperation): Diễn đàn Hợp tác Kinh tế
châu Á – Thái Bình Dương.
ASEM (The Asia-Europe Meeting): Diễn đàn hợp tác Á–Âu.
XHC: Xã hội chủ nghĩa.
TBCN: Tư bản chủ nghĩa.
UNESCO (United

Nations

Educational

Scientific

and

Cultural

Organization): Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc.
IMF (International Monetary Fund): Quỹ tiền tệ quốc tế.
WB (World Bank): Ngân hàng Thế giới.
GATT (General Agreement on Tariffs and Trade): Hiệp ước chung về
thuế quan và mậu dịch.
SEV: Hội đồng Tương trợ Kinh tế.



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài: .......................................................................................... 4
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn .............................................................................. 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 8
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .................................................................... 9
6. Đóng góp mới của luận văn: .......................................................................................... 9
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn: .................................................................. 10
8. Kết cấu của luận văn: ................................................................................................... 10
CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA ......................................................................... 11
1.1 Văn hóa và bản sắc văn hóa Việt Nam ...................................................................... 11
1.1.1 Văn hóa và bản sắc văn hóa ............................................................................... 11
1.1.2 Bản sắc văn hóa Việt Nam ................................................................................. 21
1.2 Toàn cầu hóa và tác động của nó đến bản sắc văn hóa Việt Nam ............................ 29
1.2.1 Khái niệm toàn cầu hóa và bản chất của toàn cầu hóa ..................................... 29
1.2.2 Tác động của toàn cầu hóa đối với bản sắc văn hóa Việt Nam......................... 36
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................................ 45
CHƯƠNG 2 SỰ BIẾN ĐỔI CỦA BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG BỐI
CẢNH TOÀN CẦU HÓA – VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP ................................................. 46
2.1 Sự biến đổi của bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và những vấn
đề đặt ra ............................................................................................................................ 46
2.1.1 Sự biến đổi của bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa ................... 46
2.1.2 Những vấn đề đặt ra hiện nay trong sự biến đổi bản sắc văn hóa Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hóa ........................................................................................ 70
2.2 Một số nguyên tắc và giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
trong bối cảnh toàn cầu hóa ở Việt Nam hiện nay ........................................................... 75
2.2.1 Nguyên tắc nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh

toàn cầu hóa ở Việt Nam hiện nay ............................................................................... 75
2.2.2 Một số giải pháp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh
toàn cầu hóa ở nước ta hiện nay.................................................................................. 81
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................................ 91
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 95


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều biến đổi theo xu thế
toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ trên quy mô lớn.
Cùng với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại và mạng thông tin toàn cầu, “ngôi nhà” thế giới dường như trở nên
nhỏ bé hơn. Đặc biệt, xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra như một cơn bão lốc
cuốn hút hầu hết tất cả các cá nhân, quốc gia, dân tộc, châu lục và toàn thể
nhân loại vào vòng xoáy vận mệnh của nó trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã chỉ ra:
“Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều
yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là
các nước đang phát triển” [19, Tr 78].
Thực tế, toàn cầu hoá đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, nó không chỉ
giới hạn trong lĩnh vực kinh tế mà còn mở rộng sang các lĩnh vực khác như
văn hoá, chính trị, xã hội và đang đặt ra nhiều vấn đề hệ trọng đối với sự tồn
tại và phát triển của mỗi quốc gia dân tộc. Toàn cầu hóa vừa là thời cơ cho sự
hội nhập và phát triển, đồng thời cũng là những thách thức lớn đối với vấn đề
bản sắc văn hoá của mỗi quốc gia. Hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa
đã đem lại cho chúng ta cơ hội phát triển kinh tế, giao lưu, làm giàu thêm nền
văn hóa dân tộc. Song bên cạnh đó, vấn đề xói mòn, hủy hoại các giá trị
truyền thống, nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc – đánh mất sức mạnh

nội sinh to lớn, cũng là những bài toán khó được đặt ra trong tình hình mới
hiện nay.
Dòng chảy toàn cầu hoá cùng với những nghịch lý của nó mở ra những
xu hướng vận động khác nhau cho các quốc gia, dân tộc thông qua sự giao
lưu, nhất là sự giao lưu văn hóa. Bất luận tham gia chủ động hay buộc phải

1


cuốn theo một cách bị động vào quá trình toàn cầu hoá thì văn hóa dân tộc
đều phải tiếp xúc, giao thoa với các nền văn hóa khác trên thế giới. Theo đó,
các nền văn hoá đang xích lại gần nhau hơn, tạo ra ảo biến hai mặt: dung hòa,
thâm nhập, tiếp biến văn hóa và những sự xung đột, sự đồng hoá, hay sự “hoà
tan” văn hoá, sự “nhạt nhòa” bản sắc văn hóa dân tộc. Cũng do chính quá
trình đó, nhiều lúc ta bắt gặp những đặc điểm của nước này trong nước khác,
song, có thể nhận ra từng quốc gia bởi chính nét đặc sắc trong văn hoá dân tộc
của họ. Bản sắc văn hóa là sức mạnh nội sinh của mỗi dân tộc mà chính mỗi
dân tộc, mỗi quốc gia cần nhận thức đúng về nó nhằm mang lại định hướng
hoạt động đúng đắn góp phần phát huy nguồn sức mạnh này, đưa quốc gia,
dân tộc đi lên một vị trí mới, phát triển hơn về mọi mặt.
Toàn cầu hóa làm biến đổi bản sắc văn hóa, khiến bản sắc văn biến
động theo chiều hướng tích cực và tiêu cực. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều
nhận thấy và áp dụng những giải pháp nhằm tận dụng cơ hội, phát huy những
ảnh hưởng tích cực do toàn cầu hóa mang lại, đồng thời hạn chế những tác
động tiêu cực của nó. Việt Nam chúng ta cũng không thể nằm ngoài quy luật
phát triển chung đó của nhân loại. Trong những năm qua, toàn cầu hóa ảnh
hưởng sâu rộng tới chúng ta, mang lại những sự thay đổi tất yếu trên nhiều
lĩnh vực. Cùng với quá trình đổi mới đất nước, đặc biệt là sự đổi mới trong
chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước, quá trình hội nhập, giao lưu đã
được đẩy mạnh trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có văn hoá. Chúng ta đã tiếp

thu những tinh hoa, nét tích cực của văn hoá các dân tộc trên thế giới để làm
phong phú thêm cho nền văn hóa của mình. Tuy nhiên cũng chính những yếu
tố “ngoại lai” đó đã phần nào làm mờ nhạt đi bản sắc văn hoá dân tộc. Sự
thay đổi những chuẩn mực, hành vi đạo đức, lối sống thực dụng, những tệ nạn
xã hội…và sự “quay lưng” với truyền thống, với quá khứ là một trong số
những biểu hiện của thực trạng phai nhạt bản sắc văn hóa và xuống cấp về
mặt đạo đức xã hội.

2


Phải khẳng định rằng, từ xưa đến nay bản sắc văn hóa dân tộc làm nên
sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua biết bao sóng
gió, thác ghềnh để không ngừng phát triển, lớn mạnh và khẳng định được vị
thế trên trường quốc tế. Đó là điểm tựa vững chắc để chúng ta đến với thế
giới. Đúng như lời khẳng định: “Một dân tộc thiếu văn hóa chưa phải là một
dân tộc thật sự hình thành, một nền văn hóa không có bản sắc dân tộc thì nền
văn hóa ấy không có sức sống thật sự của nó” [14, Tr 16]. Văn hóa chính là
vốn quý của chúng ta. Vì thế, để bảo vệ cái quý báu ấy cũng như để không
đánh mất chính mình thì việc nghiên cứu bản sắc văn hoá dân tộc trở thành
một yêu cầu cấp bách. Đây không chỉ là điều kiện để phát triển lành mạnh con
người và xã hội mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững
và tiến bộ của đất nước.
Đảng và Nhà nước luôn nhất quán quan điểm xây dựng chiến lược giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, trong đó, “văn hóa được coi là nền
tảng của tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã
hội” [18, Tr 51]. Trước tình hình đó, vấn đề bản sắc văn hóa Việt Nam trong
bối cảnh toàn cầu hóa nói chung và việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa nói riêng là vấn đề mang tính thời sự,
cấp bách trong giai đoạn hiện nay.

Xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn và để góp thêm cơ sở cho
việc chủ động đón nhận những thời cơ, khắc phục những thách thức đối với
bản sắc văn hóa do toàn cầu hóa đem lại, chúng tôi quyết định chọn vấn đề
“Bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa” làm đề tài nghiên
cứu cho luận văn thạc sỹ Triết học của mình.

3


2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Vấn đề toàn cầu hoá, bản sắc dân tộc và giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc là vấn đề đã được nhiều tập thể, nhiều nhà khoa học trong nước
và ngoài nước quan tâm, nghiên cứu ở những mức độ khác nhau. Có thể phân
chia thành 3 nhóm công trình cơ bản sau đây:
2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về bản sắc văn hóa dân tộc
- “Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc”, Huy Cận, Nxb Chính trị Quốc
gia, 1996. Tác giả đề cập cộng đồng người Việt Nam trong quá trình lịch sử
của mình đã tạo xây những giá trị văn hóa tư tưởng nuôi dưỡng tâm linh, tình
cảm cho mỗi con người. Đó là những giá trị truyền thống được coi là hạt nhân
căn bản của văn hóa dân tộc, là chất keo kết dính mỗi thành viên cộng đồng
trong khối đại đoàn kết.
- “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”, Trần Ngọc Thêm, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, 2001. Tác giả vẽ nên bức tranh tổng quát về văn hóa Việt Nam,
đề cập một số lĩnh vực văn hóa như văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần và các
vùng văn hóa Việt Nam.
- “Bản sắc văn hóa Việt Nam”, Phan Ngọc, Nxb Văn học 2002. Tác gải
làm rõ bề dày văn hóa của con người Việt Nam, bản sắc văn hóa Việt Nam
trong giao lưu văn hóa, nề tảng của giao lưu quốc tế. Đồng thời đặt ra vấn đề
bảo vệ và phát huy văn hóa trong cuộc tiếp xúc văn hóa hiện nay.
- “Bản sắc văn hóa dân tộc”, Hồ Bá Thâm, Nxb Văn hóa thông tin, 2003.

Tác giả đề cập bản sắc và động lực phát triển của văn hóa, văn hóa và bản sắc
văn hóa dân tộc Việt Nam, tư duy triết học trong văn hóa truyền thống.
- “Phát triển văn hóa giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc kết hợp tinh
hoa của văn hóa nhân loại”, Phạm Minh Hạc, Nxb Khoa học Xã Hội, Hà Nội,
1996. Tác phẩm khái quát căn bản về văn hóa và phát triển, khẳng định vai trò
của văn hóa.

4


Ngoài các công trình đã nêu trên, còn có nhiều công trình, bài viết khác
nghiên cứu về vấn đề này đăng trên các Tạp chí Triết học, Khoa học xã hội,
Nghiên cứu lý luận, Nghiên cứu văn hóa dân gian… Nhưng do cách tiếp cận
ở các góc độ khác nhau mà ít có các công trình đi sâu nghiên cứu một cách có
hệ thống về việc phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong xu thế toàn
cầu hoá ở nước ta hiện nay. Trước tình hình đó, yêu cầu đặt ra là phải đẩy
mạnh hơn nữa việc nghiên cứu vấn đề này nhằm góp phần vào việc xây dựng
con người mới, xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc theo tinh thần Nghị Quyết Trung ương 5 Khóa VIII, Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X và XI của Đảng.
2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về những tác động của toàn cầu
hóa đến bản sắc dân tộc
- “Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá - vấn đề và giải
pháp” của tác giả Chu Tuấn Cáp (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2002. Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn quá trình phát triển của toàn
cầu hoá cùng những tác động của nó, các tác giả trình bày quá trình hội nhập
kinh tế của Việt Nam, nêu lên thành công bước đầu, những hạn chế và bài học
kinh nghiệm của nước ta.
- “Toàn cầu hoá – cơ hội và thách thức đối với các nước đang phát
triển” của tác giả Đường Vinh Sường, Nxb Thế giới, 2004, là công trình

nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phân tích, tổng hợp quá trình phát triển,
những đặc trưng cơ bản của toàn cầu hoá kinh tế, những cơ hội và thách thức
đặt ra với các nước đang phát triển, đồng thời có sự liên hệ với Việt Nam
trong quá trình đổi mới.
- “Vấn đề điều chỉnh chức năng và thể chế của Nhà nước dưới tác động
của toàn cầu hoá” của tác giả Phạm Thái Việt (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
2008). Trên cơ sở phân tích những tác động của toàn cầu hóa đến Nhà nước,
tác giả đã trình bày sự điều chỉnh các thể chế bên trong của Nhà nước, xây

5


dựng thể chế bên trong của Nhà nước, xây dựng thể chế hỗ trợ thị trường, các
thể chế hỗ trợ xã hội dân sự, các thể chế hợp tác quốc tế.
- “Toàn cầu hoá: những biến đổi lớn trong đời sống chính trị quốc tế và
văn hoá” của tác giả Phạm Thái Việt (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006)
cũng đã đề cập đến những biến đổi trong đời sống chính trị quốc tế, những
biến đổi trong đời sống văn hoá trong xu thế toàn cầu hóa.
- “Kỷ yếu hội thảo khoa học “Giá trị truyền thống trước những thách
thức của toàn cầu hoá” được tổ chức tại Hà Nội vào tháng 5/2001. Các bài
tham luận đều tập trung làm rõ thực chất của toàn cầu hoá và những thách
thức cũng như cơ hội của toàn cầu hoá đối với việc giữ gìn và phát huy những
giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam đồng thời bước đầu đề xuất một số
giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống đó trong bối
cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
Các công trình trên chủ yếu xem xét toàn cầu hoá dưới góc độ kinh tế,
một vài công trình đã bước đầu nhìn nhận toàn cầu hóa với tư cách là một
chỉnh thể bao gồm các mặt: kinh tế, văn hoá, xã hội... luôn tác động qua lại
lẫn nhau, trong đó kinh tế giữ vai trò nền tảng.
2.3. Nhóm công trình nghiên cứu về những biến đổi và giải pháp giữ

gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa.
- “Bước đầu tìm hiểu sự biến đổi giá trị truyền thống Việt Nam trong
bối cảnh toàn cầu hóa”, Hoàng Thị Ngát, Khóa luận tốt nghiệp, năm 2006,
Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội. Khóa luận đề cập đến
một số vấn đề lý luận về giá trị truyền thống Việt Nam, về toàn cầu hóa. Bước
đầu khảo sát sự biến đổi một số giá trị truyền thống Việt Nam dưới tác động
của toàn cầu hóa. Sau cùng là đưa ra những giải pháp về kinh tế - xã hội, giáo
dục, pháp luật nhằm giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống trong giai
đoạn hiện nay.

6


- “Những cơ hội và thách thức đối với các giá trị truyền thống Việt
Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa”, Võ Hoàng Anh, Luận văn thạc sỹ triết
học, năm 2007, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội. Luận
văn khắc họa rõ toàn cầu hóa và ảnh hưởng của nó đến các giá trị truyền
thống, cũng như giá trị truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa
với những nội dung khá đặc sắc, sâu rộng, thiết thực.
- “Kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn
cầu hóa”, Mai Thị Qúy, Tạp chí triết học (số 6).
- “Vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong
quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta”, Nguyễn Văn Lý, năm
1999, Tạp trí triết học (số 24).
- “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong qúa trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thái Nguyên hiện nay”, Lê Thị Kim Hưng, Luận
văn thạc sỹ, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội. Luận văn
khái quát một số vấn đề về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và giữ gìn, phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc. Trên sơ sở đó, luận văn tiếp tục trình bày thực trạng
và một số kiến nghị giải pháp về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thái Nguyên hiện nay.
Các công trình nghiên cứu trên đều đã đi vào khai thác song chưa cụ
thể và hệ thống những đặc điểm chung về bản sắc văn hóa, toàn cầu hóa, về
sự biến đổi cũng như những giải pháp nhất định trong việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Kế thừa những
thành tựu nghiên cứu tích cực của những người đi trước kết hợp với những
tìm tòi, nghiên cứu của bản thân, trong luận văn này, tác giả cố gắng phân tích
làm rõ hơn vấn đề sự biến đổi của bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hóa và nêu ra một số giải pháp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.

7


3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1 Mục đích
Trên cơ sở phân tích một số vấn đề lý luận chung về toàn cầu hóa, bản
sắc văn hóa và bản sắc văn hóa Việt Nam, luận văn làm rõ sự biến đổi của
bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và đề xuất một số giải
pháp nhằm giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn
cầu hóa hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ
- Trình bày một số vấn đề lý luận về văn hóa, bản sắc văn hóa, nội dung
bản sắc văn hóa Việt Nam.
- Làm rõ sự biến đổi của những yếu tố cơ bản cấu thành nên bản sắc
văn hóa Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hóa.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hoá Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là bản sắc văn hóa Việt Nam trong
bối cảnh toàn cầu hóa.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Thứ nhất, đề tài có phạm vi rộng, xung quan vấn đề “Bản sắc văn hóa
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa” đã có nhiều công trình nghiên cứu
theo các hướng khác nhau như: cơ hội và thách thức của bản sắc văn hóa Việt
Nam; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam; vai trò của văn hóa
trong hội nhập và phát triển…Luận văn tập trung phân tích và làm rõ sự biến
đổi của bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa để từ đó nêu ra
những giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.

8


- Thứ hai, văn hóa và bản sắc văn hóa là một phạm trù rộng, bao hàm
nhiều nội dung phong phú. Tùy theo các góc độ tiếp cận của các nhà nghiên
cứu mà mỗi người lại xác định các yếu tố làm nên bản sắc văn hóa khác nhau.
Luận văn đã lựa chọn và chỉ tập trung nghiên cứu một số giá trị văn hóa cơ
bản làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam như: chủ nghĩa yêu nước, tinh thần
nhân ái, ý thức cố kết cộng đồng, truyền thống hiếu học, kho tàng văn hóa
dân gian đặc sắc.
- Thứ ba, phạm vi thời gian: luận văn khảo cứu, xem xét sự biến đổi của
bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, giới hạn từ khi đổi
mới (từ năm 1986) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Luận văn lấy phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền
tảng, đồng thời dựa trên những nguyên lý cơ bản của của chủ nghĩa Mác –
Lênin, đặc biệt là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, nguyên lý về sự phát

triển, mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội để phân
tích, luận chứng sự biến đổi của bản sắc văn hóa Việt Nam. Bên cạnh đó, luận
văn còn dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam liên quan đến toàn cầu hóa, văn hoá, chính sách văn hóa, vấn đề giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và Chủ nghĩa duy vật lịch sử như: phương pháp logic và lịch sử, phương pháp
phân tích và tổng hợp, phương pháp quy nạp, diễn dịch, đối chiếu, so sánh…
6. Đóng góp mới của luận văn:
Luận văn phân tích và luận giải, làm rõ hơn sự biến đổi của bản sắc văn
hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay dưới góc độ triết học.

9


Luận văn đi từ sự phân tích thực trạng biến đổi, những vấn đề đặt ra
đến nêu những nguyên tắc và giải pháp chủ yếu nhằm giữ gìn, phát huy bản
sắc văn hoá trong quá trình toàn cầu hoá ở nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung và làm sáng tỏ lý
luận về văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc và vấn đề giữ gìn, phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc. Đồng thời, góp phần khẳng định vị thế của văn hóa cũng như
mối quan hệ biện chứng giữa toàn cầu hóa và vấn đề giữ gìn, phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
giảng dạy các bộ môn: Triết học, Văn hóa học, Dân tộc học…và những ai
quan tâm đến vấn đề bản sắc vắn hóa Việt Nam, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa…
8. Kết cấu của luận văn:

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương và 4 tiết.

10


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA
1.1 Văn hóa và bản sắc văn hóa Việt Nam
1.1.1 Văn hóa và bản sắc văn hóa
1.1.1.1 Khái niệm văn hóa
Lịch sử phát triển của văn hóa gắn liền với lịch sử phát triển của loài
người. Khi con người xuất hiện thì lịch sử văn hóa cũng bắt đầu. So với lịch
sử hình thành và phát triển của văn hóa, thuật ngữ văn hóa xuất hiện muộn
hơn. Đến thời cận đại từ “Văn hóa” mới trở thành một thuật ngữ khoa học.
Văn hóa là khái niệm được dùng phổ biến trong đời sống xã hội, thuật ngữ
này không những có nhiều nghĩa trong ngôn ngữ hàng ngày mà còn trong
các nghành khoa học khác nhau. Việc xác định nội hàm khái niệm này còn
nhiều ý kiến, vì trên thế giới hiện nay, có hàng trăm định nghĩa khác nhau
về văn hóa. Song, về cơ bản đều thống nhất coi văn hóa là những gì mà con
người sáng tạo để hình thành nên các giá trị, các chuẩn mực xã hội trong
quá trình lao động, hoạt động thực tiễn. Các giá trị chuẩn mực đó tác động,
chi phối, điều chỉnh đời sống tâm lý, hành vi, đạo đức và các hoạt động
trên mọi lĩnh vực có sự hiện diện của con người.
Lược khảo một số quan niệm tiêu biểu về văn hóa trong lịch sử,
chúng ta bắt gặp những quan niệm trước Mác, quan niệm mac-xit, những
quan niệm của các nhà khoa học cận và hiện đại, quan niệm của tổ chức
UNESCO, quan niệm của Hồ Chí Minh…với những nội hàm đúng đắn, có
giá trị nhất định.

Những quan niệm trước C.Mác về văn hóa cũng khá đa dạng. Phương
Đông với điển hình là Trung Quốc, từ cổ đại đến cận đại, đều cho rằng văn
hóa là chế độ, văn trị, giáo hóa, lễ nhạc, điển chương. Điển hình như Lưu

11


Hướng cũng từng đề cập: “Bậc thánh nhân trị thiên hạ, trước dùng văn đức,
sau mới dùng vũ lực. Phàm dùng đến võ đối phó với kẻ không phục tùng, giáo
hóa bằng văn mà không chịu thay đổi thì sau mới trừng phạt. Văn hóa ở đây
là giáo hóa đối lập với vũ lực”.
Ở phương Tây, thời cổ đại, coi văn hóa với tư cách là một từ, đã xuất
hiện từ trước Công nguyên trong ngôn ngữ Latinh (từ nghĩa khai khẩn, vỡ
hoang đất đai… mở rộng sang cày cấy, gieo trồng, chăm sóc…và thêm “vun
trồng tinh thần”).
Thời kỳ Phục hưng thế kỷ XV – XVI, văn hóa có thêm nghĩa chỉ năng
lực sáng tạo của con người, đề cao con người. Cùng với sự phát triển của
xã hội và khoa học, khái niệm văn hóa mở rộng ra các lĩnh vực khác nhau
như: xây dựng thể chế, cải tạo xã hội, thành đối tượng nghiên cứu của một
số ngành khoa học xã hội nhân văn như: Nhân loại học, Dân tộc học, xã hội
học…
Các nhà khai sáng Pháp cũng quan tâm đến văn hóa và có những quan
niệm mới, khác về văn hóa (Vonte dùng khái niệm văn minh để miêu tả các
thời kỳ phát triển của khoa học, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, nhà nước.,
Rútxô quan niệm văn hóa là hiện tượng xã hội…).
Sang thế kỷ XIX, từ nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau các nhà
khoa học hướng tới xác định văn hóa như đối tượng nghiên cứu của một
ngành khoa học độc lập. Năm 1871, E.B.Tylor công bố công trình văn hóa
nguyên thủy, coi văn hóa là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng,
nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục cùng với những khả năng và tập

quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội.
Những quan niệm sau C.Mác, của các nhà khoa học về văn hóa đề cập
đến rất nhiều định nghĩa văn hóa. Chẳng hạn, theo nhà ngôn ngữ học người
Pháp Jacques Derida: Văn hóa chính là cái tên chúng ta đặt cho điều bí ẩn
không cùng với những ai ngày nay đang tìm cách suy nghĩ về nó… Năm

12


1982, tại Mêhicô, Hội nghị thế giới về chính sách văn hóa vì sự phát triển đã
nêu ra định nghĩa: “Theo nghĩa rộng, ngày nay văn hóa có thể được coi là
toàn bộ các đặc tính đặc biệt về tâm hồn, vật chất, trí tuệ và tình cảm được
đặc trưng cho một xã hội hay một nhóm xã hội. Nó không chỉ bao gồm nghệ
thuật và văn học, mà cả lối sống, các quyền cơ bản của nhân loại, các hệ
thống giá trị truyền thống và tín ngưỡng”[77, Tr.23] .Trong định nghĩa này,
văn hóa được quan niệm là toàn bộ các giá trị tinh thần nhưng nhấn mạnh đến
đặc điểm có khả năng đặc trưng cho một xã hội hoặc một cộng đồng người.
Điều đó có nghĩa là trong quan hệ xã hội, trong phát triển phải tôn trọng bảo
tồn và phát huy những đặc điểm có tính riêng biệt đó.
Về căn bản, có thể liệt kê dưới đây ba định nghĩa nổi bật nhất, đó là
định nghĩa của chủ nghĩa Mác- Lênin, của UNESCO và của Hồ Chí Minh.
Trong thập kỷ thế giới vì sự phát triển văn hóa (1988 – 1997),
Phederico Mayo – Tổng giám đốc UNESCO lúc đó đưa ra quan niệm: “Văn
hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện
tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các
giá trị, các truyền thống và các thị hiếu – những yếu tố xác định đặc tính
riêng của mỗi dân tộc”. Định nghĩa này tiếp cận văn hóa dưới góc độ hoạt
động và văn hóa là hệ thống giá trị chuẩn mực đồng thời nhấn mạnh đặc tính
dân tộc của văn hóa. UNESCO thừa nhận văn hóa là cội nguồn trực tiếp của
phát triển xã hội, có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội. Nó không

những là yếu tố nội sinh của sự phát triển, mà còn là mục tiêu động lực cho
sự phát triển xã hội. Văn hóa giúp cho con người tự hoàn thiện, nó quyết định
tính cách riêng của một xã hội, làm cho dân tộc này khác dân tộc khác. Với ý
nghĩa đó, văn hoá có mặt trong bất cứ hoạt động nào của con người, dù đó là
hoạt động sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần hay trong quan hệ giao tiếp
ứng xử xã hội, trong thái độ đối với thiên nhiên.

13


Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nền tảng của lịch sử là
hoạt động lao động của con người và quá trình con người sáng tạo ra lịch sử
cũng là quá trình con người sáng tạo văn hoá, văn hóa bắt nguồn từ lao động.
Những quan niệm về văn hóa được trình bày trong nhiều tác phẩm “Hệ tư
tưởng Đức”(1844), “Góp phần phê phán khoa Kinh tế chính trị”(1859),
“Nguồn gốc của gia đình,của chế độ tư hữu và Nhà nước”(1884)… C.Mác
viết: “Chúng ta buộc phải bắt đầu bằng việc xác định tiền đề đầu tiên của mọi
sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đề của mọi lịch sử, đó là: người ta
phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống
được thì trước hết phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ
khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra bản thân đời
sống vật chất. Hơn nữa, đó là một hành vi lịch sử, một điều kiện cơ bản của
mọi lịch sử mà (hiện nay cũng như hàng ngàn năm về trước) người ta phải
thực hiện hàng ngày, hàng giờ, chỉ nhằm để duy trì đời sống con người”[8, Tr
39 - 40]. Theo C.Mác, khởi điểm của hành vi trong lịch sử là văn hóa. Văn
hóa là hành vi quan trọng trong quá trình sản xuất vật chất, là cái để con
người phân biệt với con vật. “Con vật chỉ xây dựng theo kích thước và nhu
cầu của loài của nó, còn con người thì có thể sản xuất theo kích thước của bất
cứ loài nào và ở đâu cũng biết vận dụng bản chất cố hữu của mình vào đối
tượng; do đó con người cũng xây dựng theo quy luật của cái đẹp”[9, Tr 137].

Bàn đến văn hoá và sự phát triển của văn hoá, chủ nghĩa Mác còn thừa
nhận, với tư cách là một hệ giá trị, văn hoá bị chi phối bởi những điều kiện lịch
sử, bởi năng lực thực hiện “ lực lượng bản chất người”. Mỗi bước tiến của lịch
sử là một bước tiến tương ứng của văn hoá. Như vậy có thể nói việc con người
tạo ra “thiên nhiên thứ hai” theo quy luật của cái đẹp là cái thuộc tính bản
chất, quy định cái văn hoá trong hoạt động của con người. Nếu tự nhiên là cái
nôi đầu tiên của sự hình thành và phát triển con người thì văn hoá là cái nôi
thứ hai. Nếu tự nhiên là cái quyết định sự tồn tại của con người với tư cách là

14


một thực thể sinh vật thì văn hoá là phương thức bộc lộ, phát huy những năng
lực bản chất người gắn liền với các hoạt động sống của con người. Con người
là thước đo của mỗi giá trị, còn văn hóa là thước đo nhân tính, sự sáng tạo và
thái độ của con người trước hiện thực. Quan niệm của Mác, Ănghen về văn
hóa đã được Lênin kế thừa và phát triển. Ông đề ra nguyên tắc quan trọng
trong quá trình xây dựng nền văn hoá mới: tính đảng, tính nhân dân, tính dân
tộc và tính nhân loại trong văn hoá; xác định sự nghiệp văn hoá là một bộ
phận trong guồng máy cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản. xác định tính kế thừa biện chứng của sự phát triển văn hóa, giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong văn hóa. Ở đây, Lênin
đã hiểu văn hóa theo nghĩa rộng, là những giá trị chung nhất, tồn tại và phát
triển qua nhiều chế độ xã hội, nhiều giá trị có ý nghĩa vĩnh hằng, văn hóa luôn
gắn liền với sự phát triển và toàn diện con người, hoàn thiện xã hội.
Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về văn hóa đã được chủ tịch Hồ
Chí Minh vận dụng và phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm, văn hóa
không chỉ bao gồm kết quả của sự sáng tạo mà còn là phương thức sử dụng
những thành quả đó: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,

khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày
về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[61, Tr 431]. Quan điểm đó của
Người đã khái quát được nội dung rộng nhất của phạm trù văn hoá, chỉ ra văn
hoá không chỉ bao hàm các hoạt động tinh thần của con người mà còn bao
hàm trong đó cả những hoạt động vật chất, những giá trị tinh thần và phương
thức sinh hoạt của con người. Người cũng chỉ ra nguồn gốc sâu xa của văn
hoá đó chính là nhu cầu sinh tồn của con người, với tư cách là chủ thể hoạt

15


động của đời sống xã hội. Nó biểu hiện sự thống nhất của yếu tố tự nhiên, yếu
tố xã hội trong con người, biểu hiện khả năng và sức sáng tạo của con người.
Trên cơ sở các quan niệm trên, dưới góc độ Triết học, có thể hiểu văn
hóa là toàn bộ những hoạt động sáng tạo và những giá trị vật chất, tinh thần
của người dân một nước, một dân tộc đạt được trong quá trình dựng nước và
giữ nước. Văn hóa đặc trưng cho dân tộc, nó bao gồm tất cả những gì làm cho
dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất
cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động. Và ngày nay,
trong bối cảnh mới, Đảng và Nhà nước luôn quán triệt vận dụng cách hiểu
đúng đắn về văn hóa với ý nghĩa “văn hoá là một lĩnh vực thực tiễn của đời
sống xã hội, nó cũng có quy luật vận động phát triển riêng, trong đó tính dân
tộc được coi là thuộc tính cơ bản của văn hoá, phản ánh mối quan hệ giữa dân
tộc và văn hoá trong điều kiện dân tộc đã hình thành”. Do đó, khái niệm văn
hóa bao hàm trong nó tính chất nhân văn. Văn hóa có ý nghĩa quan trọng
trong cải tạo xã hội, hòa nhập với tự nhiên, xây dựng cuộc sống hợp lý của
con người. Đồng thời văn hóa có một cơ chế vận hành được quy định từ sự

tồn tại của con người trong các vùng địa văn hóa với các hoạt động sáng tạo
lâu đời của họ để duy trì, phát triển và tạo nên truyền thống.
Ở đây chúng ta cần tránh nhầm lẫn giữa các khái niệm: văn hiến, văn
minh, văn hóa. Văn hiến: “văn” trong văn hiến là (cái đẹp) về tư liệu, điển
chương, chế độ… “hiền” là người hiền tài, là người thông thạo điển chương,
chế độ… Theo GS. Đào Duy Anh: “văn hiến là sách vở” và “nhân vật tốt
trong một đời”. Văn hiến: là truyền thống tinh thần lâu đời và tốt đẹp, là giá
trị tinh thần do những người có đức, có tài chuyển tải, là một xã hội đạt tới
một trình độ nhất định về mặt tinh thần. Văn hiến thể hiện tính dân tộc và tính
lịch sử. Văn minh : “văn” là vẻ đẹp, “minh” là sáng, văn minh có nghĩa chỉ tia
sáng của đạo đức, biểu hiện ở chính trị, pháp độ, văn học, nghệ thuật. Văn
minh được xem là một khái niệm đặc trưng cho trình độ của con người, mặt

16


kỹ thuật của hoạt động người trong việc chiếm lĩnh thế giới nói chung. Trong
khi đó, cái được coi là cốt lõi của văn hóa, là phẩm chất nhân đạo trong sự
phát triển, theo V.M.Roodin thì “văn hóa…là các giá trị vật chất và xã hội của
bất kỳ nhóm người nào (các thiết chế, tập quán, tâm thế, phản ứng trong ứng
xử), không phụ thuộc vào việc đó là người man rợ hay người văn minh”. Bởi
vậy, văn minh thường mang tính khách quan, phổ biến hơn, đặc trưng cho
một khu vực rộng lớn, một thời đại hoặc cả nhân loại (mang màu sắc phân
chia, phản ánh sự biến động trong hoạt động người), còn văn hóa là nói đến
tính chủ thể, tính độc đáo (mang màu sắc trung tính và phản ánh cái ổn định,
yên tĩnh tương đối trong hoạt động người). Văn minh là cơ sở của văn hóa, ở
chừng mực, văn hóa là bản chất của văn minh. Văn hóa hoàn toàn không phải
là thành tố thụ động của nền văn minh… Chúng tự phê phán lẫn nhau trong
thống nhất.
1.1.1.2 Khái niệm bản sắc văn hóa

Bản sắc văn hóa theo nghĩa ban đầu “bản của một sự vật” là cái gốc,
cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân của sự vật; còn “sắc của một sự vật” là
cái biểu hiện ra bên ngoài của sự vật đó. Theo Từ điển Tiếng Việ,t bản sắc là
“màu sắc, tính chất riêng tạo thành đặc điểm chính” [80, Tr 31].
Khái niệm bản sắc: bản sắc của một sự vật là những đặc điểm riêng biệt
chỉ có ở sự vật ấy. Theo cách hiểu mỗi sự vật có nhiều thuộc tính (tính chất,
đặc điểm, dấu hiệu, nét…) trong đó có những thuộc tính chung và những
thuộc tính riêng, những thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Nói đến bản sắc
của mỗi sự vật trước hết là nói đến thuộc tính riêng của sự vật ấy, song thuộc
tính riêng ấy gắn bó chặt chẽ với thuộc tính chung. Những tính cơ bản của
một sự vật chính là bản sắc của sự vật ấy, nhằm phân biệt giống và khác nhau
giữa sự vật ấy với sự vật khác.
“Bản sắc” là một từ Hán -Việt, “bản” nguyên nghĩa là cái gốc, “sắc”
nguyên nghĩa là màu sắc, sắc đẹp, “bản sắc” là màu gốc, sắc thái gốc, “bản

17


sắc văn hoá” là sắc thái gốc của một nền văn hóa. Tương đồng với cách dùng
identité (thẻ căn cước) của tiếng Pháp và nhiều ngôn ngữ châu Âu trong cấu
trúc identité culturelle - thẻ căn cước văn hoá để chỉ cái riêng độc đáo của mỗi
nền văn hoá, dấu ấn được ghi lại từ cội nguồn văn hoá dân tộc. Nói đến văn
hóa là nói đến khía cạnh bản sắc của nó. Bản sắc chính là văn hóa ở phương
diện đa dạng sắc thái biểu đạt của cộng đồng khác nhau của cùng một bản thể
người thống nhất về mặt tộc loại, thường về mặt tinh thần. Bản sắc của một
cộng đồng chính là sự khẳng định tính chủ thể của cá nhân hay cộng đồng đó.
Như vậy, bản sắc chính là văn hóa, song không phải bất cứ yếu tố văn hóa nào
cũng được xếp vào bản sắc. Người ta chỉ coi những yếu tố văn hóa nào giúp
phân biệt một cộng đồng văn hóa này với một công đồng văn hóa khác là bản
sắc. Theo tác giả Phạm Thái Việt, khái niệm bản sắc có hai quan hệ cơ bản:

thứ nhất, nó là dấu hiệu để phân biệt các cộng động với nhau (quan hệ bên
ngoài) và thứ hai, nó chỉ tính đồng nhất mà mỗi cá thể trong một cộng đồng
văn hóa phải có (quan hệ bên trong).
Nội hàm khái niệm bản sắc bao hàm một số biểu hiện cơ bản sau:
- Bản sắc luôn gắn với quá trình hình thành, vận động và phát triển
của đối tượng.
- Bản sắc được thể hiện thông qua sự đồng nhất, lặp lại ở hàng loạt
đối tượng, sự vật, hiện tượng cùng hệ thống.
- Bản sắc bao chứa trong nó những nét riêng biệt làm nên cái đặc
trưng của bản thân hệ thống.
- Bản sắc là một thuộc tính, dấu hiệu có xu hướng đồng nhất hóa, do
vậy mà muốn tìm hiểu, tiếp cận bản sắc thì phải khái quát hóa.
- Bản sắc được hiểu thiên về nét đặc trưng tốt, tích cực của đối
tượng.
Bản sắc văn hóa cả một cộng đồng sẽ thay đổi khi phương thức cả cộng
đồng đó thay đổi căn bản. Bản sắc văn hóa không phải là khép kín theo kiểu

18


bảo tồn nguyên dạng cái ban đầu. Sẽ có những cái được xem là bản sắc ở giai
đoạn trước nhưng đến giai đoạn sau đã không còn vị trí trong chỉnh thể văn
hóa, và ngược lại. Bản sắc văn hóa chính là diện mạo văn hóa mang tính ổn
định nhất định, đồng thời chính là căn tính của cộng đồng.
Khi nói tới bản sắc văn hóa, đồng nghĩa với nói tới bản sắc riêng của
dân tộc ấy, hay nói cách khác, đó là cái cốt lõi của văn hóa dân tộc. Bản sắc
văn hóa có hai mặt giá trị: giá trị tinh thần bên trong và biểu hiện bên ngoài có
mối quan hệ biện chứng, thúc đẩy tích cực sự phát triển của nhau. Nguồn gốc
tạo thành bản sắc văn hóa có nhiều yếu tố như: hoàn cảnh địa lý, nguồn gốc
chủng tộc, phương thức hoạt động kinh tế… của chính dân tộc đó. Vì vậy cần

hiểu bản sắc văn hóa là một khái niệm mở. Bản sắc văn hóa là các giá trị tiêu
biểu, bền vững, phản ánh sức sống của từng dân tộc, nó thể hiện cái hồn dân
tộc, biểu hiện rõ nét truyền thống. Bản sắc văn hóa là tổng hòa những khuynh
hướng cơ bản trong sáng tạo văn hóa của một dân tộc, vốn được hình thành
trong mối liên hệ thường xuyên với điều kiện kinh tế, môi trường tự nhiên,
các thể chế, các hệ tư tưởng… trong quá trình vận động không ngừng của dân
tộc đó. [23, Tr 37]. Bản sắc văn hoá không phải là cái ngưng đọng, bất biến
mà luôn phát triển một cách biện chứng theo xu hướng tích lũy, thu nạp
những điều tốt đẹp, tiến bộ, sa thải cái xấu, cái lạc hậu không phù hợp với
thời đại. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, văn hoá Việt Nam đã vượt qua thế
bị động để tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm giàu thêm bản sắc của
mình.
- Phân biệt giữa khái niệm “bản sắc văn hóa” và “giá trị văn hóa
truyền thống”:
“Bản sắc văn hóa” là khái niệm đã đề cập ở trên, ngoài ra, cần phải
hiểu “giá trị văn hóa truyền thống” là những truyền thống có giá trị vững bền,
những truyền thống tốt đẹp, tích cực tiêu biểu cho bản sắc văn hóa dân tộc, có
tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của dân tộc đó trong suốt chiều dài

19


lịch sử. Hoặc cũng có thể nói, giá trị văn hóa truyền thống là những giá trị nội
sinh, thể hiện sự cao đẹp và vững bền tiêu biểu cho bản sắc văn hóa dân tộc,
có tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của dân tộc đó trong suốt chiều dài
lịch sử và được giữ gìn, kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác. Như vậy, có
thể nói, giá trị văn hóa truyền thống dân tộc là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa
được chắt lọc, cô đúc nên từ tất cả di sản truyền thống trong suốt quá trình
hình thành, tồn tại và phát triển của dân tộc. Toàn bộ giá trị truyền thống dân
tộc là cái thể hiện cô đọng nhất, độc đáo nhất, rõ nét nhất bản sắc dân tộc.

Chính vì vậy, không thể đồng nhất cũng không thể tách rời giá trị văn hóa
truyền thống với văn hóa dân tộc mà giá trị văn hóa truyền thống là một bộ
phận của văn hóa, hơn thế là bộ phận cốt lõi nhất làm nên sức mạnh nội sinh
của một nền văn hóa. Trong khi bản sắc là cái trừu tượng, bền vững thì các
hình thái biểu hiện của nó tương đối cụ thể. Những nét đặc trưng của một nền
văn hóa được biểu lộ thông qua các giá trị văn hóa truyền thống, đó là hệ
thống những giá trị được đánh giá bởi cộng đồng. Để những giá trị văn hóa
truyền thống trở thành bản sắc thì bên cạnh tính đặc thù, nó còn phải có giá
trị. Tuy rằng không phải mọi giá trị đều là bản sắc, mà giá trị văn hóa truyền
thống là một trong những yếu tố cấu thành bản sắc văn hóa, nhưng nhiều khi
chúng cũng mang nghĩa tương đương nhau bởi cùng có điểm chung xác định.
Hiểu là bản sắc khi coi nó như là căn cước, đặc thù của mỗi cộng đồng, dùng
để phân biệt cộng đồng, dân tộc này với cộng đồng, dân tộc khác. Hiểu là giá
trị khi muốn nhấn mạnh tới tính ích dụng của văn hóa trước nhu cầu của xã
hội. Như vậy, giá trị văn hóa truyền thống là cái mang trong nó bản sắc, còn
bản sắc làm nên cốt lõi, đặc thù của giá trị văn hóa truyền thống. Bởi vậy,
muốn tìm hiểu bản sắc văn hóa không thể không tìm hiểu giá trị văn hóa
truyền thống. Hiện nay, nhất là trong thời kỳ xung đột văn hóa trong mối
quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, ở mức độ nào đó, trong đời sống hiện
thực và trong lý luận, người ta càng cần có nhận thức tránh lẫn lộn giữa cái
truyền thống và cái bản sắc, cũng như giữa cái hiện đại và cái ngoại lai.

20


×