Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Hoàn thiện pháp luật việt nam về phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao từ kinh nghiệm của singapore

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.58 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ VÂN ANH

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CÓ TRÌNH ĐỘ CAO
TỪ KINH NGHIỆM CỦA SINGAPORE

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Hà Nội – 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ VÂN ANH

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CÓ TRÌNH ĐỘ CAO
TỪ KINH NGHIỆM CỦA SINGAPORE
Chuyên ngành : Luật Kinh Tế
Mã số

: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Đức Mạnh



Hà Nội – 2014

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lê Thị Vân Anh


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục ký hiệu viết tắt
PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................1
Chương 1- CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC VÀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC CÓ TRÌNH ĐỘ CAO...................................................7
1.1. Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực...........................................7
1.1.1. Khái niệm về nguồn nhân lực.................................................................7
1.1.2. Khái niệm về phát triển nguồn nhân lực.................................................9
1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực....................................13
1.2. Nguồn nhân lực có trình độ cao...............................................................16

1.2.1. Quan niệm chung về nguồn nhân lực có trình độ cao...........................16
1.2.2. Phân loại nguồn nhân lực có trình độ cao.............................................21
1.2.3. Vai trò của việc phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao ở Việt Nam
hiện nay...........................................................................................................23
Chương 2 - THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CÓ
TRÌNH ĐỘ CAO Ở VIỆT NAM VÀ SINGAPORE HIỆN NAY..................34
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguồn nhân lực có trình độ cao..............34
2.1.1. Hệ thống văn bản pháp luật về nguồn nhân lực có trình độ cao của
Việt Nam.........................................................................................................34
2.1.2. Hạn chế và nguyên nhân tồn tại của hệ thống pháp luật về nguồn nhân
lực có trình độ cao ở Việt Nam.......................................................................47


2.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của Singapore..............................56
2.2.2. Hệ thống văn bản pháp luật về nguồn nhân lực có trình độ cao của
Singapore.........................................................................................................58
2.2.3. Thực trạng về nguồn nhân lực có trình độ cao ở Singapore hiện nay...62
Tiểu kết chương 2............................................................................................65
Chương 3 - PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CÓ TRÌNH ĐỘ CAO
THEO KINH NGHIỆM CỦA SINGAPORE..................................................66
3.1. Kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao ở Singapore
hiện nay...........................................................................................................66
3.1.1. Kinh nghiệm về xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực.........66
3.1.2. Kinh nghiệm về giáo dục – đào tạo.......................................................68
3.1.3. Kinh nghiệm về đào tạo chuyên môn, chuyển giao kiến thức nghề
nghiệp, kỹ năng làm việc cho người lao động theo nhu cầu phát triển của các
ngành kinh tế...................................................................................................69
3.1.4. Kinh nghiệm về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức........................71
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về phát triển nguồn nhân

lực có trình độ cao theo kinh nghiệm của Singapore......................................75
3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về phát triển nguồn nhân lực có
trình độ cao theo kinh nghiệm của Singapore.................................................81
KẾT LUẬN.....................................................................................................89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................90


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NNL
Bộ luật Dân sự

: Nguồn nhân lực
: Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 của Quốc hội nước

Luật giáo dục

CHXHCN Việt Nam ban hành ngày 14/06/2005.
: Luật giáo dục số 38/2005/QH11 của Quốc hội nước

Luật sở hữu trí tuệ

CHXHCN Việt Nam.
: Luật sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 của của Quốc
hội nước CHXHCN Việt Nam, đã được sửa đổi, bổ

Luật công nghệ cao

sung năm 2009.
: Luật công nghệ cao số 21/2008/QH12 của Quốc hội


nước CHXHCN Việt Nam.
Luật cán bộ, công chức : Luật cán bộ, công chức số 22/2008/QH12 của của
Luật giáo dục đại học

Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam.
: Luật giáo dục đại học số 08/2012/QH13 của Quốc

hội nước CHXHCN Việt Nam.
Luật khoa học và công : Luật khoa học và công nghệ số 29/2013/QH13 của
nghệ
Nghị định số 141

Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam.
: Nghị định số 141/2013/NĐ-CP ngày 24/10/2013 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành

Nghị định số 40

một số điều của Luật giáo dục đại học.
: Nghị định số 40/2014/NĐ-CP ngày 12/05/2014 của
Chính phủ quy định việc sử dụng, trọng dụng cá

Nghị định số 87

nhân hoạt động khoa học và công nghệ.
: Nghị định số 87/2014/NĐ-CP ngày 22/09/2014 của
Chính phủ quy định về thu hút cá nhân hoạt động
khoa học và công nghệ là người Việt Nam ở nước
ngoài và chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động
khoa học và công nghệ tại Việt Nam, có hiệu lực thi


Quyết định số 45

hành kể từ ngày 10/11/2014.
: Quyết định số 45/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng


Chính phủ về chế độ phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp đối
với người làm việc trong các đơn vị thuộc lĩnh vực
năng lượng nguyên tử của Bộ Khoa học và Công
nghệ ban hành ngày 15/08/2014, có hiệu lực thi hành
kể từ ngày 01/10/2014.


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Từ xưa đến nay, ở Việt Nam và trên thế giới, sự tồn vong, suy thịnh của
quốc gia, đều phụ thuộc rất lớn vào nguồn nhân lực (NNL) của quốc gia.
Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ hiện
đại, kinh tế trí thức và toàn cầu hoá, các nước ngày càng chú ý nhiều hơn đến
phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao. Nguồn nhân lực đã trở thành lợi thế
cạnh tranh của nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới. Phát huy vai trò của pháp
luật để phát triển, nâng cao trình độ nguồn nhân lực ngày càng được các nước
chú trọng nhằm phát huy nội lực đất nước trước sự cạnh tranh quyết liệt và
gay gắt giữa các quốc gia dân tộc trên thế giới trong không gian toàn cầu hóa
hiện nay.
Gần ba mươi năm thực hiện công cuộc Đổi mới đất nước do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo, cách mạng Việt Nam đã thu được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước, vững bước đi lên trên con đường xã hội chủ nghĩa. Những
thành tựu đó tạo điều kiện căn bản và đòi hỏi phải phát triển nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực có trình độ cao (hay còn được gọi là nguồn nhân lực
có chất lượng cao) để đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, nguồn nhân lực có trình độ cao
nước ta có sự phát triển nhanh, đóng góp quan trọng vào những thành tựu to
lớn có ý nghĩa lịch sử của đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Pháp luật đã góp phần đặc biệt quan trọng quyết định trực tiếp đến sự
phát triển nguồn nhân lực ấy của đất nước. Đại hội XI của Đảng đã xác định
đột phá chiến lược: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là ngồn nhân lực

1


chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục
quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng
dụng khoa học, công nghệ” [19, tr.106].
Phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao tùy thuộc vào nhiều yếu tố,
trong đó vai trò của hệ thống pháp luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trên thế
giới hiện nay, so với Việt Nam, mặc dù là một đất nước nhỏ bé, hầu như không
có tài nguyên thiên nhiên nhưng Singapore lại là quốc gia phát triển trong số
những nước hàng đầu thế giới về thu nhập tính theo đầu người và năng lực
cạnh tranh quốc gia; nguồn nhân lực của Singapore được đánh giá là có trình
độ và chất lượng cao so với các nước khác trong khu vực. Do đó, những kinh
nghiệm quý báu của Singapore trong vấn đề phát triển nguồn nhân lực là rất
hữu ích để Việt Nam có thể tham khảo và học hỏi. Vấn đề cấp bách đặt ra đối
với Việt Nam là muốn phát triển đất nước thì phải có một nguồn nhân lực có
chất lượng và trình độ cao, đáp ứng được các yêu cầu phát triển của quốc gia.
Mà muốn có được nguồn nhân lực trình độ cao như vậy thì phải xây dựng một
hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất các văn bản pháp luật cụ thể quy định

các vấn đề liên quan đến nguồn nhân lực có trình độ cao để hướng tới mục đích
có được nguồn nhân lực có trình độ cao đủ sức đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới,
góp phần thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản là một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, xây dựng thành công xã hội dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh như Đảng ta xác định.
Những vấn đề đó đã đặt ra một cách rất cấp bách đối với nước ta hiện
nay cả về lý luận và thực tiễn, đòi hỏi phải được nghiên cứu thấu đáo. Với ý
nghĩa đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về phát
triển nguồn nhân lực có trình độ cao từ kinh nghiệm của Singapore” cho
luận văn thạc sĩ của mình.

2


2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam cho đến nay, trong thực tiễn phát triển kinh tế của đất
nước, thuật ngữ NNL có trình độ cao (hay còn gọi là NNL chất lượng cao)
được dùng khá phổ biến mặc dù thuật ngữ này chưa thấy xuất hiện trong từ
điển Bách Khoa Việt Nam cũng như các từ điển tiếng Việt hay từ điển kinh tế
khác. Đã có một số đề tài khoa học, luận án, luận văn … nghiên cứu các vấn
đề liên quan đến nội dung này, cụ thể như:
Tác giả Lê Thị Hồng Điệp (2005), Luận án tiến sĩ kinh tế chính trị,
“Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để hình thành nền kinh tế tri thức
ở Việt Nam”.
Viện Chiến lược phát triển của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006) đã chủ
trì triển khai nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ với chủ đề “Nguồn nhân lực
chất lượng cao: Hiện trạng phát triển, sử dụng và các giải pháp tăng
cường”.
PGS.TS. Phạm Hồng Tung (chủ biên) (2008), Sách chuyên khảo,

“Lược khảo về kinh nghiệm phát hiện, đào tạo và sử dụng nhân tài trong lịch
sử Việt Nam”.
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Chủ nghĩa
xã hội khoa học (2010), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học
cấp cơ sở năm 2010, “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu
cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức”.
TS. Nguyễn Hữu Dũng (2002), Tạp chí Lý luận chính trị số 8 T8/2002,
“Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế”.
PGS.TS. Đàm Đức Vượng (2008), “Báo cáo khoa học tại Hội thảo
quốc tế Việt Nam học lần thứ ba với chủ đề: Việt nam, Hội nhập và phát triển,
Thực trạng và giải pháp về phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam”,
T12/2008.

3


Tác giả Nguyễn Tiến Dũng, Đỗ Văn Dạo, Tạp chí Lao động và xã hội,
số 329 tháng 2/2008, “Vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
nước ta hiện nay”.
GS.TS. Hoàng Văn Châu (2009), Tạp chí Kinh tế đối ngoại số 38/2009,
“Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho hội nhập kinh tế - vấn đề cấp
bách sau khủng hoảng”.
GS.TS. Nguyễn Văn Khánh, TS Hoàng Thu Hương (2010), Tạp chí
nghiên cứu con người số 1/2010, “Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở
Việt Nam hiện nay: Thực trạng và triển vọng”.
Thượng tướng, VS.TS. Nguyễn Huy Hiệu (2011), Tạp chí Tổ chức Nhà
nước số 6/2011, “Giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao đáp
ứng yêu cầu và nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN theo
tinh thần nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI”.

Hầu hết các công trình nghiên cứu trên đều đi sâu phân tích các giải
pháp, chiến lược một cách khái quát, tổng thể về phát triển nguồn nhân lực có
trình độ cao như các giải pháp về giáo dục - đào tạo, các vấn đề cần đặt ra đối
với nguồn nhân lực có trình độ cao trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, hay là đối với nền kinh tế tri thức... tuy nhiên chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách toàn diện, cụ thể về việc việc hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi, phương pháp nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích một số khái niệm chung về nguồn nhân lực và
phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao, luận văn đi sâu phân tích, đánh giá
thực trạng pháp luật Việt Nam và Singapore về phát triển nguồn nhân lực có
trình độ cao, từ đó đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao trên cơ sở tiếp thu có
chọn lọc kinh nghiệm của Singapore.
* Nhiệm vụ nghiên cứu

4


Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn tập trung vào những nhiệm
vụ cụ thể sau:
Một là, phân tích tổng quát các vấn đề lý luận về pháp luật nguồn nhân
lực và phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao.
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về nguồn nhân lực có
trình độ cao ở Việt Nam hiện nay, từ đó rút ra được các hạn chế và nguyên nhân
tồn tại của hệ thống pháp luật về nguồn nhân lực có trình độ cao ở Việt Nam.
Ba là, phân tích, đánh giá kinh nghiệm Singapore, nhất là kinh nghiệm
pháp luật về phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao.
Bốn là, đề xuất các ý kiến về phương hướng và giải pháp nhằm hoàn

thiện pháp luật Việt Nam về phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao.
* Phạm vi nghiên cứu
Với khuôn khổ của Luận văn, luận văn sẽ tập trung đi sâu phân tích các
vấn đề lý luận về pháp luật phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao, thực
trạng pháp luật Việt Nam về phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao và kinh
nghiệm phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao của Singapore.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm
của Đảng cộng sản Việt Nam. Luận văn cũng sử dụng những phương pháp
nghiên cứu luật học truyền thống như phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử,
tư duy logic, phương pháp quy nạp, diễn giải … nhằm làm sáng tỏ nội dung
và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
4. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận pháp luật về
nguồn nhân lực có trình độ cao, phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao và
tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao ở Việt Nam
hiện nay.

5


Luận văn phân tích, đánh giá được thực trạng pháp luật Việt Nam về
phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao và kinh nghiệm phát triển nguồn
nhân lực có trình độ cao của Singapore.
Luận văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp mang tính lý luận
và thực tiễn theo kinh nghiệm của Singapore nhằm hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam về phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao.
5. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân
lực có trình độ cao.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về nguồn nhân lực có trình độ cao ở
Việt Nam và Singapore hiện nay.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao theo kinh nghiệm của Singapore.

6


Chương 1 - CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC VÀ PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CÓ TRÌNH ĐỘ CAO
1.1. Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
1.1.1. Khái niệm về nguồn nhân lực
Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát
triển kinh tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con
người … Trong các nguồn lực đó thì nguồn lực con người được nhìn nhận là
quan trọng nhất, có tính chất quyết định trong sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay. Một nước cho dù có tài nguyên
thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng không có những con
người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó thì khó có khả
năng có thể đạt được sự phát triển như mong muốn.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và ngày nay trong
công cuộc hội nhập và phát triển nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng ta luôn xác định nước ta có nguồn
lao động dồi dào, con người Việt Nam có truyền thông yêu nước, cần cù, sáng
tạo, có nền tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và
công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất - nguồn năng lực nội sinh. Vậy nguồn

nhân lực là gì? Hiện nay, trong quá trình nghiên cứu trên thế giới và trong
nước, có nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập đến khái niệm NNL dưới các
góc độ khác nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt: Nguồn là nơi phát sinh, nơi cung cấp. Nhân
lực là sức của con người bao gồm: sức lực cơ bắp (thể lực), trình độ tri thức
được vận dụng vào quá trình lao đọng của mỗi cá nhân (trí lực), những ham
muốn, hoài bão của bản thân người lao động hướng tới một mục đích xác
định (tâm lực). Nhân lực với ý nghĩa đầy đủ của nó bao gồm ba yếu tố: Thể

7


lực, trí lực và tâm lực. Ba yếu tố đó có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó
trí lực giữ vai trò quyết định, nhưng thể lực và tâm lực cũng đóng vai trò quan
trọng như điều kiện cần thiết không thể thiếu đối với sự phát triển của NNL.
Nguồn nhân lực được hiểu là nơi phát sinh, nguồn cung cấp sức của con
người trên đầy đủ các phương diện cho lao động sản xuất và quản lý.
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc: “Nguồn nhân lực là trình độ lành
nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế
hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng” [27, tr.3].
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì: Nguồn nhân lực của một
quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động.
Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực
là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con
người cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có
thể phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao
động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các
nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản
xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động,
là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình

lao động [21, tr.46].
Kinh tế phát triển cho rằng: Nguồn nhân lực là một bộ phận dân số
trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được
biểu hiện trên hai mặt: Về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi
lao động làm việc theo quy định của Nhà nước và thời gian lao động có thể
huy động được từ họ; về chất lượng, đó là sức khoẻ và trình độ chuyên môn,
kiến thức và trình độ lành nghề của người lao động. Nguồn lao động là tổng
số những người trong độ tuổi lao động quy định đang tham gia lao động hoặc
đang tích cực tìm kiếm việc làm. Nguồn lao động cũng được hiểu trên hai

8


mặt: số lượng và chất lượng. Như vậy theo khái niệm này, có một số được
tính là nguồn nhân lực nhưng lại không phải là nguồn lao động, đó là: Những
người không có việc làm nhưng không tích cực tìm kiếm việc làm, tức là
những người không có nhu cầu tìm việc làm, những người trong độ tuổi lao
động quy định nhưng đang đi học…
Theo Giáo sư – Viện sĩ Phạm Minh Hạc cùng các nhà khoa học tham
gia Chương trình KX – 07:
Nguồn nhân lực cần được hiểu là số dân và chất lượng con
người,bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng
lực, phẩm chất và đạo đức của người lao động. Nó là tổng thể
nguồn nhân lực hiện có thực tế và tiềm năng được chuẩn bị sẵn
sàng để tham gia phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia hay
một địa phương nào đó… [25, tr.323].
Có thể thấy rằng, xem xét dưới các góc độ khác nhau nên đã có nhiều
quan điểm khác nhau về NNL. Tuy nhiên, những quan điểm này đều thống
nhất một nội dung cơ bản: NNL là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội.
Các khái niệm trên đều cho thấy NNL không chỉ đơn thuần là lực lượng lao

động đã có và sẽ có, mà còn bao gồm sức mạnh của thể chất, trí tuệ, tinh thần
của các cá nhân trong một cộng đồng, một quốc gia được đem ra hoặc có khả
năng đem ra sử dụng và quá trình phát triển xã hội.
Từ những quan niệm trên có thể hiểu rằng Nguồn nhân lực là tổng thể
số lượng và chất lượng con người với các tiêu chí về thể lực, trí lực và tâm
lực tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang và sẽ huy
động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.
1.1.2. Khái niệm về phát triển nguồn nhân lực
Sự phát triển nói chung được coi là quá trình vận động theo khuynh
hướng đi lên từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện

9


hơn. Đó là sự biến đổi cả về số lượng và chất lượng của sự vật theo hướng ngày
càng hoàn thiện ở trình độ cao hơn. Quan điểm mácxit về sự phát triển, vận dụng
vào nghiên cứu con người đã nhấn mạnh yếu tố phát triển con người, lấy con
người làm trung tâm. Lịch sử phát triển của nhân loại suy cho cùng là lịch sử
phát triển con người. Phát triển con người vừa là mục tiêu của phát triển kinh tế xã hội, vừa là phương tiện tốt nhất để thúc đẩy sự phát triển.
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một “tài nguyên đặc
biệt”, một nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con
người, phát triển NNL trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống
phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố bảo đảm
chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư cho
con người là đầu tư có tinh chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát
triển bền vững. Phát triển con người hay phát triển NNL ở đây chính là sự gia
tăng các giá trị về thể chất, trí tuệ, năng lực của từng cá nhân trong điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng chính là quá trình mở rộng cơ hội lựa
chọn nhằm nâng cao năng lực, trí tuệ và cuộc sống của con người, phù hợp
với nhu cầu lợi ích mà họ mong muốn.

Ngày nay, người ta nói nhiều đến sự phát triển con người bền vững và
có làm được như vậy thì con người mới trở thành động lực phát triển, mục
tiêu của phát triển. Tuy nhiên, không dễ gì để thu hút sự chú ý của xã hội, của
những nhà quản lý xã hội vào vấn đề phát triển con người bền vững, nhất là ở
những quốc gia mà người dân đã phải sống trong giới hạn của mức tiêu dùng
tối thiểu đã từ lâu, từ đó họ đang quan tâm nhiều đến quyền được nhận mức
sống cao hơn trong tương lai. Nói cách khác, phát triển con người bền vững
cần được hiểu là sự tiến bộ, thông qua việc cải thiện chất lượng cuộc sống của
con người. Để có được chất lượng cuộc sống cao hơn, chúng ta cần có tri thức
tốt hơn, có những thành tựu khoa học và công nghệ cao, khoa học xã hội và
nhân văn phát triển, sự thoải mái và hạnh phúc.

10


Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc
(UNESCO): Phát triển NNL được đặc trưng bởi toàn bộ sự lành nghề của dân
cư, trong mối quan hệ phát triển của đất nước. Quan niệm của Tổ chức Lao
động quốc tế (ILO): Phát triển NNL, bao hàm một phạm vi rộng lớn hơn chứ
không chỉ có sự chiếm lĩnh ngành nghề, hoặc ngay cả việc đào tạo nói chung.
Quan niệm này dựa trên cơ sở nhận thức rằng, con người có nhu cầu sử dụng
năng lực của mình để tiến tới có được việc làm hiệu quả, cũng như thỏa mãn
về nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân. Sự lành nghề được hoàn thiện nhờ bổ
sung nâng cao kiến thức trong quá trình sống, làm việc nhằm đáp ứng kỳ
vọng của con người [17, tr.11-14].
Liên Hợp Quốc cho rằng, phát triển NNL bao gồm: Giáo dục – đào tạo
và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy nền kinh tế kinh tế - xã hội và
nâng cao chất lượng cuộc sống. Quan niệm này đã nhấn mạnh khía cạnh xã
hội của vấn đề: NNL vừa là một yếu tố của sản xuất, của tăng trưởng kinh tế
và là mục tiêu của phát triển. Chú trọng đáp ứng nhu cầu của NNL về văn hóa

và tinh thần, mở rộng tầm hiểu biết, cập nhật thông tin, mở rộng các mối liên
hệ xã hội, tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của NNL. Chất lượng
cuộc sống được cải thiện là khi con người thoải mái và hạnh phúc hơn, họ sẽ
làm việc hăng say và tạo ra năng suất lao động cao hơn, góp phần làm cho xã
hội phát triển hiệu quả và bền vững.
Có quan điểm cho rằng: Phát triển nguồn nhân lực là gia tăng giá trị
cho con người, cả giá trị vật chất và tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như
kỹ năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những
năng lực và phẩm chất mới, cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu to lớn và
ngày càng tăng của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Một số tác giả khác lại quan niệm: Phát triển là quá trình nâng cao năng
lực của con người về mọi mặt: Thể lực, trí lực, tâm lực, đồng thời phân bổ, sử

11


dụng, khai thác và phát huy hiệu quả nhất nguồn nhân lực thông qua hệ thống
phân công lao động và giải quyết việc làm để phát triển kinh tế- xã hội.
Phát triển NNL được coi “là quá trình biến đổi về số lượng, chất lượng
và cơ cấu NNL để ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội” [16, tr.20]. Quá trình này bao gồm sự phát triển về thể lực, trí lực, khả
năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề, tính năng động xã hội và sức
sáng tạo của con người. Trong đó, nền văn hóa, truyền thống lịch sử dân tộc
góp phần quan trọng trong việc hun đúc nên bản lĩnh, ý chí của mỗi người.
Như vậy, phát triển NNL là quá trình nhằm hoàn thiện và nâng cao chất
lượng từng con người lao động (trí tuệ, thể chất và phẩm chất tâm lý- xã hội)
đáp ứng đòi hỏi về NNL cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Các phương diện thể hiện phát triển NNL bao gồm: Phát triển về số
lượng và chất lượng.
Về số lượng được thể hiện ở quy mô dân số, cơ cấu về giới và độ tuổi.

Về chất lượng là sự phát triển thể hiện ở cả ba phương diện: thể lực, trí
lực và nhân cách. Phát triển thể lực là sự gia tăng chiều cao, trọng lượng cơ
thể, tuổi thọ, sức mạnh, sự dẻo dai cơ bắp và thần kinh. Phát triển trí lực là
phát triển năng lực trí tuệ của con người để nhằm đáp ứng yêu cầu của công
việc đặt ra. Phát triển nhân cách là phát triển những phẩm chất chính trị, đạo
đức, tác phong, lối sống lành mạnh, tính tích cực hoạt động, tinh thần trách
nhiệm công dân. Ba phương diện trên có mối quan hệ mật thiết với nhau
không thể tách rồi trong quá trình phát triển NNL.
Căn cứ vào khả năng và mức độ tham gia hoạt động kinh tế thì nguồn
nhân lực bao gồm:
- Nguồn nhân lực tham gia hoạt động kinh tế: Là lực lượng lao động
bao gồm những người từ đủ tuổi theo quy định của luật trở lên đang
làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân và những người đang
trong tình trạng không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc và
sẵn sàng làm việc.

12


- Nguồn nhân lực dự trữ: là bộ phận còn lại trong nguồn nhân lực.
Đây là những bộ phận nhằm có thể bổ sung vào NNL tham gia hoạt
động kinh tế trong thời gian tương lai.
1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực
 Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến quy mô nguồn nhân lực
- Dân số:
Dân số của một quốc gia có mối liên hệ rất chặt chẽ với quy mô NNL,
là gốc sản sinh ra nguồn lao động. Quy mô của dân sự phụ thuộc vào tỷ suất
tăng tự nhiên của dân số và do vậy quy mô NNL cũng phụ thuộc vào tỷ suất
tăng dân số tự nhiên.
Sự vận động của dân số, tái sản xuất dân số là cơ sở tự nhiên của sự

hình thành NNL và quan hệ giữa tốc độ tăng dân số và tốc độ tăng nguồn lao
động là quan hệ thuận. Mối quan hệ đó được biểu hiện sau một thời gian nhất
định, tùy thuộc vào quy định độ tuổi lao động của mỗi quốc gia. Tăng, giảm
dân số cơ học là kết quả của sự di chuyển, xuất nhập cư của dân số từ một
vùng, địa phương đến một vùng, địa phương khác, hoặc từ khu vực này đến
khu vực khác làm giảm dân số đầu đi và tăng dân số nơi tiếp nhận. Quá trình
di chuyển, nhập cư dân số bao gồm cả nhập cư lao động, đo đó dẫn đến giảm
quy mô NNL đầu đi và tăng quy mô NNL của đầu đến.
- Mức độ phát triển của giáo dục, đào tạo:
Giáo dục, đào tạo tác động đến số năm đi học của người lao động. Khi
hệ thống giáo dục, đào tạo phát triển ở mức độ cao thì tỷ lệ dân cư tham gia
vào học tập tăng lên, số năm đi học của mỗi người tăng lên. Đồng thời, các
chính sách của Chính phủ hướng vào kích thích xã hội, hỗ trợ phát triển hệ
thống giáo dục, đào tạo thì sẽ có nhiều người đi học hơn, NNL tương lai sẽ có
chất lượng cao hơn, song trước mắt tốc độ phát triển quy mô NNL sẽ chậm lại
vì số lượng người đi học đông. Giáo dục nâng cao trình độ học vấn, chuyên
môn, kỹ thuật và cũng sẽ làm thay đổi nhận thức về sinh đẻ, về số con người

13


và thời điểm sinh con của các cặp vợ chồng, cuối cùng sẽ tác động đến quy
mô NNL tương lai của quốc gia.
- Môi trường xã hội:
Các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến quy mô NNL bao gồm: An ninh, trật
tự an toàn xã hội; bình đẳng xã hội; an toàn giao thông; an toàn vệ sinh thực
phẩm; môi trường sống… Đây là những yếu tố tác động đến tình trạng tham
gia lao động của NNL, là một trong những nguồn gốc quan trọng để đảm bảo
NNL có sự phát triển ổn định và bền vững, đáp ứng nhu cầu sức lao động của
nền kinh tế.

- Hợp tác quốc tế về lao động:
Quá trình hợp tác quốc tế về lao động của các quốc gia tác động đến
quy mô NNL thong qua các hình thức thông qua các hình thức:
- Di cư ra nước ngoài.
- Xuất khẩu lao động.
- Nhập khẩu lao động.
 Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực của mỗi quốc gia chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
khác nhau, có những yếu tố thuộc về truyền thống, có những yếu tố phụ thuộc
vào sự vận động của xã hội nhưng chủ yếu là do quá trình giáo dục đào tạo,
việc làm, thu nhập, năng suất lao động, quan hệ xã hội mà hình thành nên. Cụ
thể là những yếu tố sau:
- Sự phát triển kinh tế - xã hội:
Mức độ phát triển kinh tế - xã hội tác động trực tiếp đến chất lượng
NNL ở các khía cạnh sau:
+ Trình độ của nền kinh tế tác động đến chất lượng NNL bởi vì đó là cơ
sở để xác định tiền lương, tiền công, phúc lợi xã hội, cải thiện mức sống
và nâng cao dân trí của các tầng lớp dân cư cũng như người lao động.
+ Tăng trưởng đầu tư.
+ Tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
+ Tác động của phát triển ngành công nghệ thông tin.
+ Tác động của tăng trưởng kinh tế đối với khả năng nâng cao đầu tư
của Chính phủ cho giáo dục, đào tạo nâng cao chất lượng NNL.

14


+ Tác động của các yếu tố văn hóa – xã hội.
- Tình trạng dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe:
Dinh dưỡng cần thiết cho con người, gồm nhiều yếu tố như lương thực,

thực phẩm và các chất dinh dưỡng khác mà cơ thể cần hấp thụ để duy trì sức
khỏe. Thiếu dinh dưỡng dẫn đến thể lực ốm yếu, khả năng miễn dịch kém… làm
cho năng suất lao động thấp và như thế thu nhập thấp, nguy cơ dẫn đến đói nghèo.
Sự phát triển, tính hiệu quả của hệ thống y tế và khả năng tiếp cận của dân
cư với hệ thống này có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của các thế hệ nguồn
lao động. Thông qua chăm sóc sức khỏe sinh sản, chăm sóc sức khỏe trẻ em, tư
vấn về dinh dưỡng… tạo ra khả năng đảm bảo cho thế hệ lao động tương lai có
thể lực, trí lực tốt. Cơ chế, chính sách y tế phù hợp sẽ tạo cơ hội cho các tầng lớp
dân cư, người lao động đều có khả năng tiếp cận với các dịch vụ y tế, kể cả các
dịch vụ tư vấn chăm sóc về dinh dưỡng và phòng bệnh thường xuyên và do đó
sẽ có tác động đến chất lượng NNL ở phạm vi rộng lớn.
- Trình độ phát triền giáo dục đào tạo:
Mức độ phát triển của giáo dục, đào tạo là một trong những yếu tố quan
trọng nhất ảnh hưởng đến chất lượng NNL, bởi nó không chỉ quyết định trình
độ văn hóa, chuyên môn – kỹ thuật của người lao động mà còn tác động đến
sức khỏe, tuổi thọ của người dân, thông qua các yếu tố thu nhập, nhận thức và
xử lý thông tin kinh tế - xã hội, thông tin khoa học… Các tác động chính của
phát triển giáo dục, đào tạo đối với chất lượng NNL bao gồm:
+ Mức độ phát triển của giáo dục và đào tạo càng cao thì quy mô NNL
chuyên môn – kỹ thuật càng mở rộng.
+ Mức độ phát triển của giáo dục và đào tạo càng cao thì càng có khả
năng nâng cao chất lượng theo chiều sâu của NNL.
+ Đầu tư cho giáo dục, đào tạo đúng hướng, hiệu quả sẽ đem lại những
lợi ích to lớn, lâu dài cho cá nhân và xã hội. Trong đó người lao động là
những đối tượng trực tiếp được thụ hưởng.
- Các chính sách của nhà nước:

15



Các chính sách của Chính phủ có vai trò quan trọng đối với nâng cao
chất lượng NNL của quốc gia. Chính phủ hoạch định các chính sách, tạo môi
trường pháp lý cho phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo cả chiều rộng và
chiều sâu. Ngoài các chính sách về kinh tế - xã hội hướng vào đảm bảo không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, bảo vệ sức khỏe của dân cư và
người lao động… thì còn có các chính sách tác động trực tiếp đến chất lượng
NNL như:
+ Chính sách xã hội hóa giáo dục;
+ Chính sách phát triển các cơ sở giáo dục, đào tạo chất lượng cao đạt
chuẩn khu vực và quốc tế;
+ Chính sách cải cách nội dung, phương pháp giáo dục, đào tạo;
+ Chính sách phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên;
+ Chính sách đào tạo gắn với nhu cầu của thị trường lao động…
1.2. Nguồn nhân lực có trình độ cao
1.2.1. Quan niệm chung về nguồn nhân lực có trình độ cao
Chính vì có rất nhiều quan điểm về nguồn nhân lực như đã phân tích ở
trên nên có nhiều cách hiểu khác nhau về NNL có trình độ cao. Về vấn đề
này, C.Mác đã từng quan niệm: “Vậy thì nền công nghiệp do toàn xã hội thực
hiện một cách tập thể và có kế hoạch lại càng cần có những con người có
năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất”[7,
tr.474]. Khi phân loại lao động thành “lao động giản đơn” và “lao động phức
tạp”, C.Mác đã đi đến kết luận: lao động phức tạp (lao động được đào tạo) là
bội số của lao động giản đơn.
Các nhà kinh tế học cũng cho rằng: NNL mà hạt nhân của nó là lao
động kĩ thuật là toàn bộ thể lực, trí lực với trình độ chuyên môn, kĩ năng mà
con người tích lũy được, có khả năng đem lại thu nhập cao trong tương lai.
Theo đó, có ba loại nhân lực chủ yếu quyết định sự phát triển là: người lao
động thể lực; chuyên gia lành nghề và những người có ý tưởng sáng tạo.

16



Ở Việt Nam cho đến nay, thuật ngữ NNL có trình độ cao (hay còn gọi
là NNL chất lượng cao) chưa thấy xuất hiện trong từ điển Bách Khoa Việt
Nam cũng như các từ điển tiếng Việt hay từ điển kinh tế khác, mặc dù trong
thực tiễn phát triển kinh tế của đất nước, nó được dùng khá phổ biến. Kể từ
khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì thuật ngữ này
được đề cập khá nhiều và chính thức được nhắc đến trong Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam để khẳng định sự
hiện diện của một bộ phận nhân lực đầu tàu trong quá trình phát triển đất
nước: “Thông qua việc đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam”[17, tr.34].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng ta lại khẳng định: “Phát triển,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là
một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước”
[19, tr.41]. Từ quan điểm trên cho thấy nhận thức của Đảng ta về NNL có
trình độ cao ngày càng đầy đủ và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại,
coi NNL có trình độ cao chính là khâu đột phá để đưa Việt Nam sớm thoát
khỏi tình trạng nước kém phát triển và vươn lên trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Cùng với quan điểm của các nhà kinh điển và Đảng Cộng sản Việt Nam,
khái niệm NNL chất lượng cao hay NNL có trình độ cao được bàn luận khá sôi
nổi, song cho đến nay vẫn chưa có được một khái niệm thống nhất. Mỗi tác giả,
tùy theo góc độ tiếp cận của mình đưa ra các quan niệm khác nhau.
Theo GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn cho rằng: “Nguồn nhân lực chất
lượng cao – một nguồn nhân lực mới, là một lực lượng lao động có học vẫn,
có trình độ chuyên môn cao và nhất là có khả năng thích ứng nhanh với
những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất” [12, tr.185].
GS.VS. Phạm Minh Hạc cho rằng:


17


NNL chất lượng cao là đội ngũ nhân lực có trình độ và năng lực cao,
là lực lượng xung kích tiếp nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến,
thực hiện có kết quả việc ứng dụng vào điều kiện nước ta là hạt nhân
lĩnh vực của mình vào CNH – HĐH được mở rộng theo kiểu “vết
dầu loang” bằng cách dẫn dắt những bộ phận công nhân có trình độ
và năng lực thấp hơn, đi lên với tốc độ nhanh [23, tr.147-148].
TS. Nguyễn Hữu Dũng, Viện trưởng Viện Khoa học Lao động – Xã hội
thì cho rằng:
NNL chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một
người lao động cụ thể có trình độ lành nghề (về chuyên môn kỹ
thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao
động về chuyên môn kỹ thuật nhất định (trên đại học, đại học,
cao đẳng, công nhân lành nghề) [16, tr.20].
Tác giả Đỗ Văn Dạo cho rằng:
NNL chất lượng cao là bộ phận lao động xã hội có trình độ học
vấn và chuyên môn kỹ thuật cao; có kỹ năng lao động giỏi và có
khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của
công nghệ sản xuất; có sức khỏe và phẩm chất tốt, có khả năng
vận dụng sáng tạo những tri thức, những kỹ năng đã được đào
tạo vào quá trình lao động sản xuất nhằm đem lại năng suất, chất
lượng và hiệu quả cao [13, tr.29-32].
Theo cách hiểu mang tính định tính, NNL có trình độ cao được xem là
một bộ phận của lực lượng lao động, có khả năng đáp ứng những yêu cầu
phức tạp của công việc; từ đó tạo ra năng suất và hiệu quả cao trong công
việc, có những đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng và phát triển của cộng
đồng nói riêng và cho toàn xã hội nói chúng. Còn nếu tiếp cận theo định
lượng thì NNL có trình độ cao cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau.


18


×