1
PHẦN MỞ ĐẦU
Dân tộc Khmer ở Việt Nam có khoảng 1,3 triệu người, nhưng sinh sống tập
trung nhiều ở khu vực Tây Nam bộ, là cộng đồng dân tộc có dân số đông thứ hai ở
khu vực Tây Nam bộ (sau người Kinh). Người Khmer Tây Nam bộ đã sớm xây
dựng cho mình một nền văn hóa khá đa dạng, khác biệt với các cộng đồng dân tộc
khác. Những giá trị văn hóa do người Khmer Tây Nam bộ sáng tạo ra trong quá
trình lịch sử bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể.
Trong suốt quá trình phát triển, nền văn hóa Khmer đã giao hòa, gắn kết với
các nền văn hóa khác, góp phần hình thành nền văn hóa Việt Nam phong phú, đa
dạng và đậm đà bản sắc dân tộc. Những giá trị văn hóa của người Khmer ở Tây
Nam bộ được thể hiện trên nhiều phương diện, cả vật chất lẫn tinh thần. Và trong
bối cảnh toàn cầu hóa, văn hóa Khmer đã có những thay đổi nhất định bởi những
mối liên kết và trao đổi giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở nhiều góc
độ. Chính quá trình toàn cầu hoá giúp người Khmer hiểu hơn và tiếp cận dễ dàng
hơn với các nền văn hóa, văn minh khác nhau nhưng đồng thời cũng đối mặt với
những thách thức không nhỏ từ việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân
tộc mình.
Vì vậy, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của người Khmer Tây Nam bộ
trong bối cảnh giao lưu, hội nhập quốc tế hiện nay là vấn đề hết sức cấp thiết. Với
tầm quan trọng nêu trên, em đã chọn nội dung “Bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa phi vật thể của người Khmer Tây Nam bộ trong bối cảnh hiện nay” để
viết bài thu hoạch của mình.
2
PHẦN NỘI DUNG
1. Các giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam
1.1. Khái niệm
Khái niệm giá trị, giá trị văn hóa dân tộc
- Giá trị là khái niệm được nghiên cứu và sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành
khoa học, kể cả khoa học tự nhiên. Khái niệm giá trị trong tiếng Anh có nhiều
nghĩa. Một trong những nội hàm được hiểu đó là: tính chất có ích hay đáng giá
hoặc quan trọng; tiêu chuẩn ứng xử đạo đức hoặc nghề nghiệp; nguyên lý nghệ
thuật, pháp luật, khoa học...
Theo từ điển Tiếng Việt: “Giá trị là cái làm cho một vật có ích, có ý nghĩa, là
đáng quý về một mặt nào đó”.
Các nhà nghiên cứu Viện Lịch sử kinh điển Laixích (Đức) đã nêu định nghĩa:
“Giá trị giống như là điểm tích tụ về tư tưởng của một giai cấp hoặc một chế độ xã
hội nhất định. Điều đó có nghĩa là, giá trị thể hiện một cách lịch sử cụ thể các mục
tiêu, quy tắc, lý tưởng về lợi ích xã hội, các yêu cầu của một chế độ xã hội và của
mỗi giai cấp nhất định. Do đó, trong nhiều trường hợp giá trị là định hướng phát
triển cơ bản của đời sống tinh thần nhân loại trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định”.
Nhà nhân học Hoa Kỳ Clyde Kluckholn cho rằng: “Giá trị mang trong bản
thân nó những quan niệm bộc lộ hay thầm kín về cái ao ước riêng của một cá nhân
hay một nhóm người. Những quan niệm ấy chi phối sự lựa chọn các phương thức,
phương tiện và mục đích khả thi của hành động”.
Như vậy, theo nghĩa chung nhất, giá trị là hệ thống những đánh giá của con
người về bất cứ một hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái đó
là cần, là tốt, là hay, là đẹp, là có ích. Trên cơ sở này có thể định nghĩa:
3
“Giá trị là khái niệm chỉ ý nghĩa của các hiện tượng vật chất cũng như tinh
thần mà mỗi cộng đồng người quan tâm dựa trên sự thỏa mãn nhu cầu hay lợi ích
nhất định”.
Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng, là kết quả của con người trong các hoạt động
xã hội - sáng tạo.
Giá trị văn hóa dân tộc là kết quả sảng tạo, tích lũy của một cộng đồng, dân
tộc, được phản ánh trong các di sản, tài sản văn hóa vật thể, phi vật thể, được cộng
đồng lựa chọn, thừa nhận và khao khát hưórng tới, thông qua sự trải nghiệm lịch sử.
Khái niệm bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa
- Theo Từ điển Tiếng Việt, “bảo tồn” được hiểu là giữ lại không để cho mất
đi, “phát huy” là làm cho cái hay, cái đẹp, cái tốt tỏa tác dụng và tiếp tục nảy nở từ
ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc theo nghĩa chung nhất, được hiểu là
những nỗ lực của cá nhân và cộng đồng nhằm lưu giữ và kế thừa những gì được
xem là các giá trị của dân tộc (giá trị văn hóa dân tộc). Những giá trị văn hóa được
bảo tồn và phát huy là các giá trị đã và đang còn tiếp tục tạo nên năng lực nội sinh,
là động lực cho sự phát triển văn hóa - xã hội hiện tại và tương lai của cá nhân và
cộng đồng.
- Phát huy các giá trị văn hóa dân tộc được nhận thức là trên cơ sở sàng lọc,
duy trì và làm phong phú thêm những nét đẹp văn hóa vốn có. Phát huy giá trị văn
hóa là những hành động hướng đích nhằm đưa các giá trị văn hóa vào trong thực
tiễn xã hội, trở thành tiềm năng và nội lực góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tể xã hội, mang lại những lợi ích cả về phương diện vật chất và tinh thần cho cá nhân
và cộng đồng dân tộc. Hay nói cách khác, phát huy giá trị văn hóa là những hoạt
động hướng đích nhằm đưa giá trị văn hóa vào trong thực tiễn xã hội với tư cách
vừa là môi trường, vừa là năng lực nội sinh góp phần thúc đẩy phát triển bền vững
xã hội.
4
1.2. Các giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam
Các giá trị văn hóa của một dân tộc được hình thành và phát triển liên quan
đến chủ thể sáng tạo văn hóa, cũng như không gian và thời gian văn hóa.
- Về chủ thể sáng tạo văn hóa dân tộc:Văn hóa Việt Nam được sáng tạo bởi
54 dân tộc anh em. Trong đó, người Kinh là chủ thể văn hóa đại diện.
- Về không gian văn hóa: Có hai không gian văn hóa chi phối quá trình hình
thành và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam. Thứ nhất, là
không gian văn hóa Nam Á (vùng Bách Việt), có thời tiết bốn mùa, nông nghiệp
lúa nước, kỹ thuật đúc đồng và cách thức tổ chức làng xã. Thứ hai, là không gian
văn hóa khu vực Đông Nam Á (cả lục địa và hải đảo), với những đặc trưng về văn
hóa vật chất (làm ruộng, nuôi trâu bò, dùng đồ kim khí, giỏi bơi thuyền) và văn hóa
tinh thần (tín ngưỡng vạn vật hữu linh, thờ tổ tiên, thờ thần đất, chôn người chết
trong chum...).
- Về thời gian văn hóa: Bối cảnh về thời gian phản ánh hoàn cảnh lịch sử
chính trị-xã hội và sự vận động, biến đổi của văn hóa dân tộc.
Trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam có
hơn mười thế kỷ đấu tranh bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ. Hoàn cảnh này đã tạo nên
sự đặc thù trong giao lưu, tiếp xúc văn hóa của dân tộc trong lịch sử thường gắn
với tiếp biến chính trị (điển hình như tiếp xúc văn hóa Việt - Hán, văn hóa Việt Pháp và văn hóa phương Tây trong lịch sử). Điều này cũng lý giải hiện tượng khi
phân chia các thời kỳ văn hóa của dân tộc Việt Nam, chúng ta thường gắn với các
mốc về chính tri.
Các giá trị văn hóa dân tộc thường bị chi phối bởi chủ thể văn hóa và những
điều kiện lịch sử xã hội. Các giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam bao giờ cũng thể
hiện dấu ấn đặc trưng của văn hóa lúa nước và cũng bị chi phối bởi dòng chảy “văn
hóa gốc” trong lịch sử. Đây là mạch nguồn chủ đạo với các phức thể: văn hóa núi,
văn hóa châu thổ và văn hóa biển.
5
Nghị quyết 09-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VII nêu rõ: “Những giá trị văn
hóa truyền thống vững bền của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý
thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý “thương người như thể thương thân”, đức tính cần
cù, vượt khó, sáng tạo trong lao động... Đó là nền tảng và sức mạnh tinh thần to lớn
để nhân dân ta xây dựng một xã hội phát triển, tiến bộ, công bằng, nhân ái”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã
nêu ra “Những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam”, đó là: “Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết,
ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái,
khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự
tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”.
Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã bổ sung và tiếp
tục nhấn mạnh các đặc trưng văn hóa: dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; các
đặc tính cơ bản của con người mới: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn
kết, cần cù, sáng tạo...
2. Bối cảnh bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc hiện nay
2.1. Các yếu tố tác động
- Yếu tố bên ngoài: Các yếu tố đã và đang tác động đến văn hóa dân tộc, như:
toàn cầu hóa văn hóa, sự phát triển của truyền thông toàn cầu và giao lưu quốc tế
về văn hóa... Sự tác động của các yếu tố này đang đưa đến cả cơ hội và thách thức
đối với sự phát triển văn hóa các dân tộc.
Về mặt tích cực, truyền thông góp phần nâng cao trình độ hiểu biết mọi mặt
của tri thức nhân loại, dân tộc, hình thành lối sống tích cực và khẳng định những
giá trị, chuẩn mực; giáo dục lối sống lành mạnh, trách nhiệm của các thành viên
trong xã hội. Đặc biệt, truyền thông toàn cầu đang góp phần giáo dục, bảo vệ,
6
quảng bá những giá trị văn hóa dân tộc; thúc đẩy tiếp thu tinh hoa văn hóa bên
ngoài. Sự phát triển của văn hóa truyền thông không chỉ bao hàm sự phát triển
công nghệ, mà còn là sự hội tụ của các giá trị về kinh tế, xã hội và văn hóa.
Về mặt tiêu cực, sự phát triển không đồng đều của truyền thông đại chúng đã
dẫn đến hiện tượng: một số quốc gia lợi dụng truyền thông để can thiệp vào các
vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa... vì quyền lợi của mình. Mặt khác,
truyền thông cũng đưa đến những thông tin bất lợi, phản giá trị, tiêu cực đối với
văn hóa các dân tộc. Đặc biệt là dòng chảy của các sản phẩm hàng hóa văn hóa đã
dẫn đến sự áp đặt các giá trị ngoại lai, dẫn đến nguy cơ mai một bản sắc văn hóa
dân tộc.
Sự tác động của toàn cầu hóa và truyền thông toàn cầu đã và đang tạo ra môi
trường rộng mở, là cơ hội để nhiều quốc gia, dân tộc chuyển đổi nhận thức về văn
hóa và phát triển, có cơ hội để giao lưu, quảng bá, tiếp nhận, sáng tạo, hưởng thụ
các giá trị văn hóa bên ngoài. Nhưng quá trình này cũng đang tạo nên những nền
cảnh mới, dẫn đến nguy cơ làm thay đổi các chuẩn mực, giá trị của một cộng đồng,
dân tộc. Mặt khác, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh âm mưu và thủ đoạn
“diễn biến hòa bình” nhằm tạo ra những diễn biến phức tạp trên lĩnh vực tư tưởng,
văn hóa, đạo đức, lối sống trong đời sống văn hóa dân tộc.
- Yếu tố bên trong: Các yếu tố bên trong tác động đến biến đổi của văn hóa
dân tộc, trước hết đó là sự chuyển đổi từ xã hội truyền thống sang hiện đại (phân
biệt một cách tương đối). Trong xã hội truyền thống, những giá trị văn hóa truyền
thống dân tộc được hình thành trên cơ sở của hằng số: nông nghiệp, nông dân và
nông thôn. Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945, về cơ bản trong xã hội
Việt Nam vẫn 95% là nông dân, văn hóa nông nghiệp truyền thống. Chất nông dân
- nông nghiệp - nông thôn vẫn giữ vai trò chủ đạo trong việc chi phối tính cách dân
tộc và hệ giá trị văn hóa truyền thống.
7
Hiện nay, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang tác động mạnh mẽ đến văn hóa. Quá
trình đổi mới đã làm thay đổi cơ bản về kinh tế - xã hội. Không gian văn hóa diễn
ra chiếm phần lớn ở đô thị. Chủ thể sáng tạo kinh tế, văn hóa không chỉ là nông
dân mà còn là lực lượng đông đảo hơn: đội ngũ công nhân, trí thức, đặc biệt là tầng
lớp doanh nhân. Lực lượng này đang đỏng vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế
của thời kỳ chuyển đổi văn hóa từ truyền thống đến hiện đại.
Biến đổi hệ giá trị văn hóa là tất yếu đối với bất kỳ một nền văn hóa nào.
Trong giai đoạn giao lưu, hội nhập quốc tế hiện nay, biến đổi văn hóa diễn ra dưới
ảnh hưởng của chính trị, kinh tế và khoa học công nghệ. Sự thay đổi về chủ thể văn
hóa, bối cảnh không gian, thời gian văn hóa dân tộc, đã và đang thúc đẩy các xu
hướng biến đổi giá trị văn hóa Việt Nam.
Biến đổi giá trị văn hóa dân tộc đã và đang diễn ra theo các trường hợp: (1)
Một số giá trị truyền thống tiếp tục được bảo tồn (có thể có sự biến đổi nhất định
về nội dung); (2) Một số giá trị truyền thống đang suy thoái và có xu hướng mất
đi; (3) Một số phi giá trị có nguồn gốc nội sinh hoặc ngoại nhập nảy sinh và đang
hoành hành; (4) Một số giá trị mới đang hình thành và phát triển”
Nội dung biến đổi giá trị văn hóa dân tộc về mặt tích cực có thể nhận thấy
như sau: Văn hóa truyền thống Việt Nam mang đậm đặc trưng của văn hóa lúa
nước, nông dân, nông thôn, nông nghiệp, xóm làng. Đó là các giá trị coi trọng tính
cộng đồng, ưa hài hòa, linh hoạt; đề cao tình đoàn kết, hòa hiếu, bao dung, trọng
tình; dễ thích nghi, hướng đến ổn định.
Mặt khác các nghiên cứu cũng cho thấy, tình trạng suy thoái giá trị và phát
sinh các phi giá trị đang lan tràn. Biểu hiện rõ nhất, đó là niềm tin của người dân
vào nhiều lĩnh vực trong cuộc sống đang bị suy giảm nghiêm trọng. Đặc biệt là
niềm tin của người dân vào các lĩnh vực an toàn thực phẩm, giao thông, chất lượng
8
y tế, giáo dục... Sự biến đổi giá trị văn hóa dân tộc về mặt tiêu cực còn thể hiện ở
việc xuất hiện những tệ nạn xã hội ngày càng trầm trọng.
Trong bối cảnh giao lưu, hội nhập quốc tế, đòi hỏi phải giải quyết mâu thuẫn
về hệ giá trị văn hóa dân tộc trong phát triển. Đó là sự đối lập gay gắt giữa hệ giá
trị văn hóa truyền thống nông nghiệp - nông thôn với yêu cầu phát triển hướng tới
xã hội công nghiệp - đô thị. Các giá trị văn hóa dân tộc cần được phát huy: lòng
yêu nước; tình đoàn kết, trọng thể diện, tính tập thể; nhân ái, bao dung, trọng nghĩa
tình, tính hiếu khách; tính thực tế, tính thích ứng nhanh...
2.2. Những vấn đề đặt ra trong bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân
tộc trong thời kỳ giao lưu, hội nhập quốc tế
Mỗi giai đoạn giữ nước và phát triển đất nước đòi hỏi chúng ta phải xây
dựng nền văn hóa phát triển. Coi trọng văn hóa và gắn vãn hóa với phát triển, văn
hóa là nhân tố đảm bảo cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Phát triển các
giá trị văn hóa dân tộc giai đoạn mới vì thế cần chú trọng những điểm sau:
Thứ nhất, văn hóa dân tộc phải thích ứng với thời kỳ xây dựng nền kinh tể
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tể.
Thứ hai, văn hóa dân tộc phải khẳng định vị thế của mình trong xu thế đổi
thoại giữa các nền văn hóa trên thể giới.
Thứ ba, phát triển các giá trị văn hóa tạo sức mạnh nội sinh để hội nhập và
phát triển bền vững.
Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc trong bối cảnh hiện nay cần
chú ý những vấn đề có tính nguyên tắc:
- Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc hiện nay phải trên cơ sở kế thừa
có chọn lọc các giá trị có ý nghĩa định hướng cho phát triển bền vững đất nước.
- Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc truyền thống phải đồng thời
với sáng tạo những giá trị văn hóa mới.
9
- Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc phải tiến hành đồng thời
với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
3. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể của người Khmer
Tây Nam bộ trong bối cảnh hiện nay
Dân tộc Khmer Tây Nam bộ là cộng đồng dân tộc có dân số đông thứ hai
(sau người Kinh). Người Khmer đã sớm xây dựng cho mình một nền văn hóa khá
đa dạng, khác biệt với các cộng đồng dân tộc khác. Những giá trị văn hóa do người
Khmer Tây Nam bộ sáng tạo ra trong quá trình lịch sử bao gồm cả văn hóa vật thể
và phi vật thể. Những giá trị văn hóa đó đã và đang góp phần bổ sung, làm giàu cho
nền văn hóa dân tộc Việt Nam cần được bảo tồn và phát huy.
3.1. Giá trị văn hóa phi vật thể của người Khmer Tây Nam bộ
Về ngôn ngữ. Người Khmer có ngôn ngữ riêng của mình, thể hiện ở cả tiếng
nói và chữ viết. Ngôn ngữ của người Khmer đã được hình thành từ lâu đời và được
hoàn thiện dần trong quá trình phát triển của lịch sử. Hiện nay, tiếng nói và chữ viết
của người Khmer vẫn được sử dụng trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống.
Về văn học, nghệ thuật. Người Khmer có kho tàng văn học dân gian rất
phong phú, đa dạng bao gồm các truyền thuyết, các loại truyện dân gian, tục ngữ,
dân ca... Có thể kể đến sân khấu Rô băm, Dù kê; múa Ram vong, Lâm lêv, Saravan;
các điệu hát dân gian như hát Aday, Chlay Yam, hát ru con; nhiều hình thức nhạc cổ
với các làn điệu Alê, Chôl Chhung, Khan Bram, Peak Brambei, Peak Brampil,
Sâmpông. Trong đó tiêu biểu nhất phải nói đến sân khấu Rô băm và hát Dù kê. Sân
khấu Rô băm là loại sân khấu cổ truyền của người Khmer đã từng được phổ biến
rộng khắp cả vùng Nam bộ và còn được lưu giữ đến ngày nay. Rô băm của người
Khmer Tây Nam bộ thực chất là loại kịch múa hay nghệ thuật múa sân khấu, còn
Dù kê là loại kịch hát. Dù kê của người Khmer là sự tổng hợp của sân khấu Rô băm
với hát Tiều, hát Quảng của người Hoa, hát Bội, hát Cải lương của người Kinh. Bên
cạnh đó, người Khmer có rất nhiều điệu múa. Thể loại múa của người Khmer gồm
10
múa cổ điển và múa dân gian, trong đó có 3 điệu múa dân gian được thực hành
nhiều trong các dịp lễ, tết và sinh hoạt cộng đồng là Ram vong, Lâm lêv, Saravan...
Thể loại ca, nhạc của người Khmer cũng rất phong phú, gồm có dòng nhạc Mahôri,
nhạc cưới, nhạc lễ, nhạc tang, các điệu ru, thể loại Aday đối đáp, thể loại Chà Pây
Chom Riêng...
Về phong tục, lễ hội. Người Khmer có hệ thống phong tục, lễ hội dân gian và
lễ hội Phật giáo vô cùng phong phú. Sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo và lễ hội đã trở
thành một nhu cầu không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng của người
Khmer. Ngoài các ngày lễ lớn của dân tộc (như Tết Chôl Chnăm Thmây, lễ Đôn ta,
lễ Óoc om bóc) và những ngày lễ của Phật giáo (như lễ Phật đản, lễ Nhập hạ, lễ Xuất
hạ, lễ Dâng y, lễ An vị tượng Phật và lễ Kết giới), người Khmer Tây Nam bộ còn có
hơn 20 ngày lễ khác bắt nguồn từ tín ngưỡng dân gian và tôn giáo. Các ngày lễ hội
của người Khmer (lễ hội dân gian, lễ hội tôn giáo, tín ngưỡng) đều ít nhiều mang dấu
ấn Phật giáo và có sự hiện diện của các sư sãi Khmer. Những ngày lễ, tết của dân tộc,
chùa chiền còn đông vui hơn ở gia đình. Phật giáo Nam tông đã in dấu ấn của mình
lên toàn bộ hệ thống phong tục, lễ hội truyền thống của người Khmer. Phật giáo Nam
tông Khmer có sức ảnh hưởng to lớn đến mọi mặt đời sống xã hội của người Khmer.
Những giá trị văn hóa của Phật giáo Nam tông thể hiện trong chính lối sống, suy
nghĩ, quan niệm của người Khmer. Người Khmer Tây Nam bộ luôn sống dựa vào
triết lý đạo Phật, luôn tin tưởng vào luật “nhân quả”. Tinh thần nhân văn, nhân đạo,
tính hướng thiện, trừ ác, trọng đạo đức, công bằng trong giáo lý Phật giáo đã chi phối
mạnh mẽ lối sống của cộng đồng người Khmer.
Về ngôi chùa Khmer - biểu tượng của sự cố kết cộng đồng. Trong các phum,
sóc của người Khmer, ngôi chùa Phật giáo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngôi
chùa Phật giáo Nam tông Khmer không chỉ là một thiết chế tôn giáo, mà còn là
biểu tượng của sự cố kết cộng đồng. Chùa của người Khmer không đơn thuần chỉ là
nơi thờ Phật, nơi phổ biến giáo lý, kinh điển Phật giáo mà còn là một không gian
mở với nhiều kiến trúc rộng lớn mang nhiều chức năng xã hội chung của cả cộng
11
đồng phum, sóc. Chùa Phật giáo Nam tông Khmer cũng chính là trung tâm sinh
hoạt văn hóa, xã hội của cộng đồng người Khmer. Chùa với người Khmer còn là
nơi lưu giữ các thư tịch cổ, kinh sách, tài liệu phục vụ cho nhu cầu học tập, tra cứu
của đồng bào. Chùa còn là nơi dạy chữ và giáo dục nhân cách cho con em người
Khmer. Chùa còn là từ đường chung của cả phum, sóc vì trong chùa có lò hỏa
thiêu, có tháp đựng tro cốt của người dân trong phum, sóc khi qua đời. Chùa của
người Khmer không chỉ có chức năng tôn giáo, tín ngưỡng mà còn có cả chức năng
văn hóa, xã hội. Ngoài các ngày lễ của Phật giáo và của dân tộc Khmer, mỗi khi có
chuyện vui hay buồn hoặc khi gặp điều gì khó khăn, vướng mắc, người Khmer
thường đến chùa lễ Phật và trải lòng với các sư sãi. Mọi công việc chung của cộng
đồng đều được đưa ra bàn bạc và quyết định ở ngôi chùa. Người Khmer coi ngôi
chùa là ngôi nhà công cộng của nhân dân trong phum, sóc. Chùa Phật giáo Nam
tông Khmer còn là môi trường giáo dục của người Khmer.
3.2. Thực trạng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể của
người Khmer Tây Nam bộ
- Thành tựu: Những năm qua, trong chiến lược xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng, Nhà nước ta đã rất quan tâm đến
công tác bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số, trong đó có
bản sắc văn hóa của người Khmer. Chủ trương, chính sách bảo tồn, phát huy giá trị
văn hóa truyền thống của người Khmer đã được thể hiện trong nhiều văn bản của
Đảng, Nhà nước, tiêu biểu như: Chỉ thị 68-CT/TW ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng; Chỉ thị 39/1998/CT-TTg ngày 03/12/1998 của Thủ tướng Chính
phủ; Chỉ thị 14/2003/CT-TTg ngày 05/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ...
Chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống của người Khmer được chú ý trên cả hai phương diện: văn hóa vật thể
và văn hóa phi vật thể. Trên lĩnh vực văn hóa phi vật thể, công tác bảo tồn đã thu
được nhiều thành tựu đáng kể. Hiện đã có 9 tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu
Long triển khai dạy tiếng Khmer ở 374 trường, 2.970 lớp với 68.334 học sinh. Đáp
12
ứng nhu cầu của người Khmer, ở một số tỉnh có đông người Khmer sinh sống (Trà
Vinh, Sóc Trăng), hầu hết các chùa đều được đầu tư xây dựng các điểm nhóm dạy bổ
túc văn hóa song ngữ Kinh - Khmer, dạy chữ Khmer cho đồng bào do các sư sãi
Khmer đảm trách. Ngoài ra, thời lượng, số lượng và chất lượng các chương trình
phát thanh, truyền hình, báo chí sử dụng tiếng Khmer ngày càng được tăng cường.
Nhiều loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống của người Khmer tiếp tục
được khai thác, phát huy trong thực tế. Một số đoàn nghệ thuật Khmer được Nhà
nước quan tâm đầu tư hoạt động khá tốt, góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa tốt đẹp trong văn học, nghệ thuật của người Khmer.
Việc bảo tồn và phát huy các lễ hội truyền thống của người Khmer cũng
được Đảng, Nhà nước quan tâm. Năm 2008, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã
đưa Lễ hội Óoc om bóc của người Khmer vào vào danh sách 15 lễ hội thuộc
Chương trình quốc gia về Du lịch Việt Nam. Từ năm 2013 đến nay, ở các tỉnh Tây
Nam Bộ, định kỳ 2 năm một lần, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức “Ngày
hội Văn hóa - Thể thao dân tộc Khmer Nam bộ”. Tại Hà Nội, hàng năm đều có tổ
chức Ngày Văn hóa Khmer Nam bộ. Tháng 11/2013, quần thể ngôi chùa Phật giáo
Nam tông Khmer đã được khánh thành trong khuôn viên “Làng Văn hóa - Du lịch
các dân tộc Việt Nam” tại Hà Nội, là một minh chứng điển hình cho sự quan tâm
của Đảng, Nhà nước đối với công tác bảo tồn, phát huy, quảng bá giá trị văn hóa
của người Khmer và Phật giáo Nam tông Khmer. Năm 2006, Học viện Phật giáo
Nam tông Khmer được thành lập tại Cần Thơ. Sự ra đời của Học viện Phật giáo
Nam tông Khmer đã đáp ứng nhu cầu học tập, nâng cao trình độ của sư sãi Khmer
để họ có thể thực hiện tốt hơn trách nhiệm của mình với cộng đồng dân tộc cả về
đạo lẫn đời...
- Hạn chế: Chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo tồn, phát huy giá trị văn
hóa truyền thống của người Khmer đã được thực hiện khá tốt ở các tỉnh Tây Nam
bộ. Tuy nhiên, bản sắc văn hóa độc đáo của người Khmer Tây Nam bộ hiện đang
đứng trước những thách thức lớn lao. Đó là sự mai một dần bản sắc văn hóa dân
13
tộc, sự tiếp thu thiếu chọn lọc giá trị văn hóa của các dân tộc khác, xa rời những giá
trị văn hóa truyền thống ở một bộ phận người Khmer, sự lệ thuộc quá nhiều vào các
hủ tục lạc hậu làm chậm sự phát triển của cộng đồng dân tộc...
3.3. Giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể của
người Khmer Tây Nam bộ
Để thực hiện hiệu quả chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo tồn, phát huy
giá trị văn hóa truyền thống của người Khmer, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần khẳng định rằng, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của người
Khmer không có nghĩa là giữ nguyên vẹn những gì đã có trong nền văn hóa dân tộc
mà phải làm cho cái hợp lý, cái tiến bộ phù hợp với sự phát triển được thực hành và
quảng bá rộng rãi trong đời sống xã hội, đồng thời loại bỏ dần những cái lạc hậu,
hủ tục; từ đó tạo nên những nguồn lực thúc đẩy sự phát triển tiến bộ về mọi mặt
cho người Khmer.
Thứ hai, trong nội dung bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa phi vật thể của
người Khmer, trước tiên cần bảo tồn tiếng nói, chữ viết. Bởi vì tiếng nói và chữ viết
là linh hồn của nền văn hóa. Để bảo tồn tiếng nói và chữ viết của người Khmer,
ngoài việc giảng dạy chữ Khmer trong chương trình phổ thông theo quy định của
Bộ Giáo dục và Đào tạo, cần tăng cường công tác tuyên truyền để người Khmer
thấy được vai trò to lớn của ngôn ngữ, chữ viết trong phát triển văn hóa, từ đó
khuyến khích họ học tiếng nói, chữ viết. Tăng thời lượng sử dụng tiếng nói và chữ
viết Khmer trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Thứ ba, để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa trong các lễ hội của người
Khmer, cần tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá giá trị văn hóa của các lễ
hội của người Khmer, mặt khác, giúp người Khmer tổ chức các lễ hội không quá
tốn kém về thời gian, tiền của, bị pha tạp, lai căng mà vẫn giữ được các giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc mình. Các địa phương cần kết hợp với các ban quản
14
trị chùa trong công tác tổ chức lễ hội, hướng dẫn họ thực hiện đúng chủ trương,
chính sách của Nhà nước, đảm bảo không làm xơ cứng lễ hội.
Thứ tư, gắn bảo tồn, phát triển văn hóa của người Khmer với phát triển kinh
tế - xã hội; đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa phát triển văn hóa và kinh tế; hài hòa
giữa bảo tồn, phát huy và phát triển.
Thứ năm, đào tạo nhân lực nòng cốt đối với công tác bảo tồn, phát huy văn
hoá của người Khmer. Theo đó, cần đề cao vai trò của các sư sãi, nghệ nhân, người
có uy tín trong cộng đồng để họ nhận thức và tham gia với vai trò then chốt trong
việc tự bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc mình, thông qua các hoạt động bồi
dưỡng, tập huấn, hỗ trợ công tác truyền dạy và phát huy các giá trị văn hóa, nghệ
thuật truyền thống dân tộc của cộng đồng…
Thứ sáu, Đảng và Nhà nước tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, chú trọng
xây dựng cơ chế chính sách đặc thù cho việc bảo tồn và nâng cao đời sống văn hóa
cho người Khmer. Nhà nước đầu tư kinh phí để sưu tầm những giá trị văn hóa của
người Khmer có nguy cơ mai một, cũng như kinh phí hỗ trợ cho các nghệ nhân;
thường xuyên mở lớp truyền dạy cho lớp trẻ về nghệ thuật: hát, múa, đánh nhạc
ngũ âm, điêu khắc, chạm trổ…
15
KẾT LUẬN
Giá trị văn hóa dân tộc là kết quả sáng tạo, tích lũy của một cộng đồng, dân
tộc, được phản ánh trong các di sản, tài sản văn hóa vật thể, phi vật thể, được cộng
đồng lựa chọn, thừa nhận và khao khát hưórng tới, thông qua sự trải nghiệm lịch sử.
Trong bối cảnh hiện nay, sự nghiệp đổi mới, giao lưu và hội nhập quốc tế
của đất nước đã và đang đặt nền văn hóa dân tộc Việt Nam nói chung, văn hóa của
người Khmer nói riêng trước những thời cơ và thách thức mới. Việc bảo tồn, phát
huy các giá trị văn hóa dân tộc gắn với tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại trên
cơ sở xây dựng một hệ giá trị mới là vấn đề rất bức thiết.
Quá trình đổi mới đất nước chính là xây dựng và phát triển nền văn hóa, con
người Việt Nam trên những tầm cao mới, không chỉ bắt nguồn từ việc kế thừa giá
trị văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, mà còn phải xuất phát từ
sự nhận thức và vận dụng có hiệu quả những quy luật phát triển văn hóa, con người
Việt Nam trong bước vận động mới của lịch sử. Bảo tồn, phát huy các giá trị văn
hóa dân tộc, trong đó có giá trị văn hóa của người Khmer phải góp phần phát triển
văn hóa và con người, tạo sức mạnh nội sinh cho phát triển đất nước trong giai
đoạn mới.