Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Phân tích quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam từ 2010 đến nay? Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình chuyển dịch này?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.42 KB, 41 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ & THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

BỘ MÔN: KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
Phân tích quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam từ 2010 đến nay?
Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình chuyển dịch này?

LỜI MỞ ĐẦU
1


Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ với tăng trưởng và phát triển
kinh tế, vừa là kết quả của quá trình phát triển kinh tế xã hội trong một giai đoạn
nhất định vừa là yếu tố cực kì quan trọng thúc đẩy phát triển nền kinh tế xã hội
quốc gia lên một trình độ mới. Để phục vụ cho việc xây dựng chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện tại và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
quôc gia trong một giai đoạn dài, cơ cấu kinh tế và sự chuyển dịch của nó cần phải
được xem xét tổng quát để rút ra các ưu nhược điểm, phát hiện các điểm mạnh, xu
hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hơn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý hiệu quả của nhà nước nện kinh tế của nước ta đã có những chuyển biến
mạnh mẽ. Nếu trước đây Nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc
dân và chiếm một tỷ lệ lao động vào nông nghiệp rất lớn, thì nay nền kinh tế của ta
đã có sự phát triển đồng đều hơn, tỷ trọng Công nghiệp và Dịch vụ trong tổng sản
phẩm kinh tế quốc dân đã chiếm một khối lượng đáng kể và đóng góp lớn vào sự
phát triển kinh tế chung của đất nước. Tuy nhiên sự chuyển dịch kinh tế cần phải
có những chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa, theo các xu hướng : Chuyển dịch cơ cấu
nghành kinh tế, chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế, chuyển dịch cơ cấu vùng
lãnh thổ. Trong phạm vi chương trình được tiếp cận chúng tôi xin trình bày những
nét cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam.


I.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế:

Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí, tỷ
trọng tương ứng của chúng và mối quan hệ hưu cơ tương đối ổn định hợp thành.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế thực chất là sự phát triển không đều giữa các
ngành, các lĩnh vực, bộ phận… Nơi nào có tốc độ phát triển cao hơn tốc độ phát
triển chung của nền kinh tế thì sẽ tăng tỷ trọng. Ngược lại nơi nào có tốc độ phát
triển chậm hơn tốc độ phát triển chung của nền kinh tế thì sẽ giảm tỷ trọng.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý là sự chuyển dịch sang một cơ cấu kinh tế
có khả năng tái sản xuất mở rông cao, phản ánh được năng lực khai thác, sử dụng
các nguồn lựcvà phải phù hợp với các quy luật, các xu hướng của thời đại.
II.

Tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam từ 2010 đến
nay:
1.

Tình hình kinh tế năm 2010:
2


Kinh tế việt nam năm 2010 mặc dù đang phục hồi sau khủng hoảng tài
chính toàn cầu và có những chuyển biến tích cực. Song, nhìn chung chưa thực sự
ổn định và còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất lợi tác động đến kinh tế nước ta. Ở trong
nước, thiên tai liên tiếp xảy ra, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống
dân cư.
Năm 2010 là năm có ý nghĩa to lớn và tầm quan trọng, đây là năm cuối
thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 và Chiến lược phát

triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010.
Chính trong bối cảnh như vậy nên từ đầu năm, Trung ương Đảng, Quốc
hội, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị quyết, chính sách cùng các giải pháp và
nhiệm vụ cụ thể, trong đó trọng tâm và trực tiếp là Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày
15 tháng 01 năm 2010 và Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 06 tháng 4 năm 2010 của
Chính phủ với mục đích :
+ Ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện tốt Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội
năm 2010.
+ Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh nhằm thực hiện mục tiêu tổng quát của Kế
hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2010 là: “Nỗ lực phấn đấu phục hồi tốc độ
tăng trưởng kinh tế đạt mức cao hơn năm 2009, tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô;
nâng cao chất lượng tăng trưởng; ngăn chặn lạm phát cao trở lại; tăng khả năng
bảo đảm an sinh xã hội; chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế
quốc tế; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; bảo đảm yêu cầu
quốc phòng, an ninh”
2.Kinh tế 2011-2013:
Những thay đổi của tình hình kinh tế trong và ngoài nước đã làm cho các
mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch kinh tế - xã hội chủ yếu của kế hoạch 5 năm 20112015 trở nên khá cao.
Ở trong nước, những kinh nghiệm tích lũy được sau hơn 20 năm đổi mới đã
bảo đảm kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tăng trưởng kinh tế khác (bình quân đạt
7,3% thời kỳ 2001-2010), GDP năm 2010 gấp 2 lần năm 2000, nước ta đã ra khỏi
tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo
giảm nhanh và đã hoàn thành hầu hết mục tiêu Thiên niên kỷ cam kết với quốc tế,
chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững...

3


Thế nhưng, ngay sau khi Đại hội XI bế mạc (19/1/2011), tình hình kinh tế
đã nhanh chóng xuất hiện những dấu hiệu bất ổn. Những yếu kém vốn có của nền

kinh tế cùng những nhiệm vụ của đổi mới thể chế chưa được giải quyết dồn tích
lại từ nhiều năm trước đã bộc lộ ra một cách gay gắt, đòi hỏi phải được giải quyết
một cách hệ thống, căn bản và cấp bách. Trên bề mặt của đời sống kinh tế, chỉ số
giá tiêu dùng của năm 2011 đã tăng lên 1,5 lần so với mức lạm phát của năm trước
(từ mức 11,75% của năm 2010 lên 18,13%).Đồng thời, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng
tăng lên, đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản, trực tiếp gây ra tình trạng rủi ro, bất
ổn đe dọa hệ thống ngân hàng. Số lượng doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động
tăng cao hơn trước… Kinh tế thế giới cũng xuất hiện nhiều diễn biến xấu, lạm
phát tăng, giá dầu thô, nguyên vật liệu cơ bản đầu vào của sản xuất, lương thực,
thực phẩm trên thị trường tiếp tục tăng cao. Sau khủng hoảng tài chính ở Mỹ năm
2008, kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo.
Trước tình hình thực tế như vậy, phản ứng trong chính sách điều hành kinh
tế cũng đã rất nhanh nhạy, kịp thời. Ngay trong tháng 2/2011, Chính phủ đã ra
Nghị quyết số 11/NQ-CP, chuyển trọng tâm điều hành chính sách sang “tập trung
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội”.Quan điểm chỉ
đạo này được khẳng định tại Kết luận số 02-KL/TW ngày 16/3/2011 của Bộ Chính
trị là: “Tập trung ưu tiên hàng đầu cho việc kiềm chế lạm phát; ổn định kinh tế vĩ
mô và bảo đảm an sinh xã hội; coi đây vừa là nhiệm vụ cấp bách ngắn hạn của
năm 2011, vừa là nhiệm vụ quan trọng của một vài năm tiếp theo”. Hội nghị lần
thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI (10/2011) đánh giá các giải
pháp, chính sách này là ”đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế của đất nước” và
xác định: “Trong năm 2012 và những năm tiếp theo, tiếp tục... ưu tiên hàng đầu
cho việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội gắn
với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế”.
Trên tinh thần chỉ đạo này, trong 3 năm qua, kết quả thực hiện các nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội về đại thể như sau:
Về tăng trưởng kinh tế
Theo giá so sánh năm 2010, GDP năm 2011 tăng 6,24%, năm 2012 tăng
5,25% và năm 2013 tăng 5,42%. Bình quân 3 năm, GDP tăng 5,6%/năm. Tuy
chưa đạt kế hoạch đề ra ban đầu cũng như chỉ tiêu đã điều chỉnh, song đây là mức

tăng có thể chấp nhận được và có phần cao hơn chút ít so với mức bình quân của
các nước ASEAN (5,1%/năm trong thời kỳ 2011-2013, theo IMF). Tuy nhiên, điều
4


rất lo ngại là, khu vực sản xuất vật chất có xu hướng giảm dần tốc độ tăng trưởng
(Bảng 1).

Bảng 1: Tăng trưởng kinh tế chia theo khu vực giai đoạn
ă
m

G
DP

2
011

6

4,02

Công nghiệp và
xây dựng

Dịc
h vụ

6,68


,24
2

012

6,8
3

5

2,68

5,75

5,90

5

2,67

5,43

6,56

,25
2

013

Nông, lâm nghiệp và

thuỷ sản

,42
Nguồn: Tổng cục Thống kê

2.

Triển vọng kinh tế Việt Nam 2014-2015:
Triển vọng kinh tế Việt Nam 2014-2015 gắn liền với £nhiệm vụ dài hạn mà
các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, tái cơ cấu kinh tế được thực hiện để tạo ra
được mô hình tăng trưởng mới. Theo cách tiếp cận này, nền kinh tế đang phải đối
mặt với một số những thách thức mới như sau:
- Một là, thách thức của việc phục hồi và nâng cao tốc độ tăng trưởng
- Hai là, thách thức của việc bảo đảm những nguồn lực cho việc thực hiện
các mục tiêu chiến lược
- Ba là, thách thức của việc tạo ra mô hình tăng trưởng mới từ việc duy trì ổn
định kinh tế vĩ mô
- Bốn là, thách thức của bước chuyển giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại
hóa

5


- Năm là, thách thức của việc giải quyết mối quan hệ giữa ổn định để phát
triển và phát triển để ổn định

3.

Tình hình kinh tế-xã hội năm 2016-2020:


Năm 2016, năm đầu cả nước thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
5 năm 2016-2020 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự
báo, tăng trưởng thương mại toàn cầu giảm mạnh, hoạt động của thị trường hàng
hóa kém sôi động, giá cả hàng hóa thế giới ở mức thấp đã ảnh hưởng đến kinh tế
nước ta, nhất là hoạt động xuất nhập khẩu và thu ngân sách Nhà nước. Ở trong
nước, bên cạnh những thuận lợi từ dấu hiệu khởi sắc của năm 2015, kinh tế nước
ta đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức bởi diễn biến phức tạp của thời tiết,
biến đổi khí hậu. Rét đậm, rét hại ở các tỉnh phía Bắc, tình trạng hạn hán tại Tây
Nguyên, Nam Trung Bộ và xâm nhập mặn nghiêm trọng ở Đồng bằng sông Cửu
Long, bão lũ và sự cố môi trường biển tại các tỉnh miền Trung đã ảnh hưởng nặng
nề đến sản xuất và đời sống nhân dân.
Trước tình hình đó, Chính phủ đã lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, địa phương
tập trung thực hiện đồng bộ, có hiệu quả Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày
07/01/2016 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2016. Đồng
thời, ban hành hàng loạt các Nghị quyết để chỉ đạo, giải quyết những vấn đề cấp
bách, khắc phục khó khăn, thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân,
bảo vệ môi trường sinh thái như: Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP ngày 28/4/2016
về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020;
Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp
đến năm 2020.

6


Tóm lại:Giai đoạn từ 2001-2010 GDP tăng bình quân 7,26%/năm. Giai
đoạn 2011-2015 đạt khoảng 6%/năm.
Tính chung cho cả giai đoạn GDP tăng bình quân gần 7%, trong đó có tới
20 năm liên tục GDP tăng bình quân 7,43%. Đến năm 2016, quy mô nền kinh tế

đã đạt khoảng 217 tỷ USD.

7


Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra nhanh chóng theo mục tiêu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ảnh: Minh Hoàng
Việt Nam đang đứng thứ 6 tại Đông Nam Á và top 50 nền kinh tế quy mô
nhất thế giới. Thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 2.200 USD (tương
đương 48,6 triệu đồng/năm), trở thành một nước có thu nhập trung bình khá của
thế giới.
* Tăng trưởng kinh tế:
a. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước:
8


Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2016 ước tính tăng 6,21% so với
năm 2015, trong đó quý I tăng 5,48%; quý II tăng 5,78%; quý III tăng 6,56%; quý
IV tăng 6,68%. Mức tăng trưởng năm nay tuy thấp hơn mức tăng 6,68% của năm
2015 và không đạt mục tiêu tăng trưởng 6,7% đề ra, nhưng trong bối cảnh kinh tế
thế giới không thuận, giá cả và thương mại toàn cầu giảm, trong nước gặp nhiều
khó khăn do thời tiết, môi trường biển diễn biến phức tạp thì đạt được mức tăng
trưởng trên là một thành công, khẳng định tính đúng đắn, kịp thời, hiệu quả
của các biện pháp, giải pháp được Chính phủ ban hành, chỉ đạo quyết liệt các cấp,
các ngành, các địa phương cùng thực hiện.
Trong mức tăng 6,21% của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản tăng 1,36%, thấp nhất kể từ năm 2011 trở lại đây; khu vực công nghiệp
và xây dựng tăng 7,57%, thấp hơn mức tăng 9,64% của năm trước,; khu vực dịch
vụ tăng 6,98%.
Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, ngành lâm nghiệp có mức

tăng cao nhất với 6,11%, nhưng do chiếm tỷ trọng thấp.Ngành nông nghiệp với
quy mô trong khu vực lớn nhất (khoảng 75%) chỉ tăng thấp ở mức 0,72%,; ngành
thủy sản tăng 2,80%. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm nay gặp nhiều
khó khăn do diễn biến bất lợi của thời tiết, rét đậm, rét hại đầu năm tại các tỉnh
miền Bắc và Bắc Trung Bộ; hạn hán, xâm nhập mặn tại khu vực Nam Trung Bộ,
Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long; liên tục những đợt lũ
trong các tháng cuối năm tại các tỉnh miền Trung và sự cố môi trường biển xảy ra
cuối tháng Tư tại vùng biển các tỉnh Bắc Trung Bộ đã gây ảnh hưởng lớn tới kết
quả sản xuất của khu vực này.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp tăng 7,06% so
với năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt mức tăng cao
11,90%, đóng góp đáng kể vào mức tăng trưởng chung với 1,83 điểm%. Ngành
khai khoáng năm nay giảm tới 4,00%, đã làm giảm 0,33 điểm phần trăm mức
tăng trưởng chung, đây là mức giảm sâu nhất từ năm 2011 trở lại đây. Nguyên
nhân chủ yếu do giá dầu thế giới giảm khiến lượng dầu thô khai thác giảm hơn
1,67 triệu tấn so với năm trước; sản lượng khai thác than cũng chỉ đạt 39,6 triệu
tấn, giảm 1,26 triệu tấn. Xu hướng ngành công nghiệp chuyển dịch sang lĩnh vực
chế biến, chế tạo, giảm sự phụ thuộc vào ngành khai khoáng là điều cần thiết vì
Việt Nam đang hướng tới mục tiêu phát triển bền vững hơn. Ngành xây dựng tăng
trưởng khá với tốc độ 10,00%,.
Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào
mức tăng trưởng chung như sau: Bán buôn và bán lẻ chiếm tỷ trọng lớn nhất, đạt
9


mức tăng 8,28% so với năm 2015; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm
tăng 7,79%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm; hoạt động kinh doanh bất động sản
được cải thiện hơn với mức tăng 4,00%, cao hơn mức tăng 2,96% của năm trước,
đóng góp 0,21 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống năm nay có mức tăng
trưởng khá cao 6,70% so với mức tăng 2,29% của năm 2015, đóng góp 0,25 điểm

phần trăm vào mức tăng trưởng chung.

Về cơ cấu nền kinh tế năm nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
chiếm tỷ trọng 16,32%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 32,72%; khu
vực dịch vụ chiếm 40,92%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm
10,04% (Cơ cấu tương ứng của năm 2015 là: 17,00%; 33,25%; 39,73%; 10,02%).
Xét về góc độ sử dụng GDP năm 2016, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,32% so
với năm 2015, đóng góp 5,29 điểm phần trăm vào mức tăng chung (trong đó tiêu
dùng cuối cùng của hộ dân cư đóng góp 4,81 điểm phần trăm); tích lũy tài sản
tăng 9,71%, đóng góp 3,08 điểm phần trăm; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa
và dịch vụ ở tình trạng nhập siêu làm giảm 2,16 điểm phần trăm của mức tăng
trưởng chung.

b. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản:
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trong năm 2016 gặp nhiều khó khăn
do tác động của biến đổi khí hậu và thời tiết khắc nghiệt: Rét đậm, rét hại đầu
năm tại các tỉnh phía Bắc; mưa, lũ ở miền Trung; tình trạng hạn hán, xâm nhập
mặn nghiêm trọng tại Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng
sông Cửu Long và sự cố môi trường biển xảy ra tại 4 tỉnh miền Trung. Giá trị sản
xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2016 theo giá so sánh 2010 ước tính đạt
870,7 nghìn tỷ đồng, tăng 1,44% so với năm 2015, bao gồm: Nông nghiệp đạt
642,5 nghìn tỷ đồng, tăng 0,79%; lâm nghiệp đạt 28,2 nghìn tỷ đồng, tăng 6,17%;
thủy sản đạt 200 nghìn tỷ đồng, tăng 2,91%.
- Nông nghiệp
Sản lượng lúa cả năm 2016 ước tính đạt 43,6 triệu tấn, giảm 1,5 triệu tấn so
với năm 2015 do diện tích gieo cấy đạt 7,8 triệu ha, giảm 40 nghìn ha; năng suất
10


đạt 56 tạ/ha, giảm 1,6 tạ/ha. Nếu tính thêm 5,2 triệu tấn ngô thì tổng sản lượng

lương thực có hạt năm nay ước tính đạt 48,8 triệu tấn, giảm 1,5 triệu tấn so với
năm 2015.
Trong sản xuất lúa, diện tích gieo cấy lúa đông xuân năm nay đạt 3,1 triệu
ha, giảm 30 nghìn ha so với vụ đông xuân trước; năng suất đạt 63 tạ/ha, giảm 3,5
tạ/ha nên sản lượng đạt 19,4 triệu tấn, giảm 1,3 triệu tấn. Sản xuất lúa đông xuân
năm nay giảm so với vụ đông xuân trước cả về diện tích, năng suất và sản lượng
chủ yếu do ảnh hưởng của thời tiết rét buốt, băng giá tại các tỉnh phía Bắc và tình
trạng hạn hán, xâm nhập mặn tại các tỉnh phía Nam, đặc biệt là vùng Đồng bằng
sông Cửu Long. Diện tích gieo cấy lúa hè thu và thu đông đạt 2,8 triệu ha, tăng
23,9 nghìn ha so với năm trước; năng suất đạt 53,5 tạ/ha, giảm 0,6%; sản lượng
đạt 15 triệu tấn, tăng 34 nghìn tấn so với năm 2015 .Diện tích gieo cấy lúa mùa
của cả nước đạt 1,9 triệu ha, giảm 33,5 nghìn ha so với vụ mùa năm trước do khu
vực miền Bắc bị ảnh hưởng thời tiết hạn hán, thiếu nước đầu vụ; một số tỉnh phía
Nam phải chuyển đổi mùa vụ do ảnh hưởng xâm nhập mặn và hạn hán lâu ngày.
Năng suất lúa mùa năm nay ước tính đạt 48,4 tạ/ha, giảm 0,4 tạ/ha so với vụ mùa
trước; sản lượng ước tính đạt 9,2 triệu tấn, giảm 243 nghìn tấn. Một số địa
phương sản lượng lúa mùa giảm mạnh so với năm trước: Kiên Giang giảm 175
nghìn tấn; Vĩnh Phúc giảm 33 nghìn tấn; Bến Tre giảm 25,7 nghìn tấn; Sóc Trăng
giảm 19,7 nghìn tấn; Long An giảm 12 nghìn tấn.
Kết quả sản xuất một số cây hàng năm khác đạt thấp: Sản lượng khoai lang
đạt 1.289,1 nghìn tấn, giảm 46,5 nghìn tấn so với năm trước (diện tích giảm 6,1
nghìn ha); mía đạt 17,2 triệu tấn, giảm 1,2 triệu tấn (diện tích giảm 10 nghìn ha);
lạc đạt 441,4 nghìn tấn, giảm 12,7 nghìn tấn (diện tích giảm 8,6 nghìn ha). Sản
lượng sắn và đậu tương tăng nhẹ: Sản lượng sắn đạt 10,9 triệu tấn, tăng 192 nghìn
tấn (diện tích tăng 2 nghìn ha); đậu tương đạt 147,5 nghìn tấn, tăng 1,1 nghìn tấn
(diện tích giảm 6,8 nghìn ha); sản lượng rau các loại đạt 16 triệu tấn, tăng 741
nghìn tấn (diện tích tăng 17,7 nghìn ha).
Diện tích trồng cây công nghiệp lâu năm đạt 2,2 triệu ha, tăng 16,2 nghìn
ha so với năm 2015, trong đó một số tỉnh Tây Nguyên và Đông Nam Bộ đang có
xu hướng phá bỏ cây cao su già cỗi, chuyển đổi sang trồng tiêu và một số cây

trồng khác. Diện tích trồng cây cao su năm 2016 ước tính đạt 976,4 nghìn ha,
giảm 0,9% so với năm trước; sản lượng đạt 1.032,1 nghìn tấn, tăng 1,9%; hồ tiêu
diện tích đạt 124,5 nghìn ha, tăng 22,5%, sản lượng đạt 193,3 nghìn tấn, tăng
9,4%; cà phê diện tích đạt 645,4 nghìn ha, tăng 0,3%, sản lượng đạt 1.467,9 nghìn
tấn, tăng 1%; điều diện tích đạt 293 nghìn ha, tăng 0,9%, sản lượng đạt 303,9
11


nghìn tấn, giảm 13,7% do ảnh hưởng thời tiết khô hạn kéo dài, một số khu vực
chịu ảnh hưởng của sương mù nên đợt ra bông đầu tiên năm nay bị mất trắng.
Cây ăn quả năm nay đạt khá, nhiều nhóm cây có diện và thị trường tiêu thụ
sản phẩm ổn định. Sản lượng cam năm 2016 đạt 627,1 nghìn tấn, tăng 10,8% so
với năm trước; quýt đạt 172,4 nghìn tấn, tăng 6,9%; bưởi đạt 500,3 nghìn tấn,
tăng 6,1%; xoài đạt 724,4 nghìn tấn, tăng 3,1%; chuối đạt 1.977 nghìn tấn, tăng
1,7%. Riêng sản lượng nhãn, vải đạt thấp do nhiều cây trồng không mang lại hiệu
quả bị chặt bỏ ở miền Bắc và sâu bệnh tại các tỉnh phía Nam; giá bán sản phẩm
duy trì ở mức có lợi cho người nuôi. Hình thức nuôi chuyển dịch theo hướng từ
chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán sang chăn nuôi tập trung theo mô hình trang trại, gia
trại, liên kết với các doanh nghiệp, tạo đầu ra ổn định cho sản phẩm. Theo kết quả
điều tra chăn nuôi, tại thời điểm 01/10/2016, đàn trâu cả nước có 2,5 triệu con,
giảm 0,2% so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò có 5,5 triệu con, tăng 2,4%,
riêng đàn bò sữa đạt 282,9 nghìn con, tăng 2,8%; đàn lợn có 29,1 triệu con, tăng
4,8%; đàn gia cầm có 361,7 triệu con, tăng 5,8%. Sản lượng thịt hơi các loại năm
nay đạt khá, trong đó sản lượng thịt trâu đạt 86,6 nghìn tấn, tăng 1% so với cùng
thời điểm năm trước; sản lượng thịt bò đạt 308,6 nghìn tấn, tăng 3,1%; sản lượng
thịt lợn đạt 3,7 triệu tấn, tăng 5%; sản lượng thịt gia cầm đạt 961,6 nghìn tấn, tăng
5,9%; sản lượng trứng gia cầm đạt 9.446,2 triệu quả, tăng 6,4%.
- Lâm nghiệp
Năm 2016, diện tích rừng trồng tập trung của cả nước ước tính đạt 231,2
nghìn ha, giảm 3,9% so với năm 2015, trong đó một số địa phương có diện tích

rừng trồng tập trung giảm nhiều: Hà Giang giảm 8,9 nghìn ha (giảm 40,3%);
Tuyên Quang giảm 3,3 nghìn ha (giảm 24%); Thanh Hóa giảm 2,2 nghìn ha (giảm
17,3%). Số cây lâm nghiệp trồng phân tán cả năm đạt 154,5 triệu cây, giảm 4,2%
so với năm 2015.
Sản lượng gỗ khai thác năm 2016 ước tính đạt 9.568 nghìn m3, tăng 10,3%
so với năm trước, trong đó một số địa phương có sản lượng gỗ khai thác tăng cao:
Quảng Ngãi đạt 866 nghìn m3, tăng 21,2%; Bắc Giang đạt 501 nghìn m3, tăng
25,3%; Thanh Hóa đạt 499 nghìn m3, tăng 25,4%. Sản lượng củi khai thác đạt
27,1 triệu ste, giảm 0,4% so với năm 2015.
Công tác bảo vệ, phòng chống cháy rừng được các cấp, các ngành quan
tâm thực hiện nhưng do thời tiết hạn hán, nắng nóng kéo dài nên tình trạng cháy
rừng tiếp tục xảy ra. Diện tích rừng bị thiệt hại của cả nước năm 2016 là 4.519 ha,
gấp 2,4 lần so với năm 2015, trong đó diện tích rừng bị cháy là 3.320 ha, gấp 3,1
lần; diện tích rừng bị chặt phá là 1.199 ha, tăng 47,5%. Một số tỉnh có diện tích
12


rừng bị cháy nhiều là: Điện Biên 969 ha; Sơn La 919 ha; Hà Giang 226 ha; Yên
Bái 194 ha; Bình Định 182 ha; Hà Tĩnh 113 ha.
- Thủy sản
Sản lượng thuỷ sản năm 2016 ước tính đạt 6.728,6 nghìn tấn, tăng 2,7% so
với năm trước, trong đó cá đạt 4.843,3 nghìn tấn, tăng 2,5%; tôm đạt 823,9 nghìn
tấn, tăng 3,3%.
Hoạt động nuôi trồng thủy sản những tháng đầu năm gặp khó khăn do thời
tiết thay đổi thất thường, tình trạng ô nhiễm nguồn nước, thị trường xuất khẩu
giảm mạnh, giá thu mua sản phẩm không ổn định. Những tháng cuối năm, tình
hình đã khởi sắc hơn nhưng nhìn chung kết quả nuôi trồng thủy sản cả năm đạt
thấp. Sản lượng thủy sản nuôi trồng năm 2016 ước tính đạt 3.604,3 nghìn tấn,
tăng 2,6% so với năm trước, trong đó cá đạt 2.576,8 nghìn tấn, tăng 2,1%; tôm đạt
649,3 nghìn tấn, tăng 3,4%.

Nuôi cá tra có tín hiệu tích cực trong những tháng cuối năm nhưng nhìn
chung vẫn gặp khó khăn do giá cả và thị trường tiêu thụ chưa thực sự ổn định.
Diện tích nuôi cá tra công nghiệp năm 2016 ước tính đạt 5.105 ha, giảm 1,2% so
với năm trước; sản lượng ước tính đạt 1.143,1 nghìn tấn, tăng 1,3%, trong đó
Đồng Tháp đạt 403,4 nghìn tấn, tăng 0,8%, Bến Tre đạt 172,3 nghìn tấn, tăng 1%.
Nuôi tôm nước lợ phát triển tương đối tốt trong những tháng cuối năm do
thời tiết mưa nhiều làm giảm tình trạng hạn mặn. Bên cạnh đó, công tác phòng
chống, kiểm soát dịch bệnh được quan tâm thực hiện nên diện tích nuôi và sản
lượng thu hoạch đạt khá. Diện tích nuôi tôm sú năm 2016 ước tính đạt 571 nghìn
ha, tăng 0,1% so với năm trước; sản lượng đạt 251,7 nghìn tấn, tăng 1%. Diện
tích nuôi tôm thẻ chân trắng năm 2016 đạt 102,3 nghìn ha, tăng 16,3% so với năm
trước; sản lượng đạt 357,6 nghìn tấn, tăng 5%, trong đó Sóc Trăng đạt 85,5 nghìn
tấn, tăng 22,9%, Cà Mau đạt 55,5 nghìn tấn, tăng 5,2%.
Thời tiết trong năm tương đối thuận lợi cho hoạt động khai thác, đánh bắt
thủy sản trên biển, giá xăng dầu thấp cùng với dịch vụ hậu cần nghề cá phát triển
đã tạo điều kiện cho ngư dân ra khơi, bám biển dài ngày. Tuy nhiên, sự cố môi
trường biển xảy ra cuối tháng Tư tại vùng biển các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế gây ra hiện tượng cá chết hàng loạt đã ảnh hưởng
đến hoạt động khai thác thủy sản của các tỉnh ven biển miền Trung cũng như của
cả nước. Năm 2016, sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 3.124,3 nghìn tấn,
tăng 2,9% so với năm 2015, trong đó cá đạt 2.266,5 nghìn tấn, tăng 2,9%, tôm đạt
174,7 nghìn tấn, tăng 3,3%. Sản lượng thủy sản khai thác biển ước tính đạt
2.930,8 nghìn tấn, tăng 3,2%, trong đó cá đạt 2.131,3 nghìn tấn, tăng 3,2%, tôm
13


đạt 161,3 nghìn tấn, tăng 3,7%.
c. Sản xuất công nghiệp:
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Mười Hai ước
tính tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước (tháng Mười Một tăng 8% so với cùng

kỳ), trong đó ngành khai khoáng giảm 7,4%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng
12,9%; sản xuất và phân phối điện tăng 10,8%; cung cấp nước và xử lý rác thải,
nước thải tăng 9,4%.
Tính chung cả năm 2016, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng
7,5% so với năm 2015 (quý I tăng 7,4%; quý II tăng 7,1%; quý III tăng 7,1%; quý
IV ước tính tăng 8,2%), thấp hơn nhiều mức tăng 9,8% của năm 2015 và 7,6%
của năm 2014 do ngành khai khoáng giảm sút mạnh. Trong các ngành công
nghiệp, ngành chế biến, chế tạo tăng 11,2%, đóng góp 7,9 điểm phần trăm vào
mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,5%, đóng góp 0,8
điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,2%,
đóng góp 0,1 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm sâu ở mức 5,9%, làm
giảm 1,3 điểm phần trăm mức tăng chung.

Xét theo công dụng của sản phẩm, các sản phẩm trung gian (dùng cho quá
trình sản xuất tiếp theo) năm 2016 tăng 5% so với năm trước; sản phẩm phục vụ
cho sử dụng cuối cùng tăng 9,1% (trong đó sản phẩm là tư liệu sản xuất tăng
11,4%; sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng của dân cư tăng 8%). Chỉ số sản xuất sản
phẩm trung gian thấp hơn so với chỉ số sản xuất sản phẩm phục vụ sử dụng cuối
cùng cho thấy, sản phẩm trung gian trong sản xuất công nghiệp của nước ta còn
phụ thuộc khá nhiều vào nguồn nhập khẩu.
Trong năm 2016, một số ngành công nghiệp cấp II có chỉ số sản xuất tăng
cao so với năm trước: Sản xuất kim loại tăng 17,9%; dệt tăng 17,3%; sản xuất xe
có động cơ tăng 16,4%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm
quang học tăng 12,8%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng
12,6%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 12,5%. Một số ngành có mức tăng thấp
hoặc giảm: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 3,2%; khai khoáng khác
tăng 2,2%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 1,2%; khai thác than
cứng và than non giảm 2,9%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 8,0% (do
giá dầu thế giới ở mức thấp, kế hoạch khai thác dầu thô năm nay chỉ bằng 89%
mức thực hiện năm 2015).

Trong năm 2016, một số sản phẩm công nghiệp tăng cao so với năm trước:
14


Ti vi tăng 70%; thép cán tăng 26,8%; ô tô tăng 21,9%; sắt, thép thô tăng 20,5%;
thức ăn cho gia súc tăng 18,3%; xi măng tăng 14,4%; sữa bột tăng 13,3%. Một số
sản phẩm tăng thấp hoặc giảm: Thuốc lá điếu tăng 3,5%; giày, dép da tăng 2,8%;
khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 0,5%; vải dệt từ sợi tự nhiên giảm 2,6%; than
đá giảm 3,1%; phân ure giảm 5,8%; đường kính giảm 8,3%; dầu thô khai thác
giảm 9,9%; phân hỗn hợp NPK giảm 10,6%; điện thoại di động giảm 10,8%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2016 so với năm 2015 của một số địa
phương như sau: Quảng Nam tăng 30%; Thái Nguyên tăng 24%; Hải Phòng tăng
16,8%; Đà Nẵng tăng 13,1%; Bình Dương tăng 10,3%; Hải Dương tăng 8,9%;
Đồng Nai tăng 8,5%; Cần Thơ tăng 8,3%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 7,4%; Hà
Nội tăng 7%; Vĩnh Phúc tăng 6,8%; Bắc Ninh tăng 5%; Quảng Ninh tăng 0,9%;
Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 6,3%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 11/2016
tăng 4% so với tháng trước và tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính
chung 11 tháng, chỉ số tiêu thụ tăng 8,4% so với cùng kỳ năm 2015 (cùng kỳ năm
trước tăng 12,6%), trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất xe
có động cơ tăng 20,8%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm
quang học tăng 15,1%; sản xuất đồ uống tăng 11,9%; sản xuất kim loại tăng
11,9%; sản xuất trang phục tăng 10,7%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại
khác tăng 10,6%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp: Sản xuất thiết bị điện
tăng 6,3%; sản xuất, chế biến thực phẩm và sản xuất sản phẩm từ cao su, plastic
cùng tăng 6,1%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 3,2%; sản xuất
thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 2,8%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 2,7%;
sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 1,4%.
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm
01/12/2016 tăng 8,1% so với cùng thời điểm năm trước, là mức tồn kho thấp nhất

trong nhiều năm qua (cùng thời điểm năm 2015 tăng 9,5%), trong đó một số
ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm: Sản xuất chế
biến thực phẩm tăng 6,5%; dệt tăng 6%; sản xuất trang phục giảm 1,5%; sản xuất
hóa chất và các sản phẩm hóa chất giảm 4,3%; sản xuất thiết bị điện giảm
7,4%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 9,6%; sản xuất sản phẩm từ
kim loại đúc sẵn giảm 10%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 13%; sản
xuất sản phẩm thuốc lá giảm 27,5%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao hơn
mức tăng chung: Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 117,8%; sản xuất sản
phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 93,5%; sản xuất đồ uống
tăng 40,4%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 26,5%.
15


Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân 11 tháng
năm 2016 là 66,1% (cùng kỳ năm trước là 72,3%), trong đó một số ngành có tỷ lệ
tồn kho cao: Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) là
125,7%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu là 112,6%; sản xuất hóa chất và
sản phẩm hóa chất 108,2%; sản xuất, chế biến thực phẩm 84,9%.
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời
điểm 01/12/2016 tăng 2,9% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động
khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 2,6%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng
1,8%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 4,9%. Tại thời điểm
trên, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm
6,9% so với cùng thời điểm năm trước; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng
3,5%; ngành sản xuất, phân phối điện giảm 1,3%; ngành cung cấp nước, xử lý rác
thải, nước thải tăng 2,3%.
Lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/12/2016 so
với cùng thời điểm năm trước của một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn
như sau: Hải Phòng tăng 13,9%; Bắc Ninh tăng 8,1%; Bình Dương tăng 7,9%;
Vĩnh Phúc tăng 6,6%; Đồng Nai tăng 4,1%; Đà Nẵng tăng 3,1%; Hải Dương tăng

2,2%; Hà Nội tăng 1,5%; Quảng Nam tăng 1,1%; Cần Thơ tăng 0,9%; thành phố
Hồ Chí Minh tăng 0,3%; Thái Nguyên tăng 0,2%; Quảng Ninh giảm 1,9%.
Nhìn chung, tăng trưởng ngành công nghiệp năm 2016 chủ yếu dựa vào
ngành chế biến, chế tạo với mức tăng khá cao; tình hình tiêu thụ sản phẩm thuận
lợi, tồn kho ở mức thấp nhất trong nhiều năm vừa qua. Tuy nhiên, tăng trưởng
công nghiệp nước ta vẫn chủ yếu về bề rộng (tăng số doanh nghiệp, tăng vốn đầu
tư và thu hút lao động), trong khi năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh còn hạn chế.

d. Hoạt động của doanh nghiệp:
- Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo trong quý IV/2016 cho thấy: Có 80,6% số doanh nghiệp
đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý IV ổn định và tốt hơn quý trước (có
41,2% số doanh nghiệp đánh giá tốt lên; 39,4% số doanh nghiệp đánh giá ổn
định), trong khi 19,4% số doanh nghiệp đánh giá còn gặp khó khăn. Dự báo trong
quý I/2017, có 81,1% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh sẽ
ổn định và tốt lên, trong đó có 42,6% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt
16


lên; 38,5% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và
18,9% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn.
Về khối lượng sản xuất, có 43,2% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản
xuất của doanh nghiệp quý IV năm nay tăng so với quý trước; 20,1% số doanh
nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất giảm và 36,7% số doanh nghiệp cho rằng ổn
định. Trong quý I/2017, có 43,3% doanh nghiệp dự báo khối lượng sản xuất tăng
lên so với quý IV/2016; 18% số doanh nghiệp dự báo giảm và 38,7% số doanh
nghiệp dự báo ổn định.
Về đơn đặt hàng, có 37,2% số doanh nghiệp có số đơn đặt hàng quý IV

năm nay cao hơn quý trước; 19,5% số doanh nghiệp có số đơn đặt hàng giảm và
43,3% số doanh nghiệp có số đơn đặt hàng ổn định. Xu hướng quý I/2017 so với
quý IV/2016, có 39,3% số doanh nghiệp dự kiến có số đơn đặt hàng cao hơn;
16,7% số doanh nghiệp dự kiến đơn hàng giảm và 44,0% số doanh nghiệp dự
kiến có đơn hàng ổn định.
Về đơn đặt hàng xuất khẩu, có 30,6% số doanh nghiệp cho biết số đơn
hàng xuất khẩu quý IV năm nay cao hơn quý trước; 18,3% số doanh nghiệp có
đơn hàng xuất khẩu giảm và 51,1% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu ổn
định. Xu hướng quý I/2017 so với quý IV/2016, có 34,8% số doanh nghiệp dự
kiến tăng đơn hàng xuất khẩu; 16,8% số doanh nghiệp dự kiến giảm và 48,4% số
doanh nghiệp dự kiến ổn định.
Về chi phí sản xuất,có 23,1% số doanh nghiệp khẳng định chi phí sản xuất
trên một đơn vị sản phẩm quý IV năm nay tăng so với quý trước; 9% số doanh
nghiệp cho biết chi phí giảm và 67,9% số doanh nghiệp cho rằng chi phí ổn định.
Xu hướng trong quý I/2017, có 19,8% số doanh nghiệp dự kiến chi phí sản xuất
sẽ tăng so với quý IV/2016; 10% số doanh nghiệp cho rằng chi phí giảm và
70,2% số doanh nghiệp dự kiến chi phí sản xuất ổn định.
Về giá bán sản phẩm, quý IV năm nay so với quý trước, có 15,7% doanh
nghiệp cho biết có giá bán sản phẩm tăng; 10% số doanh nghiệp có giá bán thấp
hơn và 74,3% số doanh nghiệp có giá bán sản phẩm ổn định. Dự kiến giá bán sản
phẩm quý I/2017 so với quý IV/2016, có 16,3% số doanh nghiệp cho rằng giá bán
sản phẩm sẽ cao hơn; 7,9% số doanh nghiệp dự báo giá bán sẽ thấp hơn và 75,8%
số doanh nghiệp dự báo giá bán sản phẩm sẽ ổn định.
Về tình hình tồn kho thành phẩm, có 18,7% số doanh nghiệp có lượng tồn
kho quý IV năm nay tăng so với quý trước; 34,2% số doanh nghiệp có lượng tồn
kho giảm và 47,1% số doanh nghiệp giữ ổn định. Xu hướng quý I/2017 so với
quý IV/2016, có 15,6% số doanh nghiệp dự báo lượng hàng tồn kho sẽ tăng; 33%
17



số doanh nghiệp cho rằng lượng hàng tồn kho sẽ giảm và 51,4% số doanh nghiệp
dự báo sẽ giữ ổn định.
Về tồn kho nguyên vật liệu, quý IV/2016 so với quý trước, có 17,9% số
doanh nghiệp cho biết lượng tồn kho nguyên vật liệu tăng; 31,9% số doanh
nghiệp cho là giảm và 50,2% số doanh nghiệp trả lời giữ nguyên. Dự kiến quý
I/2017 so với quý IV/2016, có 14,4% số doanh nghiệp dự báo lượng tồn kho
nguyên vật liệu tăng; 31,2% doanh nghiệp dự báo lượng tồn kho giảm và 54,4%
số doanh nghiệp dự báo sẽ không có biến động về tồn kho nguyên vật liệu.
Về sử dụng lao động, quý IV năm nay so với quý trước, có 16,9% số doanh
nghiệp khẳng định quy mô lao động tăng; 12,1% số doanh nghiệp khẳng định
giảm và 71% số doanh nghiệp cho biết giữ ổn định. Xu hướng sử dụng lao động
trong quý I/2017, có 88,8% số doanh nghiệp dự kiến sẽ tăng hoặc giữ ổn định quy
mô lao động so với quý IV/2016 và 11,2% số doanh nghiệp dự báo giảm quy mô
lao động.
e. Hoạt động dịch vụ:
- Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 12 ước
tính đạt 320,3 nghìn tỷ đồng, tăng 3,7% so với tháng trước và tăng 9,8% so với
cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 241,9 nghìn tỷ đồng,
tăng 3,8% và tăng 9,1%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 38,9 nghìn tỷ
đồng, tăng 4,2% và tăng 13,8%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 3,3 nghìn tỷ đồng,
tăng 3,6% và tăng 26,6%; doanh thu dịch vụ khác đạt 36,2 nghìn tỷ đồng, tăng
3% và tăng 8,6%.
Tính chung cả năm 2016, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ
tiêu dùng ước tính đạt 3.527,4 nghìn tỷ đồng, tăng 10,2% so với năm trước (Năm
2015 tăng 9,8%), nếu loại trừ yếu tố giá thì còn tăng 7,8%, thấp hơn mức tăng
8,5% của năm trước do sức mua không biến động lớn, trong khi giá tiêu dùng
năm nay tăng cao hơn so với năm 2015.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống năm 2016 ước tính đạt 413,4 nghìn tỷ
đồng, chiếm 11,7% tổng mức và tăng 10,7% so với năm 2015, trong đó 6 tháng

cuối năm doanh thu tăng mạnh (quý III tăng 11,8% so với cùng kỳ năm trước;
quý IV tăng 16,7%) nhờ chính sách thu hút khách du lịch được cải thiện nên
lượng khách quốc tế đến nước ta trong những tháng cuối năm tăng cao. Một số
địa phương có doanh thu tăng khá: Bình Dương tăng 17,7%; Bình Thuận tăng
17,1%; Hải Phòng tăng 16%; Hà Nội tăng 13,7%; thành phố Hồ Chí Minh
18


tăng 8,4%. Doanh thu du lịch lữ hành ước tính đạt 34,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 1%
tổng mức và tăng 12% so với năm trước, trong đó doanh thu Bà Rịa - Vũng Tàu
tăng 13,8%; Quảng Ninh tăng 13,6%; Kiên Giang tăng 13,1%; thành phố Hồ Chí
Minh tăng 11,6%; Hà Nội tăng 11,1%.
Doanh thu dịch vụ khác năm nay ước tính đạt 403,4 nghìn tỷ đồng, chiếm
11,4% tổng mức và tăng 9,3% so với năm 2015. Một số địa phương có doanh thu
tăng: Quảng Ninh tăng 15,7%; Bắc Ninh tăng 13,6%; Hưng Yên tăng 8%; Hà
Giang tăng 7,3%; Hải Phòng tăng 2,5%. Tuy nhiên có một số địa phương doanh
thu giảm so với năm trước: Lào Cai giảm 1,5%; Hòa Bình giảm 7,1%; Hà Tĩnh
giảm 15,1%.
- Vận tải và viễn thông
Vận tải hành khách tháng 12 ước tính đạt 307,5 triệu lượt khách, tăng
9,2% so với cùng kỳ năm trước và 14,6 tỷ lượt khách.km, tăng 9%. Tính chung cả
năm 2016, vận tải hành khách đạt 3.620,5 triệu lượt khách, tăng 9,6% so với năm
trước và 171,3 tỷ lượt khách.km, tăng 11%,
Vận tải hàng hóa tháng 12 ước tính đạt 114,9 triệu tấn, tăng 9,5% so với
cùng kỳ năm trước và 21 tỷ tấn.km, tăng 4,9
Trong năm 2016, doanh thu lĩnh vực viễn thông ước tính đạt 381,7 nghìn tỷ
đồng, tăng 6,6% so với năm 2015.
- Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta trong tháng Mười Hai ước tính đạt 897,3 nghìn
lượt người, trong đó khách đến từ châu Á giảm 1,6% và tăng 20,8%; từ châu Âu

giảm 17,3% và tăng 15,2%; từ châu Mỹ giảm 2% và tăng 8,1%; từ châu Phi tăng
41,3% và tăng 32,5%; từ châu Úc tăng 8,3% và giảm 4,1%.
Trong năm 2016, với các chính sách, nỗ lực thu hút khách du lịch được
triển khai như miễn thị thực cho công dân 5 nước Tây Âu, tăng cường công tác
quảng bá, xúc tiến du lịch, ứng dụng công nghệ mạng e-marketing, triển khai
chương trình quảng bá du lịch trên truyền hình, phương tiện truyền thông, đại
chúng, lần đầu tiên Việt Nam đón trên 10 triệu lượt khách quốc tế, gấp 2 lần
lượng khách quốc tế đến nước ta năm 2010.
Trong năm 2016, khách đến từ châu Âu đạt 1.617,4 nghìn lượt người, tăng
18,2% so với năm trước, trong đó: Khách đến từ Liên bang Nga 434 nghìn lượt
người, tăng 28,1%; Vương quốc Anh 254,8 nghìn lượt người, tăng 19,8%; Pháp
240,8 nghìn lượt người, tăng 13,8%; Đức 176 nghìn lượt người, tăng 18,1%; .
19


* Ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát:
a. Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm:
Tính đến thời điểm 20/12/2016, tổng phương tiện thanh toán tăng 16,47%
so với cuối năm 2015 (cùng kỳ năm trước tăng 13,55%), mặc dù tăng cao hơn so
với cùng kỳ nhưng tổng phương tiện thanh toán chưa tạo sức ép lên lạm phát, lạm
phát cơ bản ổn định. Cũng tính đến thời điểm trên, huy động vốn của các tổ chức
tín dụng tăng 16,88% (cùng kỳ năm 2015 tăng 13,59%), giúp các tổ chức tín dụng
ổn định thanh khoản, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế và
đảm bảo tỷ lệ tín dụng/huy động ở mức an toàn; tăng trưởng tín dụng của nền
kinh tế đạt 16,46% cho thấy khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp tương đối tốt
và thu nhập lãi của các ngân hàng có sự cải thiện tích cực.
Lãi suất huy động hiện nay tương đối ổn định. Lãi suất huy động bằng
đồng Việt Nam phổ biến ở mức 0,8%-1%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và
kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,5%-5,4%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến
dưới 6 tháng; 5,4%-6,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12

tháng; kỳ hạn trên 12 tháng ở mức 6,4%-7,2%/năm. Mặt bằng lãi suất cho vay
phổ biến của các lĩnh vực ưu tiên ở mức 6%-7%/năm đối với ngắn hạn, 9%10%/năm đối với trung và dài hạn. Lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh
doanh thông thường ở mức 6,8%-9%/năm đối với ngắn hạn; 9,3%-11%/năm đối
với trung và dài hạn. Nhìn chung, cơ cấu tín dụng đang tiếp tục theo hướng tập
trung vào các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ,
doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm hỗ trợ có hiệu quả cho tăng trưởng kinh tế.
Thị trường bảo hiểm năm 2016 duy trì tăng trưởng tích cực. Doanh thu phí
bảo hiểm toàn thị trường ước tính tăng 22,1% so với năm trước, trong đó doanh
thu phí bảo hiểm nhân thọ tăng 30,5%; doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ tăng
12,5%. Tỷ lệ thực bồi thường bảo hiểm gốc trong bảo hiểm phi nhân thọ ước tính
32,98% (cùng kỳ năm 2015 là 41,47%).
b. Xây dựng, đầu tư:
- Xây dựng
Hoạt động xây dựng trong năm 2016 đạt khá nhờ giá vật liệu xây dựng ổn
định, mặt bằng lãi suất thấp cùng sự cải thiện của thị trường bất động sản. Bên
cạnh đó, Chính phủ và Bộ, ngành đã có các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng
mắc, đẩy nhanh giải ngân vốn cho các công trình, dự án xây dựng. Giá trị sản
xuất xây dựng năm 2016 theo giá hiện hành ước tính đạt 1.089,3 nghìn tỷ đồng,
bao gồm: Khu vực Nhà nước đạt 83,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 7,7%; khu vực ngoài
20


Nhà nước 952,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 87,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
53,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 4,9%. Trong tổng giá trị sản xuất, giá trị sản xuất xây
dựng công trình nhà ở đạt 428,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 39,3%; công trình nhà
không để ở đạt 188,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 17,3%; công trình kỹ thuật dân dụng
đạt 344,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 31,6%; hoạt động xây dựng chuyên dụng đạt
128,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,8%.
Theo giá so sánh 2010, giá trị sản xuất xây dựng năm 2016 ước tính tăng
10,1% so với năm 2015, bao gồm: Khu vực Nhà nước tăng 1,7%; khu vực ngoài

Nhà nước tăng 12,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 10,9% do một số
dự án có vốn đầu tư lớn đã kết thúc giai đoạn xây dựng hoặc hoàn thành đi vào
hoạt động sản xuất như các công trình ở khu công nghiệp Formosa Hà Tĩnh, Công
ty Điện tử Samsung Vina Thái Nguyên. Trong tổng giá trị sản xuất, giá trị sản
xuất xây dựng công trình nhà ở tăng 13,6%; công trình nhà không để ở giảm
2,5%; công trình kỹ thuật dân dụng tăng 13,1%; hoạt động xây dựng chuyên dụng
tăng 11,8%.
- Đầu tư phát triển
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2016 theo giá hiện hành ước
tính đạt 1.485,1 nghìn tỷ đồng, tăng 8,7% so với năm 2015 và bằng 33% GDP,
bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 557,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 37,6% tổng vốn
và tăng 7,2%; vốn khu vực ngoài Nhà nước đạt 579,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 39%
và tăng 9,7%; vốn khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 347,9 nghìn tỷ
đồng, chiếm 23,4% và tăng 9,4%.

Tình hình thực hiện vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước những tháng cuối
năm đạt khá. Các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tiến
độ giải ngân các công trình dự án theo tinh thần Nghị quyết số 60/NQ-CP ngày
08/7/2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy nhanh tiến
độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2016; Công điện số
2144/CĐ-TTg ngày 29/11/2016 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy nhanh tiến độ
giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2016 và thực hiện các Nghị quyết của
Quốc hội về kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 và kế hoạch
năm 2017.
Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thực hiện năm 2016 ước tính đạt 268,6
nghìn tỷ đồng, bằng 97,8% kế hoạch năm và tăng 15,1% so với năm 2015, gồm
có:
21



+ Vốn trung ương quản lý đạt 62,6 nghìn tỷ đồng, bằng 95,3% kế hoạch
năm và tăng 14,9% so với năm trước, trong đó vốn thực hiện của Bộ Giao thông
Vận tải là 21,2 nghìn tỷ đồng, bằng 101,3% và tăng 21,5%; Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn 7.069 tỷ đồng, bằng 100,2% và tăng 14,4%; Bộ Giáo dục và
Đào tạo 2.725 tỷ đồng, bằng 84,6% và tăng 36,1%; Bộ Y tế 2.694 tỷ đồng, bằng
86,7% và tăng 17,1%; Bộ Xây dựng 903 tỷ đồng, bằng 97,3% và giảm 47,7%; Bộ
Tài nguyên và Môi trường 713 tỷ đồng, bằng 79,6% và tăng 4,4%; Bộ Văn hoá,
Thể thao và Du lịch 564 tỷ đồng, bằng 83,2% và giảm 4%; Bộ Công Thương 463
tỷ đồng, bằng 99,6% và tăng 8,6%; Bộ Khoa học và Công nghệ 295 tỷ đồng, bằng
102% và giảm 10,8%; Bộ Thông tin và Truyền thông 122 tỷ đồng, bằng 90,3% và
giảm 30,6%.
+ Vốn địa phương quản lý đạt 206 nghìn tỷ đồng, bằng 98,6% kế hoạch
năm và tăng 15,2% so với năm 2015. Trong đó, vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh
đạt 146 nghìn tỷ đồng, bằng 94,7% và tăng 18,8%; vốn ngân sách Nhà nước cấp
huyện đạt 49,5 nghìn tỷ đồng, bằng 106,6% và tăng 8,6%; vốn ngân sách Nhà
nước cấp xã đạt 10,5 nghìn tỷ đồng, bằng 126% và tăng 0,7%. Một số địa phương
có số vốn thực hiện lớn: Hà Nội đạt 31,6 nghìn tỷ đồng, bằng 103,8% kế hoạch
năm và tăng 45,5% so với năm trước; thành phố Hồ Chí Minh 21,2 nghìn tỷ đồng,
bằng 84,1% và tăng 9,4%; Quảng Ninh 7,7 nghìn tỷ đồng, bằng 120% và tăng
25,1%; Bình Dương 6,6 nghìn tỷ đồng, bằng 102,4% và tăng 32,7%; Nghệ An 5,6
nghìn tỷ đồng, bằng 96,6% và tăng 15,2%; Vĩnh Phúc 5,4 nghìn tỷ đồng, bằng
101,5% và tăng 6,8%; Bà Rịa - Vũng Tàu 5 nghìn tỷ đồng, bằng 82,1% và tăng
8,9%.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 26/12/2016 thu
hút 2.556 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 15.182,3 triệu USD, tăng
27% về số dự án và giảm 2,5% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015. Bên
cạnh đó, có 1.225 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh
vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 5.765,1 triệu USD, tăng 50,5% về số dự án
và giảm 19,7% về vốn tăng thêm.
Trong năm 2016 có 2.547 doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có nhà đầu tư

nước ngoài góp vốn mua cổ phần (với tỷ lệ vốn lớn hơn 50% vốn điều lệ hoặc
thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện) với tổng vốn đầu tư là 3.425,3 triệu USD. Như
vậy, tính chung tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới, cấp vốn bổ sung và đầu
tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần trong năm 2016 đạt 24.372,7 triệu USD,
tăng 7,1% so với năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2016
ước tính đạt 15,8 tỷ USD, tăng 9% so với năm 2015, đạt mức giải ngân vốn FDI
22


cao nhất từ trước đến nay.
Trong năm nay, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký của các dự án được cấp phép mới đạt
9.812,6 triệu USD, chiếm 64,6% tổng vốn đăng ký cấp mới; hoạt động kinh
doanh bất động sản đạt 1.522,7 triệu USD, chiếm 10,1%; ngành bán buôn và bán
lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 367 triệu USD, chiếm
2,4%; các ngành còn lại đạt 3.480 triệu USD, chiếm 22,9%. Nếu tính cả vốn đăng
ký bổ sung của các dự án đã cấp phép từ các năm trước và góp vốn, mua cổ phần
thì tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
năm nay đạt 15.538,6 triệu USD, chiếm 63,8% tổng vốn đăng ký; ngành bán buôn
và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 1.899,2 triệu
USD, chiếm 7,8%; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 1.686,2 triệu USD,
chiếm 6,9%; các ngành còn lại đạt 5.248,7 triệu USD, chiếm 21,5%.
Cả nước có 51 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài được cấp phép mới trong năm 2016, trong đó Hải Phòng có số
vốn đăng ký lớn nhất với 2.464,3 triệu USD, chiếm 16,2% tổng vốn đăng ký cấp
mới; tiếp đến là Hà Nội 1.922,8 triệu USD, chiếm 12,7%; Bình Dương 1.630,5
triệu USD, chiếm 10,7%; Đồng Nai 1.043,7 triệu USD, chiếm 6,9%; thành phố
Hồ Chí Minh 1.006,7 triệu USD, chiếm 6,6%; Bắc Giang 937,5 triệu USD, chiếm
6,2%; Hà Nam 604,3 triệu USD, chiếm 4%.
Trong số 68 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới

tại Việt Nam năm nay, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 5.518,6 triệu USD,
chiếm 36,3% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Xin-ga-po 1.590,5 triệu USD,
chiếm 10,5%; Trung Quốc 1.263,2 triệu USD, chiếm 8,3%; Đặc khu Hành chính
Hồng Công (TQ) 1.102,7 triệu USD, chiếm 7,3%; Nhật Bản 868,1 triệu USD,
chiếm 5,7%; Đài Loan 826 triệu USD, chiếm 5,4%.
Tổng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi ký
kết trong năm 2016 ước tính đạt 5,38 tỷ USD, tăng 39,7% so với năm 2015. Giá
trị giải ngân vốn ODA và vốn vay ưu đãi từ đầu năm đến 21/12/2016 đạt khoảng
3,5 tỷ USD. Ước tính cả năm 2016, giải ngân ODA và vốn vay ưu đãi đạt 3,7 tỷ
USD, bằng 80,4% mức giải ngân năm 2015.
c. Thu, chi ngân sách Nhà nước:
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2016
ước tính đạt 943,3 nghìn tỷ đồng, bằng 93% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt
744,9 nghìn tỷ đồng, bằng 94,9%; thu từ dầu thô đạt 37,7 nghìn tỷ đồng, bằng
23


69,2%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 156,2 nghìn
tỷ đồng, bằng 90,8%.
Trong thu nội địa, thu tiền sử dụng đất đạt 77,9 nghìn tỷ đồng, bằng
155,8% dự toán năm; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước
144,7 nghìn tỷ đồng, bằng 100,8%; thuế bảo vệ môi trường 38,7 nghìn tỷ đồng,
bằng 100,7%; thuế thu nhập cá nhân 61,7 nghìn tỷ đồng, bằng 97%; thu từ doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 147,7 nghìn tỷ đồng, bằng
92,9%. Riêng thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 193,7 nghìn tỷ đồng, chỉ
bằng 75,6% dự toán năm. Bộ Tài chính đang tích cực chỉ đạo các cơ quan Thuế,
Hải quan quyết liệt thực hiện thu hồi nợ đọng thuế và các khoản phải thu qua
công tác thanh tra, kiểm toán; đôn đốc thu kịp thời vào ngân sách Nhà nước từ
bán vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2016 ước

tính đạt 1.135,5 nghìn tỷ đồng, bằng 89,2% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát
triển đạt 190,5 nghìn tỷ đồng, bằng 74,7%; chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính đạt 786 nghìn tỷ đồng, bằng 95,4%;
chi trả nợ và viện trợ đạt 150,3 nghìn tỷ đồng, bằng 96,9%.
d. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ:
- Xuất khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng 11 đạt 16.132 triệu USD,
cao hơn 532 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện thoại và linh kiện cao
hơn 274 triệu USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác cao hơn 103 triệu
USD; giày dép cao hơn 67 triệu USD; hàng dệt may cao hơn 47 triệu USD; dầu
thô cao hơn 30 triệu USD; điện tử máy tính và linh kiện thấp hơn 66 triệu USD;
gạo thấp hơn 36 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 12/2016 ước tính đạt 16,00 tỷ USD,
giảm 0,8% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 4,68 tỷ
USD, tăng 8,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 11,32 tỷ
USD, giảm 4,2%. Kim ngạch xuất khẩu giảm so với tháng trước chủ yếu do một
số mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn giảm mạnh: Điện thoại và linh kiện giảm 11,4%;
điện tử, máy tính và linh kiện giảm 4,5%, mặc dù có một số mặt hàng kim ngạch
xuất khẩu tăng: Cà phê tăng 41,5%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 10,3%; hàng dệt,
may tăng 5,4%; giày dép tăng 2,7%. So với tháng 12/2015, kim ngạch xuất khẩu
tăng 16,9%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 6,1%; khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 22,1%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất
khẩu tăng so với cùng kỳ: Điện thoại và linh kiện tăng 67,9%; điện tử, máy tính
24


và linh kiện tăng 37,8%; máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng 38,7%.
Tính chung cả năm 2016, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 175,9
tỷ USD, tăng 8,6% so với năm trước (Năm 2015 tăng 7,9%), trong đó khu vực
kinh tế trong nước đạt 50,0 tỷ USD, tăng 4,8%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài

(kể cả dầu thô) đạt 125,9 tỷ USD, tăng 10,2% (Nếu không kể dầu thô, kim ngạch
hàng hóa xuất khẩu đạt 123,5 tỷ USD, tăng 11,8%). Kim ngạch hàng hóa xuất
khẩu năm nay tăng thấp do giá hàng hóa xuất khẩu bình quân giảm 1,8% so với
năm trước, trong đó nhóm hàng nhiên liệu giảm tới 20,1%; nhóm hàng nông sản
thực phẩm giảm 3,8%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu
năm 2016 đạt 179,2 tỷ USD, tăng 10,6% so với năm 2015. Kim ngạch xuất khẩu
một số mặt hàng gia công, lắp ráp (với tỷ trọng lớn thuộc về các doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài) tăng so với năm trước: Điện thoại và linh kiện
đạt 34,5 tỷ USD, tăng 14,4%; dệt may đạt 23,6 tỷ USD, tăng 3,3%; điện tử, máy
tính và linh kiện đạt 18,5 tỷ USD, tăng 18,4%; giày dép đạt 12,9 tỷ USD, tăng
7,6%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 10,5 tỷ USD, tăng 28,4%. Xuất
khẩu một số mặt hàng nông sản và nguyên liệu thô giảm so với năm trước: Dầu
thô đạt 2,3 tỷ USD, giảm 36,7% (lượng giảm 24,2%); gạo đạt 2,2 tỷ USD, giảm
21,7% (lượng giảm 25,7%); sắn và sản phẩm từ sắn đạt 996 triệu USD, giảm
24,3% (lượng giảm 10,9%).
Cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm nay thay đổi không đáng kể so
với năm trước, trong đó nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản đạt 79,8 tỷ
USD, tăng 8,9% và chiếm 45,4% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu (tăng 0,1
điểm phần trăm so với năm 2015); nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công
nghiệp đạt 71 tỷ USD, tăng 9% và chiếm 40,4% (tăng 0,2 điểm phần trăm); nhóm
hàng nông, lâm sản đạt 18,1 tỷ USD, tăng 6,5% và chiếm 10,3% (giảm 0,2 điểm
phần trăm); hàng thủy sản ước đạt 7 tỷ USD, tăng 6,8% và chiếm 4% (giảm 0,1
điểm phần trăm).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu năm 2016, Hoa Kỳ vẫn là thị trường dẫn
đầu với 38,1 tỷ USD, tăng 14% so với năm 2015. Tiếp đến là thị trường EU đạt
34 tỷ USD, tăng 10%; Trung Quốc đạt 21,8 tỷ USD, tăng 26,3%; Nhật Bản đạt
14,6 tỷ USD, tăng 3,4%; Hàn Quốc đạt 11,5 tỷ USD, tăng 29%; riêng xuất khẩu
sang thị trường ASEAN đạt 17,4 tỷ USD, giảm 4,8%.
- Nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng 11/2016 đạt 16.375 triệu

USD, cao hơn 375 triệu USD so với số ước tính, trong đó máy móc thiết bị, dụng
cụ phụ tùng khác cao hơn 237 triệu USD; xăng dầu cao hơn 75 triệu USD; vải cao
hơn 63 triệu USD; hóa chất cao hơn 51 triệu USD; điện tử máy tính và linh kiện
25


×