Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của bộ đội biên phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.32 MB, 89 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI








VƯƠNG TRƯỜNG NAM

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÊ xử LÝ
VI PHẠM
■ HÀNH CHÍNH TRONG QÁC LĨNH vực

THUỘC THẨM QUYỂN CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60.38.01

r----------------- T “ ----THƯ V I ỆN
TRƯỜNG ĐAI HỌC LUẢĨ h à n ô i
PHONG G V _

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC









NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Trần Minh Hương

HÀ NỘI - 2006


£



i

e ả n

t ổ n

ĩ

ObÌẾLthủn thành eAnt tín, 'xĩìên ÃĨ Ỡ rait Jìưjnh 'Tũư&tựị.
@hẳ nhiệm 3Chứ€L 'Tôàttit ehúĩh. - OlhỀL nutốe. trường, ^ 9«/
họe ẨLuÂt '3Ũ
ỄL(ìtặL. @
ẨLnt Ờ
*Leáe thầự cỡ giắở- &rưỉfnjQ, (Đại

h ạ e Ẩ tu ã t '7ÔỀL Q tộ i aỎL Ể ổ Ể ĩ tề n g

ngitiềp đã. giúp,

đ s h jờ à n

thành Mitâềt aăn nÙJf.
^7áe ạJAMuộn, aăn

(Dường, & tưởng, Q latn


MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
Chương 1:

1
Một sô vấn đề lý luận về xử lý vi phạm hành
chính trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của

7

Bộ đội biên phòng.

1. 1.

Vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính
trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của Bộ đội biên


7

phòng.

1.2 .

Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về xử lý
vi phạm hành chính trong các lĩnh vực thuộc thẩm

20

quyền của Bộ đội biên phòng.
Chương 2:

Thực trạng quy định và thực hiện pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực thuộc

28

thẩm quyền của Bộ đội biên phòng.

2 . 1.

Sự hình thành và phát triển của pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính trong các lĩnh vực thuộc thẩm

28

quyền của Bộ đội biên phòng.


2.2.

Thực trạng chế định xử lý vi phạm hành chính eó
liên quan đến thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính

32

của Bộ đội biên phòng.
2.3.

Khái quát về vi phạm hành chính và xử lý vi phạm
hành chính trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của

42

Bộ đội biên phòng.
Chương 3:

Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật
về xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực
thuộc thẩm quyền của Bộ đội biên phòng.

52


3.1.

Quan điểm và phương hướng hoàn thiện pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực thuộc
thẩm quyền của Bộ đội biên phòng.


3.2.

Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính trong các lĩnh vực thuộc thẩm
quyền của Bộ đội biên phòng.

Kết luận
Danh muc tài liêu tham khảo


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BĐBP

Bộ đội biên phòng

BGQG

Biên giới quốc gia

ĐUQT

Điều ước quốc tế

HTXP

Hình thức xử phạt

KPHQ


Khắc phục hậu quả

KVBG

Khu vực biên giới

TNHC

Trách nhiệm hành chính

TPHS

Tội phạm hình sự

TTATXH

Trật tự an toàn xã hội

TTHC

Thủ tục hành chính

QĐXP

Quyết định xử phạt

QHXH

Quan hệ xã hội


QLNN

Quản lý nhà nước

QPPL

Quy phạm pháp luật

UBND

u ỷ ban nhân dân

VBPL

Văn bản pháp luật

VPHC

Vi phạm hành chính

VPPL

Vi phạm pháp luật

XLHC

Xử lý hành chính

XLVPHC


Xử lý vi phạm hành chính

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

XPHC

Xử phạt hành chính


1

M Ở ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bộ đội biên phòng là lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng, của Nhà
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, là một thành phần của Quân đội nhân dân
Việt Nam, làm nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ, an ninh trật tự BGQG trên đất liền, các hải đảo, vùng biển và tại các
cửa khẩu theo phạm vi nhiệm vụ do pháp luật quy định.
Bộ đội biên phòng tiến hành các biện pháp tác động có tổ chức trên cơ
sở pháp luật đến các quá trình kinh tế - xã hội và hành vi của cá nhân, tổ chức
diễn ra trên địa bàn, lĩnh vực quản lý để duy trì và phát triển các mối quan hệ
kinh tế - xã hội và trật tự pháp luật về BGQG, nhằm thực hiện những chức
năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc bảo vệ và phát triển kinh tế,
văn hoá - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị và
TTATXH, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh
BGỌG. Như vậy, ỌLNN về BGỌG còn bao hàm cả việc đấu tranh ngăn chặn
và xử lý các VPPL về BGQG, trong đó có VPHC xảy ra trên các lĩnh vực
thuộc thẩm quyền của BĐBP.

Trong giai đoạn hiện nay, do tác động của mặt trái nền kinh tế thị
trường trong xu thế mở rộng hội nhập quốc tế và khu vực, các hoạt động lưu
thông ở KVBG, cửa khẩu và vùng biển của người, phương tiện, hàng hoá rất
đa dạng, nên tình hình VPHC ngày càng gia tăng, mang tính đa quốc gia và đa
dạng, phức tạp cả về đối tượng, địa bàn, lĩnh vực vi phạm. Chính vì lẽ đó, đấu
tranh phòng ngừa và chống VPHC, góp phần giữ vững an ninh, TTATXH, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tăng
cường pháp chế XHCN, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước là một
nhiệm vụ cấp thiết trong tình hình hiện nay của BĐBP.
Pháp lệnh BĐBP 1997 quy định BĐBP được tiến hành hoạt động
XLVPHC theo quy định của pháp luật về XLVPHC.


2

Pháp luật về XLVPHC quy định về thẩm quyền XLVPHC của BĐBP ở
nhiều văn bản khác nhau. Nhìn chung, các VBPL quy định về thẩm quyền
XLVPHC của BĐBP ngày càng hoàn thiện, phát triển và có sự kế thừa, đáp
ứng yêu cầu QLNN, quản lý xã hội. Nguồn quan trọng, chủ yếu tạo thành
pháp luật hiện hành về XLVPHC trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của
BĐBP bao gồm: Pháp lệnh XLVPHC 2002 với trên 50 Nghị định của Chính
phủ. Ngoài ra, để tiến hành XLVPHC đối với các đối tượng VPHC xảy ra trên
địa bàn, lĩnh vực quản lý của BĐBP là cá nhân, tổ chức nước ngoài thì BĐBP
phải căn cứ vào các VBPL về quản lý, bảo vệ BGQG; các hiệp ước, hiệp định
về quy chế biên giới, các ĐUQT có liên quan mà Việt Nam ký kết và gia
nhập.
Tuy nhiên, qua bốn năm thực hiện, Pháp lệnh XLVPHC 2002 cũng đã
bộc lộ những hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu khắc phục. Có thể nêu một
số tồn tại chủ yếu như : các quy định trong Pháp lệnh còn thiếu hoặc chung
chung, có quy định không rõ ràng, chưa phù hợp; việc ban hành văn bản để

quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh nhìn chung còn chậm,
không ít trường hợp quá chậm, chưa đáp ứng yêu cầu triển khai thực hiện ngay
sau khi Pháp lệnh có hiệu lực. Mặt khác, nhiều văn bản hướng dẫn cụ thể hoá
Pháp lệnh vẫn thể hiện sự thiếu đồng bộ, chưa kịp thời, các quy định mang
tính chất “vừa thừa lại vừa thiếu ” không ít các hướng dẫn chưa cụ thể hoặc
còn chồng chéo, mâu thuẫn rất khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền khi
áp dụng. Hơn nữa, thực tiễn hoạt động XLVPHC trong các lĩnh vực thuộc
thẩm quyền của BĐBP chỉ ra vướng mắc, bất hợp lí cần phải sửa đổi, bổ sung
các quy định về những vấn đề liên quan đến nguyên tắc XLVPHC, nguyên tắc
xác định thẩm quyền XLVPHC; đối tượng bị XLVPHC; HTXP, các biện pháp
KPHQ do VPHC gây ra, các biện pháp ngăn chặn VPHC và đảm bảo việc
XLVPHC; thủ tục áp dụng. Những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng pháp luật về XLVPHC trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của BĐBP
cần được làm rõ nguyên nhân và đưa ra phương hướng, kiến nghị giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho BĐBP tiến hành


3

XLVPHC trên địa bàn KVBG, cửa khẩu và vùng biển đảm bảo đúng đối
tượng, đúng hành vi, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức,
góp phần thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh
BGQG.
Xuất phát từ những lý do trên, Tôi chọn Đề tài: “Hoàn thiện pháp luật
về XLVPHC trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của BĐBP” làm luận văn
thạc sỹ luật học, với mong muốn góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật về
QLNN về BGQG nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ BGQG của BĐBP.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về lý luận cũng như thực tiễn vấn đề “Vi phạm hành chính và xử lý vi
phạm hành chính” đã và đang được sự quan tâm của rất nhiều nhà khoa học.

Các tác giả đều xem xét vấn đề này dưới góc độ riêng của mình. Chẳng hạn
như công trình khoa học: “Chế tài hành chính - Lý luận và thực tiễn”, Luận án
phó tiến sĩ luật học của Vũ Thư năm 1995; “Hoàn thiện các quy định pháp
luật về hình thức XPHC”, Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Trọng Bình
năm 2000; “Thẩm quyền XLVPHC”, Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn
Thị Thuỷ năm 2001; “Một số vấn đề vi phạm và XLVPHC trong lĩnh vực quản
lý, sử dụng đất đai”, Luận văn thạc sỹ luật học của Trịnh Mai Huyền năm
2002; “Hoàn thiện pháp luật về XLHC với người chưa thành niên”, Luận văn
thạc sỹ luật học của Nguyễn Ngọc Bích năm 2003; Các bài viết trên Tạp chí
Luật học như: “Bàn về XLVPHC” của PTS. Trần Minh Hương số 4/1999;
“Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật về xử phạt VPHC” bài viết của ThS, Lê
Vương Long số tháng 9/2003; “Về nguyên tắc xác định thẩm quyền xử phạt
VPHC” bài viết của ThS. Trần Thị Hiền số tháng 9/2003; “Thủ tục xử phạt
VPHC” bài viết của ThS. Bùi Thị Đào số tháng 9/2003; bài viết của TS. Trần
Minh Hương: “Thẩm quyền ban hành văn bản QPPL về XLVPHC”, số
5/2005; “Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 - những vấn đề đặt ra cho công tác xử
phạt VPHC ở đồn Biên phòng” bài viết của Vương Trường Nam số 2/2003,
Thông tin khoa học, Học viện Biên phòng.


4

Nhìn chung, các bài viết, công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến
nhiều khía cạnh và ở mức độ khác nhau về VPHC và XLVPHC. Nội dung
nghiên cứu đề cập đến những vấn đề như chế tài hành chính, thẩm quyền
XLVPHC, HTXP, thủ tục xử phạt, ... có rất nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi
phải hoàn thiện pháp luật về XLVPHC là cơ sở lý luận và thực tiễn tiến tới xây
dựng Bộ luật XLVPHC. Trong Nghị quyết của Quốc hội số 49/2005/NQQH11 ngày 19/11/2005 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2006
có nội dung xây dựng dự án Bộ luật XLVPHC trong 11 dự án luật trong
chương trình chuẩn bị. Điều đó chứng tỏ rằng vấn đề XLVPHC trong tình

hình hiện nay đã và đang được quan tâm nghiên cứu. Song cho đến nay chưa
có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về hoàn
thiện pháp luật về XLVPHC trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của BĐBP
dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật và hoạt động XLVPHC
trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của BĐBP. Tuy nhiên, vấn đề hoàn thiện
pháp luật về XLVPHC trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của BĐBP có nội
dung rất rộng, trong khuôn khổ của một luận văn cao học không cho phép giải
quyết mọi vấn đề. Cho nên, luận văn chỉ đề cập và nghiên cứu một cách khái
quát những vấn đề cơ bản về XLVPHC trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền
của BĐBP.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là lý luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; phương pháp
duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử.
Đồng thời tác giả luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như
thống kê, so sánh, điều tra khảo sát, phân tích, tổng hợp khi nghiên cứu đề tài
này.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài


5

- Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là góp phần làm sáng tỏ lý luận
và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về XLVPHC trong các lĩnh vực
thuộc thẩm quyền của BĐBP. Từ đó, phân tích quan điểm, phương hướng và
kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về XLVPHC trong các lĩnh vực
thuộc thẩm quyền của BĐBP.
- Để thực hiện mục đích đó luận văn có nhiệm vụ sau:

+ Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận về XLVPHC trong các lĩnh vực
thuộc thẩm quyền của BĐBP.
+ Đánh giá thực trạng quy định và thực hiện pháp luật về XLVPHC
trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của BĐBP.
+ Phân tích quan điểm, phương hướng và kiến nghị giải pháp hoàn thiện
pháp luật về XLVPHC trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của BĐBP.
6.

Những kết quả nghiên cứu mói của Luận văn

- Những đóng góp của luận văn:
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống về việc hoàn
thiện pháp luật về XLVPHC trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của BĐBP.
Luận văn có một số điểm mới chủ yếu sau đây:
+ Luận văn đã phân tích lý giải đưa ra định nghĩa “khái niệm vi phạm
hành chính” nhằm bổ sung cho sự khiếm khuyết trong Pháp lệnh và là cơ sở
để xây dựng các khái niệm: “vi phạm hành chính trong các lĩnh vực thuộc
thẩm quyền của BĐBP”, “xử lý VPHC” và “xử lý VPHC trong các lĩnh vực
thuộc thẩm quyền của BĐBP”;
+ Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận về XLVPHC trong các lĩnh vực
thuộc thẩm quyền của BĐBP góp phần nâng cao nhận thức lý luận về
XLVPHC của BĐBP;
+ Luận văn phân tích một cách toàn diện thực trạng quy định và thực
hiện pháp luật về XLVPHC trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của BĐBP;


6

+ Luận văn phân tích quan điểm, phương hướng và kiến nghị giải pháp
hoàn thiện pháp luật về XLVPHC của BĐBP;

+ Những kết luận rút ra từ thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật về
XLVPHC của BĐBP còn là căn cứ thực tiễn xác đáng để hình thành phương
hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về QLNN về BGQG của BĐBP.
- Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn:
+ Những kết quả nghiên cứu đề tài đóng góp tích cực cho việc hoàn
thiện pháp luật về XLVPHC và hoàn thiện pháp luật về QLNN về BGQG.
Đồng thời luận văn còn là tài liệu tham khảo cho việc xây dựng và ban hành
các nghị định về xử phạt VPHC trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của
BĐBP, góp phần xây dựng dự án Bộ luật XLVPHC. Luận văn có thể dùng làm
tài liệu tham khảo cho cán bộ nghiên cứu giảng dạy, cho học viên trong Học
viện Biên phòng và các trường trung học của BĐBP.
+ Những kết quả nghiên cứu và các quan điểm, kiến nghị trong luận văn
sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả thực tiễn XLVPHC trong các
lĩnh vực thuộc thẩm quyền của BĐBP.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ
lục kèm theo, luận văn có 3 chương.
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về XLVPHC trong các lĩnh vực
thuộc thẩm quyền của BĐBP.
Chương 2. Thực trạng quy định và thực hiện pháp luật về
XLVPHC trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của BĐBP.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
XLVPHC trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của BĐBP.


7

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỂ LÝ LUẬN
VỂ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG CÁC LĨNH v ự c

THUỘC THẨM QUYỂN CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG

1.1. Vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính trong các
lĩnh vực thuộc thẩm quyền của BĐBP
1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là một loại VPPL xảy ra trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn, nhưng số lượng
nhiều và có xu hướng ngày càng gia tăng, VPHC đang gây tổn hại không nhỏ
cho trật tự, kỷ cương xã hội, sự ổn định và phát triển của các QHXH, ảnh
hưởng tiêu cực đến quá trình đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Và cũng cần thấy rằng, nếu đấu tranh với các VPHC ít hiệu quả thì sẽ dẫn tới
tình hình VPHC và tội phạm tăng về số lượng và tính chất, mức độ. Vì thế,
đấu tranh với các VPHC là nhiệm vụ hết sức quan trọng đặt ra trước Đảng,
Nhà nước và toàn xã hội [31, tr. 1].
Để xác định rõ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của VPHC,
đặc biệt là việc xác định ranh giới giữa VPHC với TPHS và các VPPL khác,
đồng thời cũng để xác định một hành vi nào đó là VPHC, tạo cơ sở để quy
định, xử lý cũng như đấu tranh một cách có hiệu quả đối với các VPHC, cần
thiết phải đưa ra một định nghĩa chính thức về VPHC. Mặc dù khái niệm
VPHC mới chỉ khái quát về VPHC, song lại rất cần phải có và có ý nghĩa rất
lớn trong hoạt động áp dụng pháp luật về XLVPHC [33, tr.6]. Như vậy, việc
đưa ra định nghĩa VPHC trong pháp luật thực định là cần thiết cho nhận thức
pháp luật nói chung và có tính hữu ích cho quá trinh áp dụng xử lý các VPHC
xảy ra trên thực tế nói riêng. Trước hết đối với người dân, họ cũng cần phải
biết VPHC có các dấu hiệu nào để tự đánh giá các hoạt động thực tế của mình,
hoặc xem xét, so sánh hành vi với chủ thể khác khi cần thiết. Trong trường


hợp có vi phạm thực tế, nếu cơ quan có thẩm quyền đưa ra quyết định không
đúng họ cần phải có hiểu biết nhất định để có chính kiến về việc khiếu nại

hoặc khiếu kiện hành chính. Đối với những chủ thể có thẩm quyền XLVPHC,
khi giải quyết các vụ việc cụ thể cần chỉ rõ cho đương sự hiểu hành vi nào của
họ là VPHC, được quy định tại các văn bản QPPL nào và theo đó phải xử lý ra
sao. Hơn nữa, việc XLVPHC đơn thuần chỉ quan tâm tính thực định của pháp
luật thì sẽ gặp nhiều trở ngại về mặt nhận thức khi các quy định pháp luật đó
có sự thay đổi [21, tr.34]. Mặt khác, nhìn từ khía cạnh lịch sử khái niệm “vi
phạm hành chính” đã tồn tại trong đời sống pháp lý ở nước ta từ rất lâu. Tuy
nhiên, việc định nghĩa khái niệm này luôn có những ý kiến khác nhau giữa tư
duy khoa học pháp lý và tư duy pháp luật thực định. Trong hệ thống pháp luật
thực định của nước ta khái niệm “phạm pháp vi cảnh”, một khái niệm tương
ứng, cùng phản ánh bản chất hiện tượng với khái niệm “vi phạm hành chính”
đã được định nghĩa trong Điều lệ Xử phạt vi cảnh ban hành kèm theo Nghị
định số 143/CP ngày 27/5/1977 của Hội đồng Chính phủ tại Điều 2: “Những
hành vi xâm phạm đến TTATXH mà có tính chất đơn giản, rõ ràng và hậu quả
không nghiêm trọng, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa đến
mức xử phạt bằng các biện pháp hành chính khác là phạm pháp vi cảnh” [41,
tr.6], nhưng “vi phạm hành chính” chỉ được định nghĩa chính thức trong Pháp
lệnh Xử phạt VPHC ngày 30/11/1989, Điều 1: “Vi phạm hành chính là hành
vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ỷ hoặc vô ý, xâm phạm các quy
tắc Q LNN mà không phải là TPHS và theo quy định của pháp luật phải bị
XPHC

Khái niệm này phần nào đã chỉ ra được các dấu hiệu của VPHC như

hành vi có lỗi, xâm phạm các quy tắc QLNN, không phải là tội phạm và bị
XPHC. Có ý kiến cho rằng, việc xác định khách thể VPHC là các quy tắc
QLNN dẫn đến chỗ nó có thể được hiểu là khách thể của vi phạm kỷ luật và
không bao gồm được các QHXH liên quan đến sở hữu nhà nước, các quyền tự
do và lợi ích hợp pháp của công dân [32, tr. 138]. Ý kiến khác lại cho rằng,
điểm thiếu ở định nghĩa này là dấu hiệu năng lực TNHC của chủ thể và điểm

không chính xác khi cho rằng xâm hại các quy tắc QLNN [21, tr.35]. Theo


9

chúng tôi, việc xác định khách thể VPHC là các quy tắc QLNN là không
chính xác, mà cần phải chỉ rõ những QHXH bị VPHC xâm phạm là khách thể
VPHC. Vì đã là VPPL thì đều xâm phạm quy tắc QLNN, chứ không riêng gì
VPHC. Hơn nữa, quy tắc QLNN có rất nhiều và do nhiều chủ thể đưa ra trong
đó có cả các chủ thể không có chức năng quản lý hành chính. Do đó, không
phải mọi quy tắc QLNN đều là QPPL và cũng không phải xâm phạm các quy
tắc đó đều là VPHC. Pháp lệnh XLVPHC 1995 tại khoản 2 Điều 1 đã định
nghĩa VPHC một cách gián tiếp, nhưng vẫn không khắc phục được điểm thiếu
chính xác của định nghĩa VPHC theo Pháp lệnh Xử phạt VPHC 1989, theo đó
“Xử phạt VPHC được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức thực hiện có hành vi
cố ý hoặc vô ý, vi phạm các quy tắc QLNN mà chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị XPHC”. Trong Pháp
lệnh XLVPHC 2002, VPHC cũng được định nghĩa một cách gián tiếp tại
khoản 2 Điều 1: “Xử phạt VPHC được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ
chức (sau đây được gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý,
vi phạm các quy định của pháp luật về QLNN mà không phải là tội phạm và
theo quy định của pháp luật phải bị XPHC”. So với Pháp lệnh Xử phạt VPHC
1989 và pháp lệnh XLVPHC 1995 thì Pháp lệnh XLVPHC 2002 đã nêu lên
được tính trái pháp luật của hành vi vi phạm là "... xâm phạm các quy định
của pháp luật về Q LN N

Một số quy định tại các điều như: Điều 6 (về đối

tượng bị XLVPHC), Điều 7 (về xử lý người chưa thành niên VPHC), Điều 9
(về tình tiết tăng nặng) đã bổ sung một số điểm về mặt chủ quan, chủ thể của

VPHC nhưng chưa giải quyết toàn bộ. Còn nhiều yếu tố cấu thành VPHC như:
yếu tố bất hành vi, yếu tố lỗi, mặt khách quan, mặt chủ quan của vi phạm và
ranh giới VPHC với tội phạm chưa được quy định rõ. Đó là hạn chế của Pháp
lệnh khi chưa đưa ra một định nghĩa chung về VPHC với các yếu tố cấu thành
của nó, theo chúng tôi thì việc khôi phục lại định nghĩa VPHC và thêm các
điểm làm rõ mặt khách quan, chủ quan của VPHC là rất cần thiết. Việc Pháp
lệnh mở rộng phạm vi điều chỉnh đến cả việc xử lý những hành vi VPPL về an
ninh, TTATXH nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, mà những


10

hành vi này xét về mặt cấu thành thì không phải là VPHC, đã dẫn đến rối rắm
và lẫn lộn trong việc thể hiện [16, tr.23], xuất phát từ quy định của luật thực
định, có tác giả đã đưa ra khái niệm VPHC: “Vi phạm hành chính là hành vỉ
vi phạm các quy định của pháp luật về Q LNN, do cá nhân, tổ chức thực hiện
một cách cô'ỷ hoặc vô ý, nhưng không phải là tội phạm và theo quy định của
pháp luật phải bị XPHC hoặc bị áp dụng các biện pháp XLHC khác” [11,
tr.12]. Việc không đưa ra định nghĩa về VPHC, theo chúng tôi là thể hiện
bước “thụt lùi” của Pháp lệnh XLVPHC 1995, 2002 so với Pháp lệnh x ử phạt
VPHC 1989. Để đảm bảo tính thống nhất của pháp chế và hiệu lực của pháp
luật thì bản thân Pháp lệnh XLVPHC phải quy định rõ ràng về hành vi VPHC
và HTXP đối với hành vi đó (giống như Bộ luật Hình sự). Trong điều kiện
hiện nay khối lượng VPHC gia tăng, lại luôn thay đổi cần được điều chỉnh và
cũng để đảm bảo kịp thời hơn phục vụ cho hoạt động quản lý hành chính nhà
nước. Cho nên, Pháp lệnh mới chỉ xác định VPHC còn chung chung, còn hành
vi VPHC lại dành cho Chính phủ (cơ quan hành pháp) quy định tại các Nghị
định. Điều này cho đến nay là có thể hiểu được, song trước những đòi hỏi về
dân chủ, xây dựng nhà nước về pháp quyền, bảo vệ quyền công dân, và cũng
là để phù hợp với một nguyên tắc hiến định là “Quyền và nghĩa vụ của công

dân do Hiến pháp và luật định”, thì cách làm này cần phải thay đổi [16, tr.
23], trong tương lai cần được quy định thống nhất trong một văn bản pháp luật
có hiệu lực pháp lý cao hơn (có thể là Luật hay Bộ luật XLVPHC).
Một điểm nữa trong khái niệm VPHC mà Pháp lệnh (1989 và 2002) nêu
ra cũng được nhiều nhà khoa học tranh luận đó là ranh giới giữa VPHC và
TPHS "... mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị
XPHC

Theo chúng tôi, việc xác định không phải là tội phạm cần thiết phải

đưa vào khái niệm. Mặt khác, VPHC ngoài việc bị áp dụng các chế tài xử
phạt, còn bị áp dụng các biện pháp chế tài hành chính khác như các biện pháp
ngăn chặn và đảm bảo việc xử phạt VPHC, các biện pháp cưỡng chế thi hành
QĐXP, nên việc nêu phải bị XPHC trong khái niệm là chưa đầy đủ. Một điểm
nữa trong khái niệm VPHC mà có nhiều quan điểm khác nhau, đó là xác định


11

tính có năng lực TNHC của chủ thể VPHC, có cần thiết phải được quy định
trong khái niệm VPHC không?. Cần phải khẳng định, năng lực TNHC là điều
kiện cần thiết để có thể xác định một người là có lỗi khi họ thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội. Như vậy, năng lực TNHC có mối quan hệ chặt chẽ với
lỗi, mà tính có lỗi là đặc điểm của VPHC phải được đưa vào trong khái niệm
VPHC. Lỗi được hiểu là “Trạng thái tâm lý của chủ th ể đối với hành vi vi
phạm của mình và hậu quả do hành vi đó gây r a ” [34, tr.501]. Trạng thái tâm
lý của con người bao gồm hai yếu tố lí trí và ý chí, là những yếu tố cần thiết
để hợp thành lỗi. Trong đó, lí trí phản ánh khả năng nhận thức thực tại khách
quan của con người, còn ý chí phản ánh khả năng điều khiển hành vi trên cơ
sở của sự nhận thức đó, đây là những yếu tố cần thiết của mọi hành động có ý

thức của con người. Nội dung của những yếu tố này cũng chính là những điều
kiện bắt buộc để tạo thành năng lực TNHC. Do đó, khi một người được coi là
có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình, cũng như
hậu quả do hành vi đó gây ra thì đương nhiên phải là người có năng lực
TNHC. Còn hành vi VPHC của tổ chức thì được thực hiện thông qua hành vi
vi phạm của người đại diện tổ chức đó, nên pháp luật quy định cho tổ chức khi
bị xử phạt VPHC phải tiến hành xác định lỗi của những người nhân danh tổ
chức trực tiếp gây ra vi phạm để truy cứu trách nhiệm kỷ kuật, trách nhiệm vật
chất, nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm cá nhân. Do đó, khi một người được
coi là có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình cũng
như đối với hậu quả do hành vi đó gây ra thì đương nhiên họ phải là người có
năng lực TNHC. Vì vậy, khi tính có lỗi đã được quy định trong khái niệm thì
không cần phải quy định tính có năng lực TNHC vào trong khái niệm VPHC
nữa. Theo Từ điển Tiếng Việt, “khái niệm” được hiểu là “ý nghĩa phản ánh ở
dạng khái quát các sự vật và hiện tượng của hiện thực và mối liên hệ giữa
chúng” [38, tr.491]. Vậy nên, việc lựa chọn những đặc điểm nào để đưa vào
nội dung của khái niệm VPHC phải đáp ứng về mặt hình thức khái niệm được
diễn đạt ngắn gọn, súc tích nhưng vẫn thể hiện được những nội dung mang
tính bản chất của khái niệm.


12

Từ những vấn đề nêu trên có thể quan niệm về vi phạm hành chính như
sau: “Vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật, vi phạm các quy định của
pháp luật về quản lý nhà nước, do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách c ố ý
hoặc vô ý, mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật
bị áp dụng ch ế tài hành chính
1.1.2.


Khái niệm vi phạm hành chính trong các lĩnh vực thuộc thẩm

quyền của BĐBP
Vi phạm hành chính trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của BĐBP
phải là VPHC xảy ra ở KVBG, cửa khẩu và vùng biển, xâm phạm trật tự
QLNN thuộc lĩnh vực mà theo quy định của pháp luật BĐBP có thẩm quyền
xử lý. Vì vậy, nó cũng mang đầy đủ đặc điểm của VPHC nói chung, làm cơ sở
để phân biệt với các loại VPPL khác và phải có đặc trưng riêng để phân biệt
với các loại VPHC thuộc thẩm quyền xử lý của chủ thể có thẩm quyền khác.
Cho nên, có thể chỉ ra những đặc điểm của VPHC trong các lĩnh vực thuộc
thẩm quyền của BĐBP như sau:
Thứ nhất: VPHC là hành vi trái pháp luật, vi phạm các quy định của
pháp luật về Q LN N trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của BĐBP.
Hành vi trái pháp luật được hiểu là hành vi không phù hợp với quy định
của pháp luật, được thể hiện dưới hai hình thức là hành động trái pháp luật và
không hành động trái pháp luật.
Hành động trái pháp luật là xử sự tích cực, chủ động của chủ thể vi
phạm như làm một việc mà pháp luật cấm hoặc làm một việc mà pháp luật cho
phép nhưng quá giới hạn.
Không hành động trái pháp luật là xử sự thụ động, tiêu cực của chủ thể
vi phạm trong thực hiện những nghĩa vụ, yêu cầu của pháp luật như không làm
một việc mà pháp luật buộc phải làm.
Những hành vi trái pháp luật xâm phạm các quy định của pháp luật về
QLNN trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của BĐBP như các quy định của
pháp luật về QLNN trong lĩnh vực an ninh và TTAXH, hải quan, thương mại,


13

y tế, quốc phòng, văn hoá - thông tin,... thì mới là hành vi VPHC trong các

lĩnh vực thuộc thẩm quyền của BĐBP.
Thứ hai: Hành vi đó do cá nhân, tổ chức thực hiện với lồi c ố ý hoặc vô ý.
Cá nhân và tổ chức là hai loại chủ thể của VPHC. Cá nhân khi đạt đến
độ tuổi do pháp luật quy định mà thực hiện hành vi vi phạm các quy định của
pháp luật về QLNN trong điều kiện có khả năng nhận thức và điều khiển hành
vi thì được coi là có lỗi. v ề phía tổ chức, chỉ cần có hành vi vi phạm các quy
định của pháp luật về QLNN là đủ điều kiện để được coi là có lỗi.
Lỗi được hiểu một cách thông thường là những sai sót, những điều
không đúng trong việc làm, trong ứng xử so với những quy định chung hoặc lẽ
phải.
Trên phương diện pháp lý, lỗi được xác định là trạng thái tâm lý bên
trong của chủ thể thực hiện hành vi vi phạm. Đó là tổng thể những nhận thức,
tình cảm, ý chí của người vi phạm trong khoảng thời gian thực tế thực hiện vi
phạm, được biểu hiện ra bên ngoài thông qua cử chỉ, lời nói, hành động hoặc
không hành động vi phạm, làm trái với những yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật,
thể hiện ý thức, cách nhìn nhận, đánh giá của người vi phạm đối với hành vi vi
phạm của mình. Vì vậy, có thể xem lỗi chính là thái độ coi thường pháp luật,
vô trách nhiệm với các lợi ích xã hội của chủ thể vi phạm.
Lỗi trong thực hiện VPHC được thể hiện dưới hai hình thức là lỗi cố ý
và lỗi vô ý.
Lỗi cố ý trong VPHC là thái độ tâm lý của một người khi thực hiện
hành vi trái pháp luật, tuy nhận thức được nghĩa vụ pháp lý bắt buộc nhưng lại
có ý thức xem thường, mặc dù họ hoàn toàn có khả năng xử sự theo đúng
nghĩa vụ đó.
Lỗi vô ý trong VPHC là lỗi của một người khi thực hiện hành vi trái
pháp luật do vô tình hoặc thiếu thận trọng mà đã không nhận thức được những
nghĩa vụ pháp lý bắt buộc, mặc dù họ có khả năng và điều kiện xử sự theo
đúng nghĩa vụ đó.



14

Như vậy, lỗi là trạng thái tâm lý của người vi phạm, biểu hiện thái độ
của người đó đối với hành vi VPPL của mình. Khi một người nhận thức được
các yêu cầu xử sự cần thiết mà lại lựa chọn và thúc đẩy hành động của mình
trái với yêu cầu này thì được coi là có lỗi và phải gánh chịu các biện pháp
trách nhiệm pháp lý tương ứng với mức độ lỗi của mình.
Thứ ba: Hành vi đố không phải là TPHS.
Có những hành vi xét về bản chất đã luôn là nguy hiểm đáng kể, và
được đánh giá ngay là tội phạm như những hành vi xâm phạm an ninh quốc
gia, giết người... Có những hành vi luôn được pháp luật xác định là VPHC
như hút thuốc ở những nơi quy định “Cấm hút thuốc”, không mang theo giấy
chứng minh khi đi lại, gây tiếng động lớn, làm ồn ào, huyên náo trong giờ
nghỉ đêm của nhân dân (22 giờ đến 5 giờ),... Nhưng cũng có những hành vi
VPHC mà mặt khách quan tương tự với TPHS.
VPHC và tội phạm đều là những hành vi VPPL, đều gây nguy hiểm cho
xã hội. Song VPHC được xác định là có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp
hơn so với TPHS, theo khoản 4 Điều 8 Bộ luật Hình sự 1999 thì “Những hành
vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không
đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”.
Sở dĩ giữa VPHC và TPHS có sự khác nhau về mức độ của tính nguy hiểm cho
xã hội là do chúng xâm hại đến các QHXH khác nhau về tính chất hoặc tuy
cùng xâm hại đến một QHXH song thiệt hại gây ra, thủ đoạn thực hiện, tính
chất lỗ i,... có sự khác nhau. Dựa trên tất cả các yếu tố này, tội phạm được coi
là hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội ở mức độ cao, là đáng kể, còn VPHC
có tính nguy hiểm hạn chế là không đáng kể. Nguy hiểm “đáng kể” hay
“không đáng kể” cho xã hội là ranh giới để phân định tội phạm với VPHC và
các VPPL khác [19, tr.58].
Mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn của VPHC so với tội phạm
chính là tiêu chuẩn vật chất chung có tính nguyên tắc để xác định ranh giới

giữa VPHC và tội phạm trong trường hợp biểu hiện bên ngoài của hai loại vi


15

phạm này có sự mô tả giống nhau. Ví dụ: như hành vi buôn lậu, gây rối trật tự
công cộng, đánh người gây thương tích, chống người thi hành công vụ.
Các tiêu chuẩn vật chất chung có tính nguyên tắc và bao quát đó được
quy định cụ thể trong các VBPL như Bộ luật Hình sự, Thông tư liên ngành của
các cơ quan tư pháp ở Trung ương hướng dẫn việc xác định tội phạm và đường
lối xét xử. Những tiêu chuẩn đó bao gồm:
- Tiêu chuẩn vê định tính;
- Tiêu chuẩn vê định lượng.
Tiêu chuẩn về định tính là những tiêu chí mang tính chất chuẩn mực để
xác định tính chất của vi phạm, nó cho biết hành vi đã thực hiện có phải là
VPHC hay không. Các tiêu chuẩn đó bao gồm: vi phạm lần đầu; đã bị xử phạt
VPHC mà còn vi phạm; tái phạm; vi phạm nhiều lần; có tổ chức; có tính chất
chuyên nghiệp; chống người thi hành công v ụ ...
Các tiêu chuẩn về định tính cho thấy tính chất, mức độ của vi phạm
tương ứng với việc phải gánh chịu các biện pháp trách nhiệm pháp lý do pháp
luật quy định như các tiêu chuẩn về tái phạm, vi phạm nhiều lần, có tổ chức,
có tính chất chuyên nghiệp, chống người thi hành công vụ. Các tiêu chuẩn này
được sử dụng là những tình tiết tăng nặng TNHC. Chính vì vậy, khi quyết định
hình thức phạt tiền, trong khi mức phạt tiền thông thường (không có tình tiết
tăng nặng) là mức trung bình của khung tiền phạt, thì đối với các VPHC có
tình tiết tăng nặng là cao hơn mức trung bình nhưng không vượt quá mức tối
đa của khung tiền phạt.
Tiêu chuẩn về định lượng là những tiêu chí mang tính chất chuẩn mực
về lượng của một hệ giá trị tương ứng với một hành vi nhất định nhằm xác
định hành vi đó có phải là VPHC hay không. Đó là những tiêu chuẩn về số

lượng hàng phạm pháp; giá trị hàng phạm pháp; tỷ lệ thương tật gây ra cho
nạn nhân;...


16

Các tiêu chuẩn về định tính và định lượng có thể được kết hợp chặt chẽ
với nhau để xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm, là
tiêu chí để xác định ranh giới giữa VPHC và tội phạm.
Ví dụ: Hành vi vận chuyển, buôn bán trái phép qua biên giới hàng hoá
(nếu là hàng cấm thì có số lượng không lớn), ngoại tệ, kim khí đá quý có giá
trị dưới 100 triệu đồng, mà trước đó chưa bị XPHC hoặc đã bị XPHC nhưng
đã hết thời hạn được coi là chưa bị XPHC là VPHC.
Đối với một loại VPHC cụ thể, các tiêu chuẩn về định lượng cũng được
đặt ra để xác định tính chất, mức độ của vi phạm làm căn cứ quyết định mức
độ gánh chịu TNHC.
Ví dụ: Bộ đội biên phòng có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi
VPHC được quy định ở khoản 3 Điều 10 của Nghị định số 138/2004/NĐ-CP
ngày 17/6/2004 quy định việc xử phạt VPHC trong lĩnh vực hải quan. Nếu
người không phải là cư dân biên giới nhưng lợi dụng chính sách về mua bán,
trao đổi hàng hoá của cư dân biên giới để vận chuyển hàng hoá trái phép qua
biên giới mà không phải là tội phạm mà tang vật vi phạm có trị giá dưới
20.000.000 đồng thì bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng, nếu
tang vật vi phạm có trị giá từ 20.000.000 đồng trở lên thì bị phạt tiền từ
5.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.
Thứ tư: Hành vi đó bị áp dụng chê' tài hành chính theo quy định của
pháp luật.
Chế tài được hiểu là biện pháp cưỡng chế nhà nước có thể áp dụng
nhằm đảm bảo việc thực hiện các quy định của pháp luật [38, tr.150]. Chế tài
hành chính là biện pháp xử lý đối với cá nhân, pháp nhân, tổ chức xử sự trái

pháp luật ở mức độ là VPPL (chưa đến mức là tội phạm) gọi là VPHC, được
quy định trong các văn bản QPPL về XLVPHC [26, tr.83]. Như vậy, chế tài
hành chính bao gồm các HTXP; các biện pháp KPHQ; các biện pháp ngăn
chặn và đảm bảo việc XPHC, các biện pháp cưỡng chế thi hành QĐXP; các
biện pháp chế tài hành chính khác theo quy định của pháp luật.


17

Những hành vi trái pháp luật hành chính có thể diễn ra ở hầu hết mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội nhưng không có nghĩa các hành vi đó là VPHC.
Chỉ những hành vi nào theo quy định của pháp luật bị áp dụng biện pháp chế
tài hành chính thì mới là VPHC.
Khoản 1 Điều 3 Nghị định của Chính phủ số 134/2003/NĐ-CP ngày
14/11/2003 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh XLVPHC
2002 quy định: Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt VPHC khi có hành vi VPHC
được quy định cụ thể trong các văn bản luật của Quốc hội, pháp lệnh của Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội và nghị định của Chính phủ.
Các văn bản trên là căn cứ pháp lý để xác định hành vi VPHC, trong đó
chỉ có Nghị định của Chính phủ về xử phạt VPHC trên các lĩnh vực QLNN là
xác định biện pháp XPHC. Do đó, đây chính là cơ sở pháp lý chủ yếu để xác
định hành vi VPHC. Các văn bản do Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, UBND ban hành để chỉ đạo,
hướng dẫn, tổ chức thực hiện XLVPHC không được quy định hành vi VPHC
và hình thức, mức xử phạt.
Tóm lại: Để xác định một hành vi trái pháp luật xảy ra có phải là VPHC
hay không, phải xác định được hành vi đó có đủ những đặc điểm là vi phạm
các quy định của pháp luật về QLNN, có lỗi, không phải là tội phạm và bị áp
dụng chế tài hành chính.
Thứ năm: Hành vi đố xảy ra trên địa bàn, trong các lĩnh vực thuộc

thẩm quyền của BĐBP.
Đặc điểm này là cơ sở để xác định thẩm quyền XLVPHC của BĐBP và
để phân định thẩm quyền XLVPHC về địa bàn, lĩnh vực với các chủ thể có
thẩm quyền XLVPHC khác. Bộ đội biên phòng có thẩm quyền XLVPHC đối
với các hành vi VPHC xảy ra trên địa bàn do BĐBP quản lý và những hành vi
này được pháp luật quy định trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền xử lý của
BĐBP.

THƯ VIỆN
TRƯỜNG ĐA! HOCLÚÂT HÀ NÔI
PHỎ N G G V


18

Như vậy, “Vi phạm hành chính trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền
của Bộ đội biên phòng là vi phạm hành chính xảy ra trên địa bàn, trong các
lĩnh vực thuộc thẩm quyền của Bộ đội biên phòng
1.1.3. Xử lý VPHC trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của BĐBP
Hiện tượng VPHC diễn ra ngày càng phổ biến trong đời sống xã hội,
đòi hỏi Nhà nước cần có những quy định pháp luật cụ thể, rõ ràng để xử lý đối
với những hành vi VPHC, góp phần vào việc đấu tranh có hiệu quả với VPHC.
Có nghĩa là, XLVPHC trở thành một vấn đề khá quan trọng và có ý nghĩa rất
lớn trong việc nâng cao hiệu quả phòng chống VPHC, lập lại trật tự kỷ cương
trong xã hội. Song, kể từ năm 1945 đến năm 1995 ở nước ta khổng có VBPL
quy định về VPHC nào đề cập đến thuật ngữ “xử lý vi phạm hành chính”.
Thực tế chỉ ra rằng, việc xử phạt VPHC không phải là biện pháp duy nhất khi
XLVPHC, không phải là biện pháp tối ưu nhằm xác lập trật tự quản lý bị phá
vỡ. Nếu quan niệm XPHC là XLVPHC và XLVPHC là XPHC, thì dẫn đến
việc coi nhẹ các biện pháp cưỡng chế hành chính khác mà chỉ chú trọng biện

pháp XPHC của chủ thể có thẩm quyền khi áp dụng pháp luật hành chính, dẫn
đến hậu quả không đảm bảo mục đích XPHC [33, tr.18]. Do vậy, thuật ngữ
“xử lý vi phạm hành chính” đã được ghi nhận trong pháp luật thực định, đảm
bảo được tính toàn diện về quy định của pháp luật đối với vấn đề XLVPHC.
Khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh XLVPHC (1995, 2002) đều quy định: “xử lý
VPHC bao gồm xử phạt VPHC và các biện pháp XLHC khác”. Các biện pháp
XLHC khác được áp dụng đối với cá nhân có hành vi VPPL về an ninh,
TTATXH nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Cho nên, theo
chúng tôi thì áp dụng các biện pháp XLHC khác đối với đối tượng VPPL chứ
không phải với đối tượng VPHC. Xử lý VPHC không chỉ là XPHC nhưng phải
là hoạt động cưỡng chế nhà nước do các cơ quan nhà nước, người có thẩm
quyền tiến hành áp dụng đối với cá nhân, tổ chức VPHC. Như vậy, XLVPHC
là hoạt động áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước đối với cá nhân, tổ
chức VPHC, đó là việc áp dụng các chế tài hành chính bao gồm: các HTXP
VPHC; các biện pháp KPHQ do VPHC gây ra; các biện pháp ngăn chặn


19

VPHC và đảm bảo việc XLVPHC, các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết
định xử phạt VPHC và các biện pháp chế tài hành chính khác.
Trong các hoạt động trên thì xử phạt VPHC là một trong những hoạt
động quan trọng nhất, có ý nghĩa to lớn trong đấu tranh với VPHC, có tác
dụng trực tiếp củng cố, tăng cường trật tự QLNN. Thực chất XPHC là việc áp
dụng các chế tài hành chính có tính chất trừng phạt do cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành đối với cá nhân, tổ chức VPHC theo quy định của pháp luật.
Từ việc phân tích trên, chúng tôi đưa ra khái niệm XLVPHC như sau:
“Xử lý vi phạm hành chính là hoạt động cưỡng ch ế hành chính mang tính
quyền lực nhà nước do các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành
áp dụng các ch ế tài hành chính đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm hành

chính theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định
Theo quy định của pháp luật, BĐBP là một trong những chủ thể có thẩm
quyền tiến hành áp dụng các chế tài hành chính theo trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định đối với các cá nhân, tổ chức VPHC trong các lĩnh vực thuộc
thẩm quyền của BĐBP.
Như vậy, “Xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực thuộc thẩm
quyền của Bộ đội biên phòng là hoạt động cưỡng ch ế hành chính mang tính
quyền lực nhà nước do các cá nhân có thẩm quyền trong các cấp Bộ đội biên
phòng tiến hành áp dụng các ch ế tài hành chính theo quyền hạn, trình tự, thủ
tục do pháp luật quy định đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính
trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của Bộ đội biên phòng
Hoạt động XLVPHC trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của BĐBP
trước hết là hoạt động cưỡng chế hành chính mang tính quyền lực nhà nước do
các chức danh có thẩm quyền XLVPHC trong các cấp BĐBP tiến hành và
được đảm bảo bằng quyền lực nhà nước. Kết quả của hoạt động này được thể
hiện bằng việc ra các quyết định áp dụng pháp luật trong XLVPHC và tổ chức
thi hành các quyết định đó của các chức danh có thẩm quyền XLVPHC trong
các cấp BĐBP.


×