Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Xây dựng đội ngữ công chức trong tiến trình cải cách hành chính ở việt nam hiện nay những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.78 MB, 77 trang )


B ộ T ư PHÁP

B ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI








ĐẶNG ĐÌNH BÁCH

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ pỒNG CHỨC TRONG TIÉN
TRÌNH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY NHỮNG VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIẼN
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Ma số: 603801

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS. PHẠM HỒNG THÁI

THƯ VIỆN
TRƯỜNG Đ Ạ I HỌ C LỦẬT HÀ N Ộ I

PHÒNG DOC

12Ì11___ _


LUẬN
VĂN THẠC
SỸ LUẬT
HỌC





HÀ NỘI - 2006


Lời cảm ơn

Tác giả luận văn xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS
Phạm Hồng Thái về sự hướng dẫn tận tình của thầy trong quá trình nghiên
cứu và hoàn thành đề tài luận văn này.
Tác giả chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện quỷ báu của
các thầy, các cô trong Khoa Sau Đại học - Trường Đại học Luật Hà Nội
và Các thầy cô tham gia giảng dạy, truyền bá kiến thức để tác giả đến
được với buoi Bảo vệ Luận văn Thạc sỹ.
Qua đây, tác giả cũng xin được cảm ơn sự động viên, giúp đỡ và
đóng góp ỷ kiến của Th.s. Trần Thị Hương Trang củng bạn bè, đồng
nghiệp - những người hiện đang công tác tại các cấp bộ ngành ở Trung
ưong và địa phưong.


PHẦN MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN c ứ u ĐỀ TÀI

Nước ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì
dân trong bối cảnh hội nhập quốc tế, quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra trên
hầu hết các lĩnh vực. Bối cảnh đó vừa là điều kiện thuận lợi vừa là thách thức to
lớn đối với yêu cầu hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa nền công vụ của nước nhà.
Nó đòi hỏi đội ngũ công chức phải có đạo đức, bản lĩnh chính trị vững vàng,
năng lực, trình độ chuyên môn ở một tầm cao mới đủ để giải quyết mối quan hệ
giữa phát triển kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Trên thực tế, chất lượng công chức của ta chưa đáp ứng với yêu cầu đổi
mới, phát triển kinh tế - xã hội. Đội ngũ công chức bị trì trệ, thiếu tính nhạy bén,
yếu kém về năng lực để thực hiện nhiệm vụ . Một bộ phận công chức suy thoái
phẩm chất, đạo đức, thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất
cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, tha hóa về lối sống; hoặc
né tránh, thiếu bản lĩnh đấu tranh với những hành vi quan liêu, tham nhũng, tiêu
cực. Một số công chức nhà nước, chưa thực sự lấy việc phục vụ nhân dân làm
mục tiêu hàng đầu, làm thước đo chủ yếu nhất cho mức độ và kết quả thực hiện
nhiệm vụ của mình. Quan hệ của họ với nhân dân thậm chí còn mang dấu ấn cai
trị theo kiểu ban phát, thiếu bình đẳng, thiếu tôn trọng. Từ đó, dẫn đến tình trạng
quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, gây phiền hà đối với nhân dân và lợi dụng
chức trách, thẩm quyền được Nhà nước và nhân dân giao phó để nhận hối lộ,
tham nhũng, buôn lậu, làm biến dạng những giá trị và tiêu chuẩn đích thực của
người “công bộc của nhân dân”, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng.
Thực trạng của những khuyết, nhược điểm của công chức trên đây có phần do
nguyên nhân khách quan, song chủ yếu do những nguyên nhân chủ quan. Không
ít công chức còn xem thường những chuẩn mực nhân cách, nên thiếu nghiêm


khắc với bản thân, không thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng mình. Cơ chế quản
lý, kiếm tra, giám sát của tổ chức và thủ trưởng trực tiếp cũng như cúa nhân dân
đôi với hoạt động của công chức còn hạn chế, chưa thường xuyên, nghiêm túc

và thiếu đồng bộ. Việc xử lý các vi phạm của công chức chưa nghiêm đã dẫn
đến hạn chế kết quả răn đe, giáo dục.
Đe xây dựng được nền công vụ chính quy, hiện đại với đội ngũ công chức
vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ,
kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân: một mặt phải
chú trọng nghiên cứu, khảo sát, gắn bó với thực tiễn, đánh giá đúng thực trạng
kinh tế - xã hội nói chung và đội ngũ công chức nhà nước nói riêng ; phải tích
cực nghiên cứu lý luận, trước hết là nắm vững những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về
vị trí, vai trò người cán bộ cách mạng cũng như yêu cầu đào tạo, xây dựng đội
ngũ công chức. Mặt khác, cần thiết phải xây dựng hệ thống văn bản pháp luật
chặt chẽ, cơ chế để đảm bảo việc tuân thủ, nhằm thực hiện các quy định pháp
luật công chức có hiệu quả.Trên cơ sở đó, xác định hệ thống các yêu cầu, tiêu
chuấn của công chức đáp ứng các đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân. Đồng thời, phải tìm hiểu những bài học kinh nghiệm về việc
tuyển chọn và sử dụng nhân tài trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc ta, cũng như nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng nền công vụ
chính quy, hiện đại của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức đang là vấn đề có ý
nghĩa sống còn không chỉ riêng của công cuộc cải cách hành chính mà của cả sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước. Do đó, việc nghiên cứu đề tài
pháp luật về “Xây dựng đội ngũ công chức trong tiến trình cải cách hành
chính ỏ' Viêt Nam hiên nay - những vấn đề lý luân và thưc tiễn ” là hết sức




V

o


%l





Cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tế cải cách hành chính nhà nước.

2


2. TÌNH HÌNH NGHIÊN c ứ u ĐÊ TÀI
Công tác xây dựng đội ngũ công chức đã giành được sự quan tâm của
đông đảo các nhà quản lý và nhà khoa học. Nhiều công trình, đề tài nghiên cứu
có nội dung nghiên cứu về xây dựng đội ngũ công chức như: “Các giải pháp
thúc đẩy xây dựng đội ngũ công chức” của Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hiến với nội
dung phân tích tiến trình xây dựng đội ngũ công chức ở nước ta những năm qua,
nêu lên những mặt được cũng như hạn chế, thiếu sót, những nguyên nhân cản
trở đối với tiến trình này và kiến nghị một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy
xây dựng đội ngũ công chức ở nước ta trong thời gian tới. “Hành chính học và
Xây dựng đội ngũ công chức”, “v ề nền hành chính nhà nước Việt Nam, những
kinh nghiệm xây dựng và phát triển” do GS,TS. Vũ Huy Từ làm chủ biên đưa ra
các mối quan hệ của xây dựng đội ngũ công chức trên phương diện lý thuyết cơ
bản của xây dựng đội ngũ công chức; GS.TS Nguyễn Duy Gia với “Cải cách
nền hành chính quốc gia ở nước ta”; Đe tài 91-98-039 của Học viện Hành chính
Quốc gia do GS TS Nguyễn Duy Gia làm chủ nhiệm: “Cải cách bộ máy hành
chính nhà nước Việt Nam”; GS. Đoàn Trọng Truyến với “Tổng quan về cải cách
nền hành chính nhà nước Việt Nam” Chương “Công vụ và quản lý nhân sự
trong hệ thống hành chính nhà nước” trong cuốn “Nhập môn Hành chính Nhà

nước” của PGS.TS Phạm Hồng Thái, Đinh Văn Mậu; GS.TS Trần Ngọc Hiên
với “Cải cách chương trình đào tạo cho các loại đối tượng công chức”; “Chương
Quy chế pháp lý hành chính của cán bộ, công chức”trong Giáo trình Luật Hành
Chính Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội của TS. Trần Minh Hương v.v.
Ngoài ra, xây dựng đội ngũ công chức còn được nghiên cứu, tìm hiêu qua
các bài viết, công trình trên các báo, tạp chí góp phần làm phong phú, sâu sắc
thêm nội dung của đề tài này.
Các công trình nghiên cứu đó đề cập đến nhiều phương diện kiến thức về
hành chính học, về xây dựng đội ngũ công chức và đóng góp đáng kê vào việc

3


tìm hiếu lĩnh vực này. Tuy nhiên, những nghiên cứu trên chưa toàn diện và đầy
đủ, dưới góc độ luật học.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ luật học nghiên cứu về xây dựng đội
ngũ công chức, tác giả đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực
tiễn; đánh giá, nhận định vai trò của pháp luật đối với công tác xây dựng đội ngũ
công chức hiện nay, thực tiễn việc xây dựng công chức ở Việt Nam dưới góc độ
luật học, trong đó tập trung phân tích, đánh giá các nội dung cơ bản của công tác
xây dựng đội ngũ công chức qua hệ thống các văn bản pháp luật, phân tích
những bài học kinh nghiệm và kiến nghị những giải pháp đế nâng cao hiệu quả
thực hiện chương trình xây dựng đội ngũ công chức.
Tuy nhiên, tác giả cũng khẳng định do yêu cầu nghiên cứu ở cấp độ thạc
sỳ luật học, nên không phải tất cả các khía cạnh của đề tài đều được tiếp cập và
giải quyết một cách thoả đáng. Những vấn đề đó sẽ được giải quyết ở một công
trình nghiên cửu toàn diện, với yêu cầu cao hơn.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u ĐỀ TÀI
Phương pháp luận được sử dụng để thực hiện luận văn là phương pháp

luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin
Các phương pháp cụ thể được tác giả áp dụng trong quá trình thực hiện
luận văn là phân tích, tống hợp, đánh giá, so sánh, thống kê, khảo sát.
5. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM v ụ CỦA VIỆC NGHIÊN CÚXJ ĐỀ TÀI
5.1. Mục đích:

4


Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn ban hành
và áp dụng hệ thống văn bản pháp luật trong công tác xây dựng đội ngũ công
chức . Trên cơ sở đó đề xuất các phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả
xây dựng đội ngũ công chức, đóng góp trực tiếp cho chương trình tổng thể xây
dựng đội ngũ công chức hiện nay. Luận văn cũng kiến nghị một số nội dung cơ
bản cho định hướng xây dựng công chức đến năm 2020 để đáp ứng yêu cầu cải
cách tổng thể nền hành chính của Việt Nam khi cơ bản trở thành một nước công
nghiệp hóa.
5.2. Nhiêm vu




Căn cứ mục đích đã đề ra, các nhiệm vụ cụ thể được dự kiến như sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ
công chức. Đặc biệt, cơ sở lý luận hành chính học kết hợp với chức năng điều
chỉnh pháp lý cho công tác xây dựng đội ngũ công chức hiện nay.
- Phân tích, đánh giá chương trình xây dựng đội ngũ công chức hiện nay
và thực tiễn triển khai được điều chỉnh bởi nền tảng pháp lý với những ưu điểm
cần được phát huy và hạn chế cần khắc phục.
- Xây dựng các đề xuất nâng cao hiệu quả xây dựng đội ngũ công chức

giai đoạn hiện nay, kiến nghị một số nội dung cơ bản định hướng hoàn thiện cơ
sở pháp lý cho công tác xây dựng đội ngũ công chức.
6.

Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN

Nếu nghiên cứu thành công luận văn có thể có những đóng góp sau:
a.

Những tổng hợp, phân tích sâu sắc về cơ sở lý luận xây dựng đội ngũ

công chức. Những đánh giá thiết thực và tổng luận mới, toàn diện về vai trò của

5


pháp luật đôi với chương trình xây dựng đội ngũ công chức giai đoạn hiện nay,
quá trình thực hiện chương trình trong những năm qua.
b. Những đề xuất nhằm phát huy ưu điểm, hạn chế những khiếm khuyết
của chương trình xây dựng đội ngũ công chức, định hướng cho xây dựng đội
ngũ công chức trên cơ sở phân tích bài học kinh nghiệm trong quá trình thực
hiện cải cách hành chính ở nước ta và quá trình hình thành, phát triến của pháp
luật điều chỉnh hoạt động xây dựng đội ngũ công chức.
7.

C ơ CẤU CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm ba chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về xây dựng đội ngũ công chức.
Chương 2: Thực tiễn xây dựng đội ngũ công chức ở nước ta hiện nay

Chương 3: Phương hướng và giải pháp xây dựng đội ngũ công chức.

6


Chương 1
CO SỎ LÝ LUẬN VÊ XÂY DỤNG
ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC
1.1.

Khái niệm công chức và xây dựng đội ngũ công chức

1.1.1. Khái niệm công chức
Trong khoa học pháp lý và khoa học hành chính khái niệm công chức được
hiểu ở nhiều góc độ khác nhau, tuỳ theo giai đoạn lịch sử, theo góc độ nghiên cứu
cũng như cách hiểu ở từng hệ thống pháp luật hay từng quốc gia khấc nhau. Nhằm
hướng tới việc giải quyết nội dung của đề tài mà luận văn lựa chọn, ở đây tác giả
phân tích khái niệm công chức theo hệ thống pháp luật Việt Nam, dưới góc độ
nghiên cứu của bản luận văn thạc sĩ trên cơ sở có so sánh, phân tích với khái niệm
công chức của thế giới.
Khái niệm nhà nước càng trừu tượng bao nhiêu thì khái niệm công chức lại
cụ thể và thực tế bấy nhiêu. Xuất phát từ tính chất, mối quan hệ của công chức với
nhà nước mà công tác xây dựng đội ngũ công chức rất quan trọng. Ở bất cứ quốc
gia nào, vấn đề công chức cũng giành được sự quan tâm của nhà nước. Và, Việt
Nam cũng không là ngoại lệ. Sự quan tâm của nhà nước đối với công tác xây dựng
đội ngũ công chức ngày càng tăng và cụ thể. Điều này thấy rõ qua việc ban hành
các văn bản quản lý nhà nước về công chức qua tùng giai đoạn từ Nghị định số
217/CP ngày 8 tháng 6 năm 1979 của Hội đồng Chính phủ ban hành quy định về
chế độ trách nhiệm, chế độ kỷ luật, chế độ bảo vệ của công và chế độ phục vụ nhân
dân của cán bộ, công nhân viên và cơ quan Nhà nước, đến Pháp lệnh Cán bộ Công

chức 1998, Pháp lệnh sửa đổi bổ sung Pháp lệnh cán bộ công chức 2000, 2003 và
các văn bản hướng dẫn thi hành. Điều này cũng được thể hiện qua quá trình hoàn

7


thiện dần hệ thống cơ quan nhà nước quản lý công chức từ Ban Tổ chức cán bộ
Chính phủ đến Bộ Nội vụ bây giờ.
ơ Việt Nam, hệ thống văn bản pháp luật không phân biệt rõ cán bộ và công
chức nhà nước do tính đặc thù về chế độ chính trị và xã hội. Trong suốt quá trình
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tuỳ theo giai đoạn lịch sử
mà nội hàm và ngoại diên của khái niệm này thay đổi. Có thời điểm, khái niệm
công chức dùng để chỉ những công dân Việt Nam được chính quyền cách mạng
tuyển dụng, bổ nhiệm giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ
(trừ những trường hợp riêng do Chính phủ quy định) - sắc lệnh 76/SL quy định chế
độ công chức ngày 20/5/1950 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký

Có thời điểm, khái

niệm công chức lại không được nhắc đến, thậm chí bị hoà tan trong khái niệm cán
bộ, viên chức. Tình trạng này kéo dài suốt một chặng đường dài của lịch sử đất
nước từ năm 1954 đến năm 1991 sau khi Nghị định số 169/HĐBT về công chức
nhà nước do Hội đồng Bộ trưởng ban hành với khái niệm: “Công chức nhà nước là
công dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên
trong một công sở của nhà nước ở trung ương hay địa phương, ở trong nước hay
ngoài nước, đã được xếp vào một ngạch, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp.
Những đối tượng sau đây thuộc phạm vi công chức:
- Những người làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước ở trung
ương, ở các tỉnh, huyện và cấp tương đương.
- Những người làm việc trong các Đại sứ quán, Lãnh sự quán của nước

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài.
-

Những người làm việc trong các trường học, bệnh viện, cơ quan nghiên

cứu khoa học, cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình của nhà nước và nhạn
lương từ ngân sách.
- Những nhân viên dân sự làm việc trong các cơ quan Bộ Quốc phòng.

8


- Những người được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường
xuyên trong bộ máy của Văn phòng Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng nhân
dân các cấp.
- Những trường hợp riêng biệt khác do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng quy
định.”
Theo đó, Nghị định này đã góp phần tạo cơ sở pháp lý cho việc tuyển
chọn đúng, sử dụng hiệu quả các công chức làm việc trong các cơ quan nhà
nước, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ công chức phục vụ nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.
Ngày 26/2/1998 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua và ngày
9/3/1998 Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh cán bộ công chức, đánh
dấu một bước phát triến mới trong công tác xây dựng đội ngũ công chức. Trong
pháp lệnh này, khái niệm công chức không tách khỏi khái niệm cán bộ với ranh
giới rõ rệt mà được hiểu theo phương pháp loại trừ. Đối tượng không phải là cán
bộ (những người do bàu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong cơ quan
nhà nước, tô chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và những người đưọ'c
tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội) được coi là công chức. Pháp lệnh này

đã sửa đổi ngày 29/4/2003. Theo đó công chức là:
- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong cơ quan
nhà nước, ở Trung ương; ở tỉnh, thành phổ trực thuộc Trung ương ; ở huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
•- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc giao
giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở Trung ương, cấp
tỉnh, cấp huyện;

9


- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giao
giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước;
- Thẩm phán Tòa án nhân dân, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân;
- Những người được tuyển dụng, bố nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường
xuyên làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải
là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong cơ
quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan
chuyên nghiệp;
- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong ủ y ban
nhân dân xã, phường, thị trấn;
- Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ
thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã.”
Ngoài các quy định trên đây, xác định đối tượng là công chức được gắn
với 3 yếu tố cơ bản:
-

Sự tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một cương vị thường xuyên trong một

công sở nhà nước. Có nghĩa công chức là người được lựa chọn, tuyển dụng một

cách chu đáo theo một quy trình nhất định và được bổ nhiệm để thực thi công vụ
có tính thường xuyên. Tính thường xuyên có nghĩa là ổn định và liên tục. Đặc
điểm này gắn liền với tính thường xuyên, liên tục của nền hành chính, khác với
công việc chính trị có thể thay đổi và gián đoạn. Ví dụ: Đại biểu Quốc hội làm
theo nhiệm kỳ, còn công chức có thể thực hiện công việc của mình suốt đời nếu
không vi phạm pháp luật, kỷ luật Nhà nước.
-

Được xếp vào ngạch thể hiện tính nghề nghiệp của công chức. Đây là

dấu hiệu xác nhận người công chức là người làm một việc nhất định trong bộ
máy hành chính nhà nước.
-

Công chức hưởng lương do ngân sách Nhà nước cấp là dấu hiệu để

phân biệt công chức với các loại cán bộ khác. Ngân sách Nhà nước là quỹ chung

10


của Nhà nước, nguồn của Ngân sách là do nhân dân đóng góp. Nhà nước là cơ
quan công quyên đại diện cho nhân dân, sử dụng ngân sách để nuôi bộ máy phục
vụ nhân dân.
Trên cơ sở quy định của pháp luật về công chức cùng với những phân tích
trên đây, khái niệm công chức có thể được nêu như sau; “Công chức là công
dân Việt Nam được pháp luật thừa nhận đê thực hiện công vụ; được tuyển dụng
và bổ nhiệm giữ một cương vị thường xuyên trong một công sở nhà nước; được
xếp vào ngạch và hưởng lương do ngân sách Nhà nước cấp
1.1.2. Khái niệm xây dựng đội ngũ cồng chức

Việc tìm hiểu khái niệm “xây dựng đội ngũ công chức” được dựa trên
khái niệm công chức đã xác định ở trên và việc tìm hiểu các khái niệm về “xây
dựng” nói chung và các khái niệm có mức độ liên quan nhất định, như “xây
dựng bộ máy nhà nước”, “xây dựng cơ chế quản lý công chức”, “xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa” .v.v.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “xây dựng” được định nghĩa là “Xây dựng:
1. làm nên, gây dựng nên; 2. tạo ra cái có giá trị tinh thần, có nội dung nào đó,
VD: xây dựng đề cương; 3. (thái độ, ý kiến): có tinh thần đóng góp, làm tốt hơn”
Như vậy, xây dựng đội ngũ công chức được hiểu theo nghĩa thứ nhất,
mang tính chất gây dựng.
Hiện tại khái niệm “xây dựng đội ngũ công chức” chưa được xây dựng và
ghi nhận trong một tài liệu chính thức nào. Chính vì vậy, qua việc đánh giá một
số các định nghĩa liên quan và từ khái niệm công chức đã được xác định ở trên
có thê định nghĩa “xậy dụng đội ngũ công chức”, dưới góc độ pháp lý, là tong
hợp các hoạt động và biện pháp mà nhà nước tiến hành bao gồm ban hành các
văn bản pháp luật, tô chức triến khai, giám sát, kiếm tra, đảm bảo thực hiện
bằng quyền lực nhà nước nhằm hoàn thiện, phát triển và nâng cao chất lượng
đội ngũ công chức nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho hoạt động công vụ ở
11


thời điêm hiện tại; hoạch định chiến lược nguồn nhân lực lâu dài để đáp úng
nhu cầu phát triển của đất nước trong tương lai và nguyện vọng của đông đảo
rrhcĩn dân
1.2.

Vai trò của xây dựng đội ngũ công chức trong tiến trình cải

cách hành chính nhà nước.
Đội ngũ công chức là lực lượng lao động xã hội đặc biệt, là nguồn nhân

lực có đặc thù riêng, lao động của họ gắn liền với quyền lực nhà nước, hoặc
phục vụ cho lao động quyền lực nhà nước nhằm mục tiêu cuối cùng là phục vụ
nhân dân. Công chức nhà nước phục vụ trong nhiều cơ quan, công sở khác nhau
của bộ máy nhà nước, nhưng là một hệ thống thống nhất đồng bộ, có đặc trưng
nghề nghiệp giống nhau, có mục tiêu thực hiện hoạt động công cụ giống nhau là
phục vụ nhân dân, phục vụ nhà nước. Địa vị của họ được xác định trước hết
bằng một quy chế chung đối với mọi công chức, quy chế riêng đối với từng loại
công chức trong các ngành nghề khác nhau. Do đó việc xây dựng đội ngũ công
chức là công tác thiết yếu nhằm đảm bảo tính thống nhất, phân cấp rõ rệt cũng
như sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, giữa các cấp chính
quyền. Vì thế, xây dựng đội ngũ công chức có vai trò hết sức quan trọng trong
tổng thể chương trình cải cách hành chính ở nước ta trong giai đoạn này.
Trước hết, công chức với khả năng và trình độ được đào tạo sẽ nhận thức
đúng và đầy đủ ý nghĩa của cải cách hành chính. Trên cơ sở đó, các chương
trình hành động và mục tiêu đặt ra sẽ được cụ thể hoá trong tư duy làm việc
cũng như cụ thể trong công việc hành chính nhà nước.
Công chức là người thiết kế và thực hiện chương trình cải cách hành
chính. Bản thân đội ngũ công chức rất khó để có thể là một giai cấp đồng nhất,
hệ thống này được tạo nên từ những con người thuộc nhiều tầng lớp và phân biệt
nhau về nội bộ theo vùng, chức năng, cấp độ, phương thức nghề nghiệp, và khả
năng kỹ thuật. Đội ngũ công chức được xem như một công cụ để ảnh hưởng về
12


chính trị và sự vận động của xã hội đi lên. Vì có tính chất đa dạng của các loại
hình công việc và sự khác biệt trong đội ngũ công chức nên đồng thời phát sinh
những khác biệt về lợi ích và cách thức hướng tới những lợi ích này. Qua sự
phân tích này ta có thể thấy, vai trò của xây dựng đội ngũ công chức là hết sức
quan trọng bởi nó quyết định từ nhận thức của đội ngũ công chức, nhận thức để
thay đổi, chuyển đổi trong tiến trình cải cách. Nhìn từ tong thế xây dựng đội ngũ

công chức trong cải cách hành chính được hình dung như sắp xếp lại hệ thống
theo tính chất, trình độ và chức năng bên cạnh những lợi ích để phù hợp hơn.
Hơn thế nữa, xây dựng đội ngũ công chức là công tác có vị trí chiến lược
cho các chương trình kế tiếp. Cải cách hành chính được đặt ra như hoạt động
của bất cứ một quốc gia nào. Hoạt động đó được hoạch định theo một chiến lược
có tính dài hạn, như một hiện tượng có tính quy luật, có tính phát triển. Chính vì
vậy, để đạt được mục tiêu phát triển cần thiết hoàn thiện được cơ sở pháp lý
nhằm xây dựng nhân tố con người, xây dựng đội ngũ công chức thống nhất,
chuyên môn hoá cao để thực hiện chính sách. Và cao hơn nữa, đội ngũ công
chức đó phải là người hiểu đồng thời tiếp tục thực hiện cũng như hoạch định các
chương trình mới phù hợp với quy luật vận động của xã hội, của tình hình phát
triển cụ thể của đất nước đặt trong bối cảnh cụ thể của đất nước cũng như tình
hình thế giới.
Xây dựng đội ngũ công chức là cơ sở đầu tiên và cơ bản cho sự phát triển
chung của đất nước. Hiện nay, đội ngũ công chức đang được xây dựng cho
ngang tầm nhiệm vụ mới. Đội ngũ công chức có thể coi là trung tâm của toàn bộ
hệ thống chính trị, của bộ máy nhà nước, của nền hành chính và là của toàn bộ
qua trình phát triển. Đội ngũ công chức là nhân tố đề ra các cuộc cải cách hành
chính và đồng thời cũng thực hiện cải cách hành chính. Xây dựng đội ngũ công
chức là huy động nỗ lực của đội ngũ này theo phương hướng dự kiến. Có thể
nói, xây dựng đội ngũ công chức là một chiến lược cơ bản, ưu tiên số một. Xây
dựng một đội ngũ công chức có phẩm chất chính trị, đạo đức cao, có trình độ
13


kiến thức chuyên môn nghề nghiệp có vai trò quyết định trong thành công của
công cuộc cải cách hành chính. Đe hoàn thành tốt nhiệm vụ đó, đồng thời phải
xây dựng những chuẩn mực về mặt pháp luật, tạo ra một không gian và định
hướng cho hoạt động xây dựng con người mới, những công chức nhà nước có
chất lượng phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

1.3.

Quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo xây dựng đội ngũ công chức

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII) và Nghị quyết Đại hội IX
của Đảng đã đề ra nhiệm vụ "xây dựng đội ngũ công chức trong sạch, có năng
lực" và "hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, coi trọng cả năng lực và đạo
đức". Do đó, việc tiến hành nghiên cứu các luận cứ khoa học nhằm xây dựng đội
ngũ công chức đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân là việc làm hết sức cấp thiết.
Mặc dù còn phải tiếp tục nghiên cứu về nhằm hình thành các quan điểm
cũng như các nguyên tắc chỉ đạo của công tác xây dựng đội ngũ công chức phục
vụ công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân; Trong điều kiện hiện nay, xây dựng đội ngũ công chức nhất thiết phải
đứng trên trên nền tảng các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại và các
nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng hình mẫu
công chức “công bộc của nhân dân”.
Vì vậy, tất yếu phải hình thành một khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của
công chức, trong đó xác định rõ quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm cũng như các
điều kiện đảm bảo cho việc thực thi công vụ của họ. Chế độ công vụ phải được
xây dựng trên cơ sở bảo đảm những quyền lợi thỏa đáng đi kèm với những đòi
hỏi khắt khe về khả năng chuyên môn và tinh thần trách nhiệm của công chức.
Đồng thời, cần xây dựng thể chế - cơ chế quản lý công chức phù họp với nền

14


hành chính hiện đại, được thể hiện thông qua các văn bản quy phạm pháp luật về
công chức, công vụ...
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân,

vì dân thống nhất lãnh đạo công tác quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của Nhà nước, của các cơ quan
nhà nước trong quản lý, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức là rất quan
trọng. Từ lâu, vấn đề công chức đã được xác định là nhân tố quyết định sự thành
bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của đất nước ; là khâu then chốt trong
quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân. Vì vậy, vấn đề đổi mới và thể chế hóa công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ vừa có ý nghĩa hết sức quan trọng vừa là nhu cầu cấp bách hiện
nay. Thực hiện quản lý công chức bằng pháp luật, công chức dù ở cấp nào đều
phải gương mẫu chấp hành pháp luật nhà nước. Có công được khen thưởng, có
tội bị xử phạt theo luật, bất kể người đó là ai, ở cương vị công tác nào. Không
cho phép một cá nhân hoặc tổ chức nào được lợi dụng chức quyền để bao che,
trục lợi châm chước cho người phạm tội.


1.4.

Cơ sở xây dựng và những nội dung cơ bản của công tác xây

dựng đội ngũ công chức giai đoạn hiện nay
1.4.1. Cơ sở xây dựng đội ngũ công chức
Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền lý luận tiềm tàng
về công tác xây dựng đội ngũ công chức. Trong đó hám chứa quan điêm rõ ràng
là muốn xây dựng Nhà nước mạnh, phải có nền hành chính mạnh, mà trong đó
phải có một nền công vụ độc lập với một đội ngũ công chức hết sức trung thành
với tổ quốc, với nhân dân và đây là yếu tố thành bại của cách mạng.
Xét trong tính đặc thù, đội ngũ công chức của chúng ta được hình thành
trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, trải qua các chiến tranh, các hoạt
15



động kinh tế xã hội được vận hành theo cơ chế tập trung bao cấp, hệ thong luật
pháp chưa được xây dựng hoàn chỉnh. Vì vậy, khi nền kinh tế đất nước chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường, đội ngũ công chức đã bộc lộ những bất cập trên
nhiều lĩnh vực như thiếu kiến thức về hành chính và pháp luật, bỡ ngỡ trước sự
phát triển nhanh chóna của kinh tế thị trường, lúng túng trong hội nhập quốc tế
và thiếu năng động trong phục vụ lợi ích nhân dân. Không những thế, một bộ
phận không nhỏ công chức đã lạm dụng quyền lực, chức vụ, tham nhũng, sách
nhiễu và ức hiếp dân chúng. Trước tình hình đó, Đảng ta đã chủ trương: để xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tiến
hành cải cách hành chính, một trong những nội dung quan trọng của cải cách
hành chính là xây dựng đội ngũ công chức.
Trên cơ sở nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh dựa trên tính đặc thù của thực tiễn xây dựng đội ngũ công chức Việt
Nam, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho công tác này, ngay từ ngày thành lập nước
Việt Nam dân chủ công hoà 2/9/1945 đến nay, Đảng và Nhà nước ta hết sức chú
trọng đến công tác này được thể hiện bởi một hệ thống văn bản pháp luật hành
chính về công chức. Ngày 20/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh
76/SL quy định chế dộ công chức. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên điều chỉnh
lĩnh vực xây dựng đội ngũ công chức ở nước ta. Do điều kiện hoàn cảnh của đất
nước, để tạo cơ sở pháp lý cho việc tuyển dụng đúng, sử dụng có hiệu quả các
công chức làm việc trong các có quan nhà nước, từng bước xây dựng đội ngũ
công chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, ngày 25/5/1991 Hội đồng Bộ trưởng đã
ban hành Nghị định số 169/HĐBT về công chức Nhà nước. Ngày 26/2/1998
đứng trước yêu cầu cấp bách chuẩn hoá đội ngũ công chức, Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội đã thông qua và ngày 9/3/1998 Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp
lệnh công chức, đánh dấu một bước phát triển mới trong quá trình xây dựng
pháp luật về công chức. Pháp lệnh này đến nay đã được sửa đổi, Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội thông qua ngày 29/4/2003. Cùng với tiến trình cải cách hành chính,


16


THƯ VIỆN
Việt Nam đang hướng tới xây dựng Luật công vụ nhậ

ĨR Ư C M Q Đ A kH O C LUÀT,H

cơ sơ pỉiâị: lý

vững chắc cho công tác xây dựng đội ngũ công chức.
Đe có cơ sở pháp lý cho công tác xây dựng đội ngũ công chức, hệ thống
văn bản pháp luật về công chức trên cơ sở những nguyên tắc dân chủ, công khai,
công bằng xã hội, lấy thực tiễn và hiệu xuất cống hiến làm tiêu chuẩn cơ bản là
hết sức cần thiết.
1.4.2.Nội dung công tác xây dựng đội ngũ công chức
Yêu cầu và đòi hỏi của công tác xây dựng đội ngũ công chức trong tổng
thể chương trình cải cách hành chính là phải xác định được những nội dung cơ
bản. Nội dung này là cơ sở nhằm tìm kiếm những cơ sở lý luận phù hợp, đồng
thời sẽ giúp hoạch định các tiêu chuẩn pháp lý cụ thể cho công tác này. Nội
dung của chương trình xây dựng đội ngũ công chức bao gồm:
Thứ nhất, quản lý công chức là nội dung rất quan trọng trong chương
trình xây dựng đội ngũ công chức. Nội dung này bao gồm các hoạt động Quản
lý số lượng, chất lượng đội ngũ công chức nhà nước; Đánh giá và nhận xét về số
lượng và chất lượng phân theo các loại A, B, C; Cơ cấu công chức trong hệ
thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương; Công tác hoàn thiện
thể chế trong lĩnh vực quản lý công chức; Công tác tuyển dụng, thi nâng ngạch;
Các công tác quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, khen thưởng, kỷ
luật, nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức công chức


Phân cấp quản lý

công chức; Công tác tinh giản biên chế công chức trong cơ quan nhà nước;
Đánh giá về đổi mới quản lý công chức trong mỗi giai đoạn cụ thể, khẳng định
năng lực quản lý công chức của các cấp chính quyền địa phương từ trung ương
đến địa phương trong qúa trình đổi mới. Những ưu điểm chính trong công tác
quản lý công chức, những tồn tại, nguyên nhân.v.v.

17


Thứ hai, bên cạnh nội dung quản lý công chức là nội dung đào tạo, bồi
divỡng công chức. Qua đó, đội ngũ công chức sẽ thường xuyên được nâng cao
nhận thức và năng lực góp phần phát huy hiệu quả công tác, triển khai tốt các
chương trình, các hoạt động quản lý nhà nước trên các lĩnh vực cũng như cải
cách hành chính. Nội dung này bao gồm các hoạt động tập huấn cho các đổi
tượng công chức nhằm trang bị và hoàn thiện kỹ năng nghiệp vụ; sát hạch phẩm
chất đạo đức, năng lực, tính cần cù, thành tích trong công tác.
Thứ ba, tiền lương và các chế độ, chỉnh sách đãi ngộ cũng là nội dung
mang tính quyết định của công tác xây dựng đội ngũ công chức. Nội dung này
nhằm mục tiêu tạo tâm lý yên tâm cho công chức khi phục vụ đất nước, phục vụ
nhân dân, điều tiết cái chung và cái riêng, lợi ích cá nhân và lợi ích của đất
nước. Đặc biệt khi đất nước ta đang xây dựng một nền kinh tế thị trường thì cải
cách tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ phải thường xuyên thích ứng
với điều kiện sinh hoạt cũng như tiến bộ về mặt xã hội. Nội dung này bao gồm
các hoạt động cải cách hệ thống thang, bảng lương, điều chỉnh bội số và hệ số
tiền lương trong các thang, bảng lương, sửa đổi, bổ sung các chế độ phụ cấp
theo ngạch, bậc, theo cấp bậc chuyên môn v.v..., đánh giá công tác cải cách tiền
lương đối với công chức, xác định tồn tại cần khắc phục, nguyên nhân của
những tồn tại đó nhằm xây dựng phương hướng, kế hoạch phù hợp với từng giai

đoạn phát triển.
Thứ tư, để đội ngủ công chức có chất lượng, nội dung nâng cao tinh
thần trách nhiệm và đạo đức công chức cũng cần được quan tâm. Ngay từ khi
thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt
vấn đề phải làm sao cho tất cả công chức từ Chính phủ đến làng xã đều là công
bộc của nhân dân, đều phải tận tụy phục vụ nhân dân. Người luôn nhấn mạnh và
khẳng định, đạo đức là cái gốc của người cách mạng, của công chức; và đòi hỏi
mỗi người, nhất là người cán bộ cách mạng, phải có đạo đức cách mạng, phải
kết hợp chặt chẽ phẩm chất và năng lực, hồng và chuyên, đức và tài, trong đó
18


Chương 2
TH ựC TIỄN XÂY DựNG ĐỘI NGỦ
CÔNG CHỨC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Quản lý công chức
2.1.1. Pháp luật về quản lý công chức
Đe thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai
đoạn 2001-2010, ngày 29 tháng 4 năm 2003 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 69/2003/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Xây dựng, nâng cao
chất lượng đội ngũ công chức nhà nước giai đoạn 1 (2003-2005). Chương trình
xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức nhà nước giai đoạn 1 (20032005), có mục tiêu chung là Xây dựng đội ngũ công chức hành chính có số
lượng, cơ cấu phù hợp với yêu cầu thực tiễn, từng bước tiến tới chuyên nghiệp,
hiện đại; có phẩm chất đạo đức tốt và năng lực thi hành công vụ, tân tuỵ phục vụ sự
nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân.
Các mục tiêu cụ thể được đặt ra là: Tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế
xây dựng, quản lý công chức nhà nước, cơ chế hoạt động công vụ phù hợp với
yêu cầu mục tiêu của nền hành chính hiện đại; Xác định tiêu chuẩn, chức danh
ngạch công chức cho từng lĩnh vực. Công chức được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ, kỹ năng thực hành theo yêu cầu nghề nghiệp của từng loại công chức, biết sử

dụng máy vi tính và ngoại ngữ trong hoạt động công vụ. Từng bước cải tiến
công tác quản lý hồ sơ nhằm hiện đại hoá công tác quản lý công chức. Áp dụng
rộng rãi Công nghệ thông tin và các công cụ quản lý hiện đại khác trong việc
quản lý đội ngũ công chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách ở cơ sở vững
mạnh, có năng lực tổ chức, công tâm với nhiệm vụ, thạo việc, tận tuỵ với dân,
biết phát huy sức dân, tăng cường mối quan hệ giữa chính quyền với nhân dân;

19


nâng cao trách nhiệm công tác, ý thức tổ chức kỷ luật, và đạo đức công vụ của
công chức.
Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ trọng tâm về xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về quản lý đội ngũ công chức là triển khai thực hiện Pháp lệnh Công
chức sau khi dược sửa đôi bố sung; nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn để chuẩn
bị xây dựng luật Công vụ.
Pháp lệnh Công chức được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua và có
hiệu lực thi hành từ 1 tháng 5 năm 1998, là văn bản pháp qui quan trọng để nhà
nước ta xây dựng và quản lý đội ngũ công chức. Qua 5 năm thực hiện Pháp lệnh,
cùng với sự phát triển của nền hành chính và cải cách hành chính, nhiều nội
dung của Pháp lệnh đã phát huy tích cực trong xây dựng và quản lý đội ngũ
công chức nhưng mặt khác thực tiễn cũng đã đòi hỏi phải có những đổi mới đế
phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và cải cách hành chính. Thực hiện Nghị
quyết Hội nghị TW VII khoá 8 và Nghị quyết Hội nghị TW 5, Hội nghị TW6
khoá 9, Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lênh Công chức được
Ưỷ ban thường vụ đã thông qua ngày 29 tháng 4 năm 2003, và có hiệu lực thi
hành vào ngày 1 tháne 7 năm 2003. Pháp lệnh này đã phân biệt rõ đối tượng
công chức làm việc trong các cơ quan nhà nuớc với công chức làm việc trong
các đơn vị sự nghiệp của nhà nước; Bổ sung cán bộ chuyên trách và cán bộ
chuyên môn ở xã phường thị trấn là đối tương điều chỉnh cuả Pháp lệnh; quy

định về chế độ công chức dự bị; đổi mới quản lý biên ché và công tác tuyển
dụng công chức.
Để triển khai thực hiện Pháp lệnh sửa đổi bổ sung Pháp lệnh Công chức
năm 2003, hệ thống các văn bản pháp quy hướng dẫn thực hiện để hoàn thiện
khung pháp lý cho quản lý, đội ngũ công chức đã được xây dựng. Kết quả cho ra
đời các cơ sở pháp lý quan trọng sau:

20


Nghị định số 115/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của
Chính phủ về chế độ công chức dự bị;
Nghị định số 1 16/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của
Chính phủ về việc tuyên dụng, sử dụng và quản lý công chức trong các đơn vị
sự nghiệp của nhà nước;
Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của
Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức trong các cơ quan
nhà nước;
Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của
Chính phủ về công chức xã, phường thị trấn;
Nghị

định số 121/2003/NĐ-CP ngày

Chính phủ về chế độ, chính sách đối với công chức,
Nghị
Chính phủ về việc

định số 35/2005/NĐ-CP ngày


21 tháng 10năm 2003 của
phường, thị trấn;
17 tháng 03năm 2005 của

xử lý kỷ luật công chức;

Nghị định số 54/2005/NĐ-CP ngày 19/4/2005 của Chính phủ về
chế độ thôi việc, chế độ bồi thường chi phí đào tạo đối với công chức.
Nghị định 121/2006/ND-CP ngay 23/10/1006 Sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 116/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của
Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các
đơn vị sự nghiệp của Nhà nước
Bên cạnh đó là hệ thống các Thông tư hướng dẫn thực hiện các Nghị định
nói trên và tổ chức hướng dẫn, đôn đốc kiểm tra thực hiện.

21


2.1.2. Thực tiễn quản lý cồng chức
Với việc xây dựng, ban hành văn bản nói trên, hệ thống thể chế quản lý
công chức đã từng bước được hoàn thiện; sửa đối bố sung kịp thời các vướng
mắc trong thực tiễn; khẳc phục được những tồn tại trong các văn bản và quản lý
công chức trước đây; Đen nay, về cơ bản, những văn bản pháp quy hướng dẫn
thực hiện Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lênh Công chức, đã
khá đầy đủ, theo tinh thần đổi mới cụ thể là:

về đổi mới cơ chế bổ nhiệm công chức lãnh đạo:
Thực hiện chủ trương nâng cao chất lượng và chuẩn hoá đội ngũ công
chức lãnh đạo, Bộ Nội vụ đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
27/2003/QĐ-TTg ngày 19 tháng 2 năm 2003 về Quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm

lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm công chức lãnh đạo. Tại Quyết định này
đã quy định chế độ bổ nhiệm có thời hạn, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức và
miễn nhiệm đối với công chức lãnh đạo. Qua đó chủ trương bổ nhiệm có thời
hạn của Đảng được thể chế hoá. Những người không đảm đương được vị trí
chức danh đang giữ thì không thực hiện bổ nhiệm lại và được bố trí công tác
khác phù hợp.
Bên cạnh đó, công tác kiểm tra việc thực hiện công tác bổ nhiệm, bổ
nhiệm lại đối với công chức lãnh đạo ở các cơ bộ, tỉnh cũng được tăng cường để
công tác này trở thành nề nếp, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ lãnh đạo
các cấp.
Tuyến dụng:
Căn cứ vào các nội dung sửa đổi của Pháp lệnh công chức, Nghị định số
115/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 về chế độ công chức dự bị; Nghị định số
116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 quy định chế độ tuyển dụng, sử dụng và quản

22


×