Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Luận văn Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật Nhật Ký Mãi Mãi Tuổi Hai Mươi Của Nguyễn Văn Thạc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (761.11 KB, 56 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
----------------------

NGUYỄN THỊ THANH

GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT
NHẬT KÝ MÃI MÃI TUỔI HAI MƢƠI CỦA
NGUYỄN VĂN THẠC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI – 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
----------------------

NGUYỄN THỊ THANH

GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT
NHẬT KÝ MÃI MÃI TUỔI HAI MƢƠI CỦA
NGUYỄN VĂN THẠC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học


ThS. NGUYỄN PHƢƠNG HÀ

HÀ NỘI, 2018


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên cho phép tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và lòng
biết ơn sâu sắc đến giáo viên, ThS. Nguyễn Phương Hà đã tận tình giúp đỡ và
hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong tổ Văn học Việt
Nam, khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giúp đỡ tôi và
tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Thị Thanh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan, khóa luận với đề tài Giá trị nội dung và nghệ thuật
nhật ký Mãi mãi tuổi hai mƣơi của Nguyễn Văn Thạc được hoàn thành
dưới sự cố gắng của bản thân cùng với sự hướng dẫn tận tình của ThS.
Nguyễn Phương Hà cũng như các thầy cô trong Tổ Văn học Việt Nam.
Khóa luận của tôi không trùng với kết quả nghiên cứu của tác giả nào
đã từng công bố. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Thị Thanh



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ....................................................................................2
3- Mục đích nghiên cứu ............................................................................................6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................6
5- Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu. ..........................................................................7
6- Phƣơng pháp nghiên cứu .....................................................................................7
7- Cấu trúc khóa luận ...............................................................................................7
NỘI DUNG ................................................................................................................8
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ..............................................................8
1.1. Khái niệm thể ký và thể loại nhật ký ................................................................8
1.1.1. Khái niệm thể ký ................................................................................................8
1.1.2. Khái niệm nhật ký............................................................................................10
1.2. Đặc điểm của nhật ký .......................................................................................11
1.3. Tác giả Nguyễn Văn Thạc và nhật ký Mãi mãi tuổi hai mƣơi ......................13
1.3.1. Tác giả Nguyễn Văn Thạc ...............................................................................13
1.3.2. Giới thiệu cuốn nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi ..............................................14
1.3.3. Giá trị và ý nghĩa của nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi trong dòng chảy
văn học Việt Nam hiện đại ........................................................................................16
CHƢƠNG 2. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG THỂ HIỆN
TRONG NHẬT KÝ MÃI MÃI TUỔI HAI MƢƠI ................................................18
2.1. Hiện thực chiến tranh ......................................................................................18
2.1.1. Chiến tranh khốc liệt .......................................................................................18
2.1.2. Chiến tranh với những mất mát đau thương ...................................................21
2.2. Hiện thực con ngƣời .........................................................................................23
2.2.1. Cái tôi khao khát thực hiện lí tưởng ...............................................................23
2.2.2. Cái tôi gắn liền với đồng chí, đồng đội ...........................................................28

2.2.3. Cái tôi gắn bó với tình cảm quê hương, đất nước ..........................................29


2.2.4. Cái tôi trong quan hệ tình yêu lứa đôi ............................................................32
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN .............37
TRONG NHẬT KÝ MÃI MÃI TUỔI HAI MƢƠI ................................................37
3.1. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm ............................................................................37
3.2. Không gian nghệ thuật.....................................................................................39
3.3. Thời gian nghệ thuật ........................................................................................42
KẾT LUẬN ..............................................................................................................47
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Ký là một trong những thể loại đặc biệt của văn học Việt Nam, một
loại hình văn học trung gian giữa đời sống và văn học. Đây là thể loại có
nhiều biến thể với hình thức và nội dung đa dạng, phong phú. Đặc biệt, nó
còn là thể loại mở đầu, đưa đến sự phát triển rực rỡ của chủ nghĩa hiện thực
trong nền văn học nghệ thuật. Sau năm 1945 văn học Việt Nam có hẳn cả một
nền văn học ký. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và hiện thực hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ký đã in đậm dấu ấn nghệ
thuật trong nhiều tác phẩm.
1.2. Năm 2005 được coi là năm đánh dấu bước phát triển của thể loại ký.
Một phát hiện mới được mở ra cho lịch sử phát triển của văn học Việt Nam
nói chung, thể ký nói riêng, cụ thể đó là nhật ký. Sự bùng nổ trong thể loại
nhật ký được biết đến qua cơn sốt “Nhật ký chiến tranh” với cuốn nhật ký
mang tên Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc. Tác phẩm Mãi mãi
tuổi hai mươi ra đời đã đánh dấu một dấu mốc quan trọng không chỉ đối với
thể ký nói riêng, trong văn học nói chung mà còn cả trong tư tưởng, suy nghĩ

lối sống của thế hệ trẻ thanh niên Việt Nam. Với cách viết chân thật, tỉ mỉ ghi
lại những gian khổ của cuộc kháng chiến chống Mỹ năm 1971-1972, tình
cảm, suy nghĩ chân thực của người chiến sĩ khi phải xa gia đình, xa quê
hương đã thức tỉnh thế hệ trẻ cần phải sống có mục đích, có lí tưởng và sống
có ích cho đời, cho xã hội.
1.3. Mãi mãi tuổi hai mươi chính là tác phẩm mở màn cho hiện tượng
văn học chiến tranh. Nó không chỉ gây sốt cho cộng đồng, bạn đọc, nhà
nghiên cứu lý luận phê bình văn học mà còn là nguồn cảm hứng để rất nhiều
cuốn nhật ký cùng thể loại ra đời. Sau Mãi mãi tuổi hai mươi bạn đọc lại được
đón nhận một loạt các tác phẩm nhật ký chiến tranh như Nhật ký Đặng Thùy

1


Trâm, Nhật ký Chu Cẩm Phong, Nhật ký Dương Thị Xuân Quý, Nhật ký chiến
tranh của Nguyễn Văn Vũ. Nhật ký chiến tranh chính thức giành một chỗ
đứng trong văn học Việt Nam.
Với mong muốn hiểu rõ hơn những giá trị cụ thể về nội dung và nghệ
thuật của cuốn nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và sự ảnh hưởng của thể ký
trong văn học hiện đại, chúng tôi lựa chọn đề tài này nhằm giúp người đọc
hiểu sâu hơn những nét đặc sắc của thể loại nhật ký cũng như giá trị về nội
dung và nghệ thuật của tác phẩm Mãi mãi tuổi hai mươi.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ký ra đời muộn hơn so với các loại hình văn học khác và quá trình phát
triển của nó gắn liền với quá trình phát triển của văn học bác học. Lịch sử
phát triển của ký bắt đầu từ Châu Âu. Vào thế kỉ thứ XVIII, người ta thấy
xuất hiện ký văn học trên một số tạp chí trào phúng. Bước sang thế kỉ thứ
XIX khi chủ nghĩa hiện thực trở thành một phong trào sáng tác rầm rộ thì ký
văn học phát triển rực rỡ. Ở Trung Quốc, ký xuất hiện từ trước đời Hán. Đến
triều đại Đường, Tống, Minh, Thanh loại hình này càng phát triển và ý thức

được về thể loại. Ở Việt Nam, ký xuất hiện từ thời Lí, Trần. Đến đời Lê,
Nguyễn, ký văn học có sự phá cách, sự sáng tạo phong phú và đạt được nhiều
thành tựu.
Sự kiện nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi ra đời đã nhận được sự đồng tình,
ủng hộ và được bạn đọc cả nước đón nhận nồng nhiệt. Tác phẩm trở thành
tâm điểm của nhiều tạp chí, báo chí, các chương trình phát thanh và truyền
hình vì vậy tác phẩm nhanh chóng được công chúng quan tâm và đón nhận.
Mặc dù gây được tiếng vang lớn nhưng cho đến nay việc nghiên cứu về tác
phẩm Mãi mãi tuổi hai mươi dường như chưa có một công trình riêng, mang
tính chuyên sâu. Ở những mức độ khác nhau, chúng tôi điểm qua một số công
trình nghiên cứu về cuốn nhật ký và khái quát các bài viết có liên quan tới
nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi.

2


Đánh giá về ảnh hưởng của cuốn nhật ký với thế hệ thanh niên Việt
Nam, báo An ninh Thế giới ra ngày 30-4-2005 cho rằng: “Âm hưởng chung
của tập nhật ký là tinh thần lạc quan, sẵn sàng ra trận, sẵn sàng xả thân vì Tổ
quốc của một thanh niên trí thức Hà Nội.”
Bàn về nội dung của cuốn nhật ký, báo Lao động ra ngày 6-5-2005
khẳng định: “Điều quan trọng là người viết không quá lên gân và không quá
sa đà vào chuyện riêng tư, vụn vặt. Một cuốn nhật ký đáng đọc.” [25]
Khẳng định giá trị tập nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi, báo Tuổi trẻ TP
Hồ Chí Minh ra ngày 21-5-2005 chia sẻ: “Bạn sẽ đọc vào trang sách và bạn sẽ
thấy mình đang đọc một trái tim, một tâm hồn…Một tình yêu lí tưởng tiêu
biểu của thanh niên thời chiến tranh ấy. Chàng trai ra trận, cô gái đi học xa,
tình yêu vượt không gian và thời gian chín lên trong tình cảm nhớ thương
mong ngóng đợi chờ hi vọng của hai người…”
Trên báo Vietnam.Net, tác giả Bùi Dũng đã dùng những tình cảm chân

thành nhất để nói về những trang nhật ký của Nguyễn Văn Thạc: “Nguyễn
Văn Thạc gấp lại những trang sách đời khi vừa chớm tuổi hai mươi, khi
câu trả lời hạnh phúc còn để ngỏ. Ba mươi năm đã qua sau ngày hẹn
30/4/1975.” [3]
Điểm qua các trang báo, chúng ta có thể thấy được sức lan tỏa rộng rãi rõ
rệt của cuốn nhật ký đến bạn đọc. Nó không chỉ mang đến cho người đọc một
thể loại mới mà hơn hết là ý nghĩa sâu xa ẩn chứa bên trong: một con người,
một trái tim khao khát lí tưởng, khao khát tình yêu, tự do. Nguyễn Văn Thạc
không chỉ nói về lí tưởng, tâm tư tình cảm của mình mà những dòng nhật ký
của anh là đại diện cho cả một thế hệ trẻ lúc bấy giờ, hăng hái tham gia chiến
đấu, cống hiến sức trẻ cho sự nghiệp chung của dân tộc. Cuốn nhật ký chính
là ngọn lửa bùng cháy giữa thời đại văn học hiện đại, nó đã truyền nhiệt sống
đến hàng triệu trái tim con người Việt Nam. Bên cạnh những nét nổi bật về

3


nội dung của cuốn nhật ký thì những nét mới về nghệ thuật trong thể loại này
cũng đóng vai trò quan trọng trong cuốn nhật ký. Tính chân thật chính là điều
thu hút bạn đọc và là cơ sở để người đọc muốn khám phá. Dư âm của cuốn
nhật ký sẽ luôn còn mãi theo thời gian, gắn liền với chặng đường của dân tộc.
Không chỉ tạo được tiếng vang trên báo chí về loại hình nhật ký chiến
tranh mà ngay cả giới văn học rất nhiều nhà thơ, nhà văn cũng thu hút bởi sức
hấp dẫn của cuốn nhật ký. Sau khi đọc cuốn nhật ký, nhà thơ Phạm Tiến Duật
đã không kìm được nỗi lòng mà viết nên những dòng tâm sự gửi đến thế hệ
bạn đọc: “Tôi muốn các bạn trẻ bây giờ đọc và nhớ tên anh. Tôi muốn các cây
bút trẻ bây giờ đọc và nhớ tên anh. Có được điều đó trái tim của tuổi trẻ bây
giờ sẽ đằm thắm hơn, tha thiết hơn và cương nghị hơn trước cuộc sống mà
Nguyễn Văn Thạc và đồng đội đã đánh đổi tính mạng mình để giành lấy cho
đời nay và mai sau”.

Nhà thơ Thanh Thảo đã giành những vần thơ để ca ngợi về cuốn nhật ký
Mãi mãi tuổi hai mươi
“Ngày các chị các anh nằm xuống
vừa tuổi hai mươi
thôi cũng đành coi như một chuyến đi
về một thế giới khác…”
Bình về bài thơ của Thanh Thảo nhà văn Lê Hoài Lương đã so sánh với
tác phẩm Những người chết trẻ của nữ nhà văn Đông Đức nổi tiếng: Anna
Seghers. Ông khẳng định: “Bài thơ nói trên của nhà thơ Thanh Thảo cũng viết
về những người lính ngã xuống tuổi đôi mươi nhưng nó không phải một kiểu
phản biện với Anna Seghers, nó có ý nghĩa buồn hơn rất nhiều.”
Quá trình tìm hiểu chúng tôi nhận thấy xoay quanh cuốn nhật ký không
dừng lại là các bài báo, các ý kiến của các nhà văn, nhà thơ mà tác phẩm này

4


còn có các công trình khóa luận, các nghiên cứu tìm hiểu về nhật ký Mãi mãi
tuổi hai mươi.
Tìm hiểu về giá trị của cuốn nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi nhóm tác giả
Lê Phương Ly và Bùi Thảo Mai của trường Đại học Tây Bắc đã triển khai đề
tài: “Đặc sắc trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc”.
Với đề tài này, tác giả đã chỉ ra những nét đặc sắc trong nhật ký Mãi mãi tuổi
hai mươi cả về nội dung và nghệ thuật. Về nội dung, tác giả đã chỉ ra những
nét đặc sắc về bối cảnh xã hội, cụ thể là hiện thực chiến tranh và con người
trong bức tranh ấy hiện lên qua những dòng suy tư của Nguyễn Văn Thạc. Về
mặt nghệ thuật, tác giả đi sâu vào nghệ thuật trần thuật qua điểm nhìn trần
thuật, giọng điệu trần thuật và ngôn ngữ trau truốt ước lệ. Tuy nhiên, tác giả
mới chỉ khai thác được yếu tố nội dung của tác phẩm chưa khai thác được đặc
trưng của thể loại với tác phẩm.

Liên quan đến nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi phải kể đến luận văn của
tác giả Trần Thị Thu với tên gọi Nhật ký chiến tranh qua sáng tác của một số
tác giả tiêu biểu Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm, Chu Cẩm Phong. Ở đề
tài này, tác giả miêu tả bức tranh về hiện thực chiến trường và tâm trạng của
những người trong cuộc. Trong phần nghệ thuật tác giả khai thác những nét
riêng biệt của thể loại nhật ký chiến tranh như ngôn ngữ quy ước ẩn dụ, lối
ghi chép linh hoạt sáng tạo, giọng điệu trăn trối, di chúc.
Ngoài ra còn một số đề tài khác lại nghiên cứu đi sâu về nghệ thuật nổi
bật của cuốn nhật ký, tiêu biểu là công trình nghiên cứu Kết cấu văn học khảo
sát qua ba cuốn nhật ký là Mãi mãi tuổi hai mươi, Nhật ký Đặng Thùy Trâm
và nhật ký chiến trường của tác giả Vũ Thị Hoài Thu. Đặc biệt nhật ký Mãi
mãi tuổi hai mươi là một trong những tác phẩm có giá trị xuất sắc khi được
chuyển thể thành phim với nhan đề Mùi cỏ cháy, do Hoàng Nhuận Cầm

5


chuyển thể kịch bản. Bộ phim đã gây được ấn tượng sâu sắc đến người xem
và đoạt giải Cánh diều vàng năm 2012.
Nhìn chung mỗi ý kiến, mỗi nhận định đều tập trung đi sâu vào những
khía cạnh nhỏ, cụ thể của tập nhật ký, các công trình nghiên cứu cũng đã
chạm đến những vấn đề cơ bản nhưng vẫn chưa khai thác nhiều giá trị mà
cuốn nhật ký truyền tải. Từ những công trình nghiên cứu lẻ tẻ, mang tính chất
gợi mở, chúng tôi quyết định tìm hiểu đề tài Giá trị nội dung và nghệ thuật
nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi, với mong muốn có hướng tiếp cận mới những
giá trị nội dung và nghệ thuật mà cuốn nhật ký mang lại.
3- Mục đích nghiên cứu
Thể loại nhật ký đã góp phần hoàn thiện bức tranh hiện thực đời sống
của con người. Phản ánh cuộc sống thực tại trên nhiều phương diện giúp cho
người đọc có cái nhìn toàn diện hơn về con người và xã hội. Nhật ký Mãi mãi

tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc đã mở ra thế giới tâm hồn đầy cảm xúc
và giàu suy tư tình cảm của người chiến sĩ viết về hiện thực chiến tranh.
Thực hiện đề tài Giá trị nội dung và nghệ thuật nhật ký Mãi mãi tuổi hai
mƣơi của Nguyễn Văn Thạc, chúng tôi muốn làm rõ hơn về thể ký và nhật ký văn
học. Qua đó khẳng định những đóng góp mới về mặt thể loại của nhật ký trong nền
văn học Việt Nam và giá trị tập nhật ký với thế hệ trẻ Việt Nam hiện tại và mai sau.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện khóa luận này chúng tôi hướng tới nhiệm vụ sau:
1. Đưa ra khái niệm ký và phân biệt các tiểu loại của thể ký như nhật ký,
bút ký, tùy bút…
2. Tìm hiểu một số phương diện nội dung của cuốn nhật ký: Hiện thực
chiến tranh, hiện thực con người.
3. Tìm hiểu một số phương diện nghệ thuật của cuốn nhật ký: Ngôn ngữ
độc thoại nội tâm, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật.

6


5- Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu.
5.1. Đối tƣợng
Trong khóa luận này, chúng tôi hướng đến nghiên cứu: Tìm hiểu giá trị nội
dung và nghệ thuật nhật ký Mãi mãi tuổi hai mƣơi của Nguyễn Văn Thạc.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu khóa luận: Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc
do Đặng Vương Hưng sưu tầm và giới thiệu, nhà xuất bản Thanh niên, 2005.
6- Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện khóa luận này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu:
1. Phương pháp thống kê, phân loại
2. Phương pháp liên ngành
3. Phương pháp phân tích, bình giảng

7- Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung chính của
khóa luận gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Một số phương diện nội dung trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật trong nhật ký Mãi mãi tuổi
hai mươi

7


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm thể ký và thể loại nhật ký
1.1.1. Khái niệm thể ký
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi cho rằng: “Ký là một loại hình văn học nằm trung gian giữa
báo chí và văn học, gồm nhiều thể, chủ yếu là văn xuôi tự sự như bút ký, hồi
ký, du ký, phóng sự, ký sự, nhật ký, tùy bút…
Ký có đặc trưng riêng do nội dung và quan điểm thể loại của ký quy
định. Ký không nhằm vào việc miêu tả quá trình hình thành tính cách của cá
nhân trong tương quan với hoàn cảnh. Những câu chuyện đời tư khi chưa nổi
lên thành các vấn đề xã hội cũng không phải là đối tượng quan tâm của ký.
Đối tượng nhận thức thẩm mỹ của ký thường là một trạng thái đạo đức phong hóa xã hội thể hiện qua những cá nhân riêng lẻ, một trạng thái tồn tại
của con người hoặc những vấn đề xã hội nóng bỏng. Vì thế nhiều tác phẩm ký
rất gần với truyện ngắn.
Ký có quan điểm là tôn trọng sự thật khách quan của đời sống, không hư
cấu. Nhà văn viết ký luôn chú ý đảm bảo cho tính xác thực của hiện thực đời
sống được phản ánh trong các tác phẩm. Ký thường không có cốt truyện có

tính hư cấu. Sự việc và con người trong ký phải xác thực hoàn toàn, có địa chỉ
hẳn hoi. Đó là vì ký dựng lại những sự thật đời sống cá biệt một cách sinh
động, chứ không xây dựng các hình tượng mang tính khái quát. Tính khái
quát do tác giả ký thể hiện bằng suy tưởng.” [7, 162]
Theo cuốn Bách khoa toàn thƣ Xô Viết Matcova: “Ký là một thể văn
thuộc loại văn học tự sự bao gồm các lĩnh vực nghệ thuật, khoa học, báo chí.

8


Cơ sở của ký là việc tái tạo lại những sự kiện, những con người có thật mà tác
giả đã tận mắt nhìn thấy trong cuộc sống. Ký nghệ thuật là một thể loại văn
học trong đó tác giả thông qua việc miêu tả những sự kiện có thật của cuộc
sống, điển hình hoá chúng để đạt đến những khái quát nghệ thuật.” [4]
Nhận định về khái niệm ký trong Từ điển văn học (tập 1): “Ký là một
loại hình văn học bên cạnh thơ, tiểu thuyết và kịch, gồm nhiều thể, chủ yếu là
văn xuôi như: bút ký, hồi ký, du ký, nhật ký, phóng sự, ký sự, tuỳ bút, tự
truyện, tạp văn, bút ký chính luận… Ký phản ánh sự việc và con người có thật
trong cuộc sống. Tính chính xác tối đa là đặc trưng cơ bản của ký. Do đó, sức
hấp dẫn, sức thuyết phục của ký một phần lớn do chính sự việc được phản ánh
trong tác phẩm.” [26]
Ký được chia thành các tiểu loại:
*Bút ký: Thể loại thuộc loại hình ký thường có quy mô tương ứng với
truyện ngắn. Bút ký ghi lại những con người thực và sự việc mà nhà văn tìm
hiểu, nghiên cứu cùng với những cảm nghĩ của mình nhằm thể hiện một tư
tưởng nào đó.
Giá trị hàng đầu của bút ký là giá trị nhận thức. Bút ký có thể thuộc về
văn học, cũng có thể thuộc về báo chí tùy theo mức độ biểu hiện cái riêng của
tác giả và mức độ sử dụng các biện pháp nghệ thuật cùng tính chất tác động
của nó đối với công chúng. Bút ký cũng có thể thiên về khái quát các hiện

tượng của đời sống có vấn đề, hoặc thiên về chính luận.
*Du ký: Một loại hình văn học thuộc loại hình ký mà cơ sở là sự ghi
chép của bản thân người đi du lịch, ngoạn cảnh về những điều mắt thấy tai
nghe của chính mình, tại những xứ sở xa lạ hay những nơi ít người có dịp
đến. Hình thức của du ký rất đa dạng, có thể là ghi chép, ký sự, nhật ký, thư
tín, hồi tưởng miễn là mang lại những thông tin, tri thức và cảm xúc mới lạ về
phong cảnh, phong tục, dân tình của xứ sở ít người biết đến.

9


*Hồi ký: Một thể loại thuộc loại hình ký, kể lại những biến cố đã xảy ra
trong quá khứ mà tác giả là người tham dự hoặc chứng kiến.
*Ký sự: Một thể loại thuộc loại hình ký nhằm ghi chép lại một câu
chuyện, một sự kiện tương đối hoàn chỉnh. Ký có những đặc điểm chung với
bút ký như viết về người thật, việc thật mà tác giả trực tiếp chứng kiến, cốt
truyện không chặt chẽ như trong truyện, sử dụng nhiều biện pháp và phương
tiện biểu đạt nghệ thuật…Song ở ký sự, phần bộc lộ cảm nghĩ của tác giả và
những yếu tố liên tưởng, nghị luận thường ít hơn ở bút ký và tùy bút…
*Tùy bút: Một thể loại thuộc loại hình ký, rất gần với bút ký, ký sự.
Nét nổi bật ở tùy bút là qua việc ghi chép những con người và sự kiện cụ
thể có thực, tác giả đặc biệt chú trọng đến việc bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận
thức, đánh giá của mình về con người và cuộc sống hiện tại.
Ngoài những thể ký phổ biến nói trên, trong thực tế còn có nhiều thể ký
khác, và trong mỗi thể nói trên cũng có thể bao gồm nhiều tiểu thể loại. Ranh
giới giữa các thể loại ký nói trên cũng không tuyệt đối, luôn có tình trạng
chuyển hóa, thâm nhập lẫn nhau.
1.1.2. Khái niệm nhật ký
Qua khảo sát chúng tôi khái quát về khái niệm nhật ký như sau:
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,

Nguyễn Khắc Phi định nghĩa:
“Nhật ký là hình thức tự sự ở ngôi thứ nhất được thể hiện dưới dạng
những ghi chép hàng ngày theo thứ tự ngày tháng về những sự kiện của đời
sống mà tác giả hay nhân vật chính là người trực tiếp tham gia hay chứng
kiến, nó ghi lại những cảm nghĩ “vừa mới xảy ra” chưa lâu” [7, 237].
Tìm hiểu khái niệm nhật kí trong Giáo trình Lý luận văn học (tập 2),
GS. Trần Đình Sử cho rằng: “Nhật ký là thể loại mang tính chất riêng tư, đời
thường nhiều nhất... Nhưng tính chất riêng tư mâu thuẫn với mục đích giao

10


tiếp của văn bản, cho nên khó tránh việc có người làm giả nhật ký, hoặc mượn
nhật ký làm hình thức để viết tiểu thuyết.
Nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc là trường hợp
tiêu biểu.” [22, 379]
Như vậy, có thể nói rằng, nhật ký chính là những ghi chép của cá nhân
về những sự kiện, những cảm xúc, suy nghĩ trước những sự kiện xảy ra trong
ngày hay trong thời điểm gần.
1.2. Đặc điểm của nhật ký
Là một tiểu loại của ký nên nhật ký vừa mang những nét đặc điểm chung
nhất của thể loại ký vừa mang nét riêng biệt từ đó tạo ra cái riêng của thể loại.
Nhật ký có 4 đặc điểm sau:
*Thứ nhất: Ký là sự can thiệp trực tiếp của nghệ thuật vào đời sống xã
hội và nhật ký cũng giống như vậy.
Nhật ký là ghi chép lại các sự kiện, cảm xúc của cá nhân trong một thời
gian nhất định vì thế yếu tố đời sống chính là nguồn tư liệu làm nên giá trị của
nhật kí.
Nhật ký là một loại hình nghệ thuật, một hình thức hoạt động thực tiễntinh thần có tham vọng can dự vào mọi lĩnh vực của đời sống. Chính vì thế
nhật ký ghi được rất rõ những dấu ấn của một sự kiện, của một thời kì, của

một lớp người, của một vùng miền.
*Thứ 2: Tính xác thực của nhật ký
Xuất phát từ việc ghi chép lại các mốc thời gian, sự kiện trong ngày
nên nhật ký luôn có tính chân thực, chính xác. Nó phản ánh đúng hiện thực
của con người và nhờ tính chính xác chân thực mà giá trị của nhật ký luôn
được đề cao, thu hút người đọc.
Đọc Nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc chúng ta thấy
cuốn nhật ký đã ghi chép chân thực những ngày tháng gian khổ mà đầy ý

11


nghĩa trong ngày kháng chiến hay những vất vả gian khổ, sự thiếu thốn cả về
vật chất lẫn tinh thần của người chiến sĩ. Nếu không chân thực và không
mang tính bao quát được hoàn cảnh cũng như tư tưởng của thời đại thì tác
phẩm chắc chắn sẽ không nhận được chào đón nồng nhiệt như vậy.
*Thứ 3: Nhật ký mang tính chất riêng tư đời thường
Trong cuốn Mãi mãi tuổi hai mươi, Nguyễn Văn Thạc đã quan niệm về
việc ghi nhật ký như sau: “Nếu như người viết nhật ký là viết cho mình, cho
riêng mình thì đọc cuốn nhật ký đó sẽ chân thực nhất, sẽ bề bộn và sầm uất
nhất. Người ta sẽ mạnh dạn ghi cả vào đấy những suy nghĩ tồi tệ nhất mà thực
sự họ có. Nhưng nếu nhật ký mà có thể có người xem nữa thì nó sẽ khác, khác
nhiều. Họ không dám nói thật, nói đúng bản chất sự kiện xảy ra trong ngày,
không dám nói hết và đúng những suy nghĩ nảy nở và thai nghén trong lòng
họ. Mà đó chính là điều tối kị khi viết nhật ký. Nó sẽ dạy cho người viết tự
lừa dối ngòi bút của mình, tự lừa dối lương tâm của mình” [3, 225]
*Thứ 4: Ngôn ngữ của nhật ký là ngôn ngữ trần thuật, lời văn ngắn gọn.
Nhật ký ghi chép sự việc, suy nghĩ, cảm xúc theo ngày tháng ở thì hiện
tại, có thể liên tục cũng có thể ngắt quãng tùy vào người ghi nên các sự việc
thường được kể lại theo lối trần thuật. Ngoài ra chúng ta còn thấy nhật ký là

thể loại độc thoại, tự mình nói với mình, vì thế chúng ta luôn thấy tác giả hay
nhân vật của cuốn nhật ký ở ngôi thứ nhất.
Đặc điểm lời văn của nhật ký là sự ngắn gọn, tự nhiên bởi nó là lời nói
bên trong, là tiếng nói nội tâm về những sự việc riêng tư, những tâm sự thầm
kín. Vì thế lời văn thường kết hợp linh hoạt giữa tự sự và trữ tình, giữa đời
thường và giọng văn trữ tình mượt mà.
Như vậy có thể nói nhật ký vừa mang những nét đặc trưng chung của thể
loại ký vừa mang những nét riêng biệt của nhật ký.

12


1.3. Tác giả Nguyễn Văn Thạc và nhật ký Mãi mãi tuổi hai mƣơi
1.3.1. Tác giả Nguyễn Văn Thạc
Nguyễn Văn Thạc sinh năm 1952 tại làng Bưởi, Hà Nội, là con thứ 10
trong gia đình thợ thủ công. Cha mẹ có xưởng dệt nhỏ, khi chiến tranh gây
phá hoại miền Bắc, gia đình anh sơ tán về xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm.
Nhà nghèo nên Thạc vừa đi học, vừa phải làm thêm phụ giúp bố mẹ nuôi
sống gia đình. Anh học rất giỏi, suốt mười năm học phổ thông anh đều đạt
loại giỏi toàn diện. Năm lớp 7, Thạc đạt giải Nhì học sinh giỏi Văn cấp thành
phố Hà Nội.
Về Cổ Nhuế, Nguyễn Văn Thạc học trường cấp III Yên Hòa B. Hàng
ngày anh phải đi bộ sáu kilomet đến trường học, ngày nghỉ thì đi bộ hơn chục
cây số đến tận Thư viện Hà Nội để đọc sách. Tuy vất vả nhưng Thạc đều học
giỏi các môn, đặc biệt là môn Văn. Trong những năm học phổ thông anh đã
có nhiều tác phẩm văn, thơ được đăng trên báo, được tuyển chọn in thành
sách cùng các tác phẩm của các tác giả thanh thiếu nhi khác như Trần Đăng
Khoa, Hoàng Nhuận Cầm…
Năm lớp 10, anh đạt giải Nhất cuộc thi học sinh giỏi Văn toàn miền Bắc,
năm học 1969-1970. Với thành tích đó anh được xếp vào diện cử đi học đào

tạo tại Liên Xô. Nhưng theo chủ trương chung, phần lớn những học sinh xuất
sắc năm đó đều phải ở lại để tham gia quân đội. Trong khi chờ nhập ngũ,
Thạc đã xin thi đỗ vào khoa Toán- Cơ của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Vừa học năm nhất, anh tự học thêm để hoàn thành chương trình năm thứ 2 và
được nhà trường đồng ý cho lên học thẳng năm thứ 3.
Đây cũng là giai đoạn cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào thời kì mới.
Chiến trường miền Nam ngày càng gay go và ác liệt. Hàng ngàn sinh viên các
trường đại học phải tạm ngừng việc học tập để bổ sung lực lượng chiến đấu
cho quân đội. Nguyễn Văn Thạc đã xung phong vào bộ đội, anh nhập ngũ

13


ngày 6 tháng 9 năm 1971. Sau 6 tháng huấn luyện, tháng 4 năm 1972 anh bắt
đầu hành quân vào chiến trường. Trong thời gian đó anh viết cuốn nhật ký
"Chuyện đời" từ ngày 2 tháng 10 năm 1971 đến ngày 3 tháng 6 năm 1972.
Trước khi hành quân vào chiến trường Quảng Trị, Nguyễn Văn Thạc đã gửi
cuốn nhật ký cùng nhiều lá thư về cho anh trai từ ngã ba Đồng Lộc. Hai tháng
sau, ngày 30 tháng 7 năm 1972, Nguyễn Văn Thạc đã hi sinh tại chiến
trường Quảng Trị khi 20 tuổi.
1.3.2. Giới thiệu cuốn nhật ký Mãi mãi tuổi hai mƣơi
Trải qua bao nhiêu khó khăn, gian khổ, biết bao mất mát và hi sinh nhân
loại thế giới mới được hưởng một nền hòa bình độc lập như ngày hôm nay.
Trước cuộc sống hòa bình ấm no hạnh phúc đó, giới trẻ đang mải miết chạy
theo cuộc sống mới của xã hội hiện đại thì không ít các nhà văn, nhà thơ
những con người của thế hệ trước lại tìm về với quá khứ xa xưa mà vĩ đại để
ghi dấu một thời đại vàng son trong lịch sử dân tộc.
Không chỉ ở Việt Nam mà điều này còn xuất hiện ở nhiều nước trên thế
giới, tiêu biểu là Mỹ. Một trong nhưng nhà văn gây được tiếng vang lớn, cũng
là người khởi đầu trong công cuộc này là Andrew Carroll, tác giả của cuốn

sách War Letters, From American Wars (Những bức thƣ từ những cuộc
chiến tranh của Mỹ), một trong những ấn phẩm bán chạy nhất của The New
York Times vừa đến Việt Nam, trong chặng đường “vòng quanh thế giới”.
Thời điểm đó ở Việt Nam đại tá, nhà văn Đặng Vương Hưng cũng phát động
một cuộc sưu tầm và xuất bản bộ sách Những lá thư và nhật ký thời chiến Việt
Nam. Ý tưởng này của ông được rất nhiều người ủng hộ. Chỉ sau một tháng,
ông đã nhận rất nhiều bức thư và cuốn sổ tay nhật ký từ khắp mọi miền đất
nước gửi về, trong đó có cuốn nhật ký kể về chàng trai Hà Nội hi sinh ở chiến
trường Quảng Trị khi mới bước vào tuổi 20. Hành trình nghiên cứu cuốn nhật
ký ấy đã được nhà văn Đặng Vương Hưng tiến hành để cho ra mắt bạn đọc

14


cuốn nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi chính thức. Dưới đây là những lời kể vô
cùng chân thật mà nhà văn chia sẻ để cuốn nhật ký được ra đời.
“Như một sự “hữu duyên”, đầu năm 2005 tôi đã phát hiện ra bản thảo
nhật ký của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc. Đó là bản phô tô cuốn sổ dày 240 trang
viết tay, mang tên Chuyện đời. Với kinh nghiệm của một người đã nhiều năm
làm báo và làm thơ, tôi đã nhận ra đó là những trang tuyệt bút của một anh
lính binh nhì, trước khi ra trận và hi sinh.
Bản thảo này hội tụ quá nhiều thông tin và chi tiết mang tính điển hình
mà báo chí và các phương tiện tuyên truyền hồi đó đang cần. Đó là chưa kể
đến số phận bi tráng của tác giả, với những trang viết đầy chất nhân văn, lí
tưởng cao đẹp, tình đời và tình người... đại diện cho cả một thế hệ lính sinh
viên trong kháng chiến chống Mỹ. Đó quả thực là một bản thảo có giá trị
nhưng để hấp dẫn người đọc cũng như phản ánh đúng giá trị của nó thì cần có
môt cái tên.
Buổi tối hôm ấy, đi uống cà phê với mấy người bạn trở về, tôi đã thức
trắng đêm. Tên cuốn sách Mãi mãi tuổi hai mươi đã chợt đến, ra đời như thế.

Đó là một cái tên sách khá “đắc địa”, sau này đã trở thành phong trào “Tiếp
lửa truyền thống” của tuổi trẻ cả nước.
Tìm được cái tên sách ưng ý, khiến tôi tự hài lòng và cảm giác thật sung
sướng. Tôi đọc kỹ lại bản thảo một lần nữa, rồi bắt đầu thức đêm để viết lời
giới thiệu Mãi mãi tuổi hai mươi hay là cuộc đời bi tráng của chàng trai giỏi
văn nhất miền Bắc một thời”. Bài viết này, tôi dành nhiều tâm huyết, nên viết
khá nhanh. Chưa an tâm, để tác phẩm có “sức nặng” hơn, tôi còn thuyết phục
được nhà thơ Phạm Tiến Duật (1941-2007) viết “lời bạt” cho cuốn sách và
chuyển bản thảo đến NXB Thanh niên cho biên tập viên Nguyễn Thanh Bình
biên soạn.

15


Ngày 2/5/2005, một buổi họp báo trang trọng và cảm động đã diễn ra tại
phòng họp của Trụ sở Trung ương Đoàn (60 Bà Triệu, Hà Nội). Đã lâu lắm,
NXB Thanh niên mới có một buổi họp báo giới thiệu sách mà các phóng viên
đã tham dự từ đầu tới cuối chương trình. Tất cả các ý phát biểu đều cảm động
và rưng rưng nước mắt.
Ngay hôm sau, 3/5/2005, trong chương trình thời sự Chào buổi sáng,
VTV1 đã dành trọn thời lượng của chuyên mục Mỗi ngày một cuốn sách để
giới thiệu Mãi mãi tuổi hai mươi.”
Nhà báo Hữu Thọ chia sẻ: “Cuốn sách rất hay, rất cảm động và rất có ý
nghĩa với thế hệ trẻ. Đề nghị Đoàn thanh niên vào cuộc ngay, các báo nên ủng
hộ hoạt động này”. Có lẽ nhờ vậy, mà ngay trong tháng 5/2005, hầu hết các
báo đều lần lượt có bài giới thiệu Mãi mãi tuổi hai mươi và cuộc đời của tác
giả Nguyễn Văn Thạc.
Trải qua biết bao khó khăn cuối cùng Mãi mãi tuổi hai mươi cũng được
ra đời và đến tay bạn đọc. Hành trình ra đời cuốn sách không chỉ khẳng định
giá trị bên trong của nó mà còn thấy được những cố gắng, nỗ lực của một thế

hệ đã qua khao khát tìm lại dấu ấn lịch sử hào hùng của dân tộc. Cuốn nhật ký
chính là ngọn lửa tiếp nối truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ hôm nay và
ngày mai, giá trị của nó sẽ còn được lưu truyền mãi về sau.
1.3.3. Giá trị và ý nghĩa của nhật ký Mãi mãi tuổi hai mƣơi trong dòng
chảy văn học Việt Nam hiện đại
Nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi ra đời đã đánh dấu một bước tiến mới
của thể loại nhật ký trong dòng chảy văn học Việt Nam, nó không chỉ khẳng
định tên tuổi của thể loại này mà còn thúc đẩy quá trình phát triển làm cho thể
loại này ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Sức lan tỏa của nhật ký đã
bùng lên “cơn sốt nhật ký chiến tranh”, gây được sức hút lớn và có tầm ảnh
hưởng sâu rộng đến giới trẻ bạn đọc. Cuốn sách nhanh chóng trở thành tâm

16


điểm của dư luận, hàng loạt bài báo được viết ra để ca ngợi giá trị, tầm ảnh
hưởng mà nó mang lại. Lần đầu tiên trong lịch sử xuất bản sách ở Việt Nam,
số lượng xuất bản sách lại tăng đến mức đáng kinh ngạc với khoảng 300.000
cuốn sách đã được tiêu thụ, đó là một con số kỉ lục trong nghành xuất bản.
Trong một cuộc khảo sát của VN Express, cuốn nhật ký Mãi mãi tuổi hai
mươi trở thành sách best seller người ta thống kê trong đó tính chân thật của
tư liệu đạt 24,4%, nói lên ý tưởng sống của thanh niên Việt Nam thời chiến
45,1%, giàu chất văn học 4,1%, dạng kiểu nhật kí 16,8%. Như vậy, có thể
thấy thành công của cuốn nhật ký bao gồm nhiều yếu tố từ mặt thế loại đến
cách viết và nội dung đều góp phần làm nên giá trị của nó. Song cần khẳng
định tính thời sự mà cuốn nhật ký đem lại chính là cái quan trọng nhất góp
phần làm cho Mãi mãi tuổi hai mươi thành công vang dội bởi bối cảnh xã hội
hiện nay có rất nhiều thanh niên chưa xác định cho mình được lối sống đúng
đắn và sống có trách nhiệm. Cuốn nhật ký sau khi ra đời đã có sức lan tỏa đến
thế hệ thanh niên thôi thúc họ sống có ích và cống hiến sức mình cho xã hội.

Có thể thấy giá trị mà nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi mang lại chúng ta,
cuốn nhật ký đã làm rung động hàng triệu con tim của bạn đọc bởi vẻ đẹp tâm
hồn thuần khiết, tình yêu quê hương đất nước nồng nàn thể hiện qua những
cảm nhận bình dị của tác giả trong suốt những chặng đường hành quân. Đó
cũng chính là cuộc sống, con người trong một giai đoạn chiến tranh lịch sử,
giúp chúng ta hiểu thêm về cuộc kháng chiến chống Mỹ từ góc nhìn của
những thanh niên sinh viên thời ấy. Cuốn nhật ký còn có tác dụng truyền lửa,
tiếp thêm sức mạnh cho hàng loạt thê hệ thanh niên Việt Nam, luôn tin tưởng
vào thế hệ cha anh đi trước và cố gắng phấn đấu cho sự nghiệp phát triển
nước nhà mai sau.

17


CHƢƠNG 2
MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG THỂ HIỆN TRONG NHẬT KÝ
MÃI MÃI TUỔI HAI MƢƠI

2.1. Hiện thực chiến tranh
2.1.1. Chiến tranh khốc liệt
Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực cuộc sống, lấy chất liệu từ đời
sống để phản ánh đời sống đồng thời quay trở lại phục vụ cho đời sống. Từ
lâu, chiến tranh luôn là nỗi ám ảnh của nhân loại, nhiều nhà, thơ nhà văn đã in
dấu tên tuổi và tác phẩm của mình với mảng đề tài này. Có thể kể đến Chiến
tranh và hòa bình (Lep-ton-xtoi); Sông đông êm đềm (Mikhail
Aleksandrovich Solokhov); Tam quốc diễn nghĩa (La Quán Trung). Đây đều
là những tác phẩm in đậm dấu ấn chiến tranh, phản ánh quá trình phát triển
của lịch sử dân tộc.
Việt Nam với tư cách là một bộ phận của văn học thế giới đã kế thừa và
tiếp thu có chọn lọc mảng đề tài chiến tranh, biến nó trở thành một đề tài lớn

trong văn học Việt Nam. Cùng với xu thế thời đại, lịch sử dân tộc Việt Nam
từng trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh xâm lược nên đây là một trong những
điều kiện vô cùng thuận lợi để các nhà văn, nhà thơ phản ánh hiện thực vào
văn học. Từ văn học trung đại đến văn học hiện đại đề tài chiến tranh gắn liền
với lòng yêu nước, ý thức dân tộc, tự chủ tự cường luôn được đề cao và khẳng
định. Nếu ở thời kì văn học trung đại với sự góp mặt của các tác giả: Lí
Thường Kiệt, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ … thì
đến văn học hiện đại xuất hiện càng nhiều cây bút tài ba hơn nữa như Nguyễn
Minh Châu, Phạm Tiến Duật, Tố Hữu, Bảo Ninh, Chu Lai.
Nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc cũng là một trong
những tác phẩm tiêu biểu cho đề tài chiến tranh trong bối cảnh đất nước đang

18


bước vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Cả dân tộc đang
bước vào cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất
đất nước. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đặt dân tộc ta trước thử
thách vô cùng ác liệt, gay gắt, đòi hỏi huy động triệt để mọi tinh thần và lực
lượng cả dân tộc. Với tư cách là một người chiến sĩ đang trực tiếp chiến đấu
trên chiến trường, Nguyễn Văn Thạc đã ghi lại hiện thực chiến tranh một cách
chân thực và sinh động, rõ nét.
Hiện thực chiến tranh dưới con mắt của anh hiện lên vô cùng khốc liệt.
Đó là hiện thực cuộc sống với những thiếu thốn, khó khăn vô cùng. Đời sống
nhân dân vốn khó khăn thì nay trong cảnh chiến tranh càng trở nên khổ cực,
gia đình phải li tán, mẹ xa con, vợ xa chồng, con xa cha, thế hệ thanh niên,
người chồng, người cha lên đường ra mặt trận. Gánh nặng dồn nén lên vai
người phụ nữ khi họ phải vừa làm mẹ vừa làm cha gánh vác công việc trách
nhiệm gia đình. Trẻ thơ chịu nhiều thiệt thòi, không được cắp sách đến trường
khi mà cuộc chiến đấu còn gian khổ trường kì, cuộc sống nhân dân thiếu thốn,

vất vả trăm bề.
“Tội nghiệp dân ở đây cũng khổ. Nheo nhóc đến thế thì cũng hiếm. Nhà
nào nhà nấy vách hở tung. Tụi trẻ bẩn thỉu và mãi tối mịt mới ăn cơm chiều.
Cuộc sống của đất nước còn nhiều lam lũ. Đầu tắt mặt tối mà nào có đủ
miếng ăn. Rồi mất cắp. Rồi đánh chửi nhau. Rồi thiên tai, địch họa. Cơm độn
ngô rồi còn độn sắn.” [23, 110]
Chiến tranh không chỉ làm cho đời sống nhân dân lam lũ khổ cực mà
những người lính nơi chiến trường mới chính là những người chịu nhiều thiếu
thốn, khổ cực. Cuộc sống nay đây mai đó khiến họ phải thích nghi, phải học
cách chấp nhận. Những chàng trai như Thạc đang ngồi trên giảng đường đại
học khi bước vào cuộc sống người lính vô cùng bỡ ngỡ và xa lạ nhưng họ
cũng nhanh chóng hòa nhập trong môi trường tập thể, mặc dù điều đó là

19


×